Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 04:27:14 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Saburo Sakai - Những trận không chiến dữ dội nhất lịch sử Thái Bình Dương  (Đọc 54660 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
baokhanhnbk
Thành viên
*
Bài viết: 1089



« Trả lời #50 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2010, 04:56:21 pm »

Đêm đó, sau bữa ăn, Hatsuyo bắt đầu trách cứ về việc chậm lập gia đình của tôi. Giọng nàng nghiêm trang một cách đáng buồn cười. Tôi trả đũa ngay. “Tại sao em vẫn một mình, em của anh? Chưa có anh chàng nào đủ điều kiện phải không?”

Chú thím tôi ngừng nói chuyện, quay lại cười chúng tôi. “Anh em bây ồn ào quá!”. Chú tôi chế nhiễu.

Tôi cười: “Con không hiểu tại sao Hatsuyo không kiếm ra một ông chồng. Coi cô ta kìa. Đẹp như một minh tinh màn bạc, và có bao nhiêu cô tự phụ đánh đàn dương cầm giỏi hơn ?” tôi vừa nói với chú thím vừa nhìn Hatsuyo. “Con tin rằng chú có thể lựa chọn cho cô ta một tấm chồng xứng đáng.”

Cả chú thím tôi đều cười, nhưng Hatsuyo xụ mặt. Nàng liếc tôi rồi nhìn đi nơi khác. Anh mắt của nàng xa xôi.

“Anh nói không phải sao, Hatsuyo ?”

Nàng không lý gì đến tôi. Tôi giật mình, nàng giận rồi. Tôi chuyển vấn đề ngay.

“Hatsuyo, dạo dương cầm cho anh nghe đi! Từ khi nghe em dạo đàn đến giờ đã lâu lắm rồi.”

Nàng nhìn tôi đầy nghi vấn.

“Có nhớ lần phép đầu tiên của anh không? Em dạo nhạc của…, để anh nhớ coi… Phải rồi của Mozart. Em có thể dạo lại bản nhạc đó cho anh nghe không?”

Thay cho câu đáp, Hatsuyo bước đến chiếc dương cầm và ngồi xuống.

Tiếng nhạc dứt. Hatsuyo ngồi yên hồi lâu, rồi quay lại nhìn tôi với ánh mắt lạ lùng. Đôi mắt mở lớn và dò hỏi ấy. Nàng dịu dàng nói: “Saburo, em muốn dạo một khúc nhạc khác, đặt biệt cho anh. Hãy lắng nghe. Khúc nhạc ấy sẽ nói với anh những gì mà chính em không thể thốt nên lời.”

Nàng có vẻ lạ lùng làm sao! Mặt nàng phơn phớt một màu hồng e thẹn và lảng nhanh đôi mắt nhìn tôi chăm chăm.

Nàng dạo khúc nhạc một chập nữa. Tiếng nhạc trầm bổng. Tôi nhìn cô gái nầy. Chưa bao giờ tôi thấy nàng như vậy. Ý nghĩa gì khi nàng nói: “Khúc nhạc sẽ nói với anh những gì mà chính em không thể thốt nên lời.”

Bỗng nhiên tôi hiểu, tôi đang nhìn Hatsuyo, không nhìn như một cô gái nhỏ, không như một người em họ của tôi, nhưng tôi nhìn nàng như một thiếu nữ! Lần đầu tiên, tôi thật sự “ nhìn thấy” nàng, chăm chú trên phím đàn, mười ngón tay nhảy múa, khuôn mặt nghiêm trang, như rót hết tâm hồn vào tiếng nhạc.

Hatsuyo ? Và tôi ? Chưa hẳn đúng. Nhưng, nàng không còn là một cô bé nữa. Hãy thức tỉnh, Sakai, anh thật ngu muội. Nàng là một thiếu nữ. Nàng đang nói với anh, trong giây phút nầy, rằng nàng yêu anh! Bây giờ tôi hiểu những gì mà nàng định nói. Trong lúc bồng bột, tôi muốn đáp trả. Không thể được, tôi nhủ thầm. Nhưng đó là sự thật. Tôi nhớ lại lúc còn trong bệnh viện, khi nàng choàng tay qua tôi và thổn thức nói rằng nàng tin chắc tôi sẽ được bay trở lại.

Nàng đã yêu tôi lâu hơn tôi tưởng. Vào lúc ấy, trong sâu thẳm của lòng tôi, tôi cũng yêu nàng. Nhưng tôi có thể làm gì được ? Tôi từ chối tình yêu của Fujiko bởi lẽ tôi đui mù một nửa, tôi có thể làm khác hơn với tình yêu thầm kín của Hatsuyo không ? Không.

Khi tiếng đàn chấm dứt tôi cố giữ bình tĩnh, không hề lộ vẻ gì cho nàng thấy tôi đã cảm thông nỗi lòng của nàng. Tôi ngồi lại một lúc cho phải phép rồi kiếu từ đi nghỉ. Nhưng trải qua nhiều giờ, tôi không sao chợp mắt được.

Suốt thời gian được bổ nhiệm đến Yokusuka, tôi thường viếng thăm Đông Kinh. Trong 18 tháng vắng mặt của tôi, thủ đô đã thay đổi. Màu sắc và sự vui tươi biến mất. Đường phố ưu sầu, mất hẳn sinh động. Dân chúng cúi đầu bước đi với vẻ trầm tư. Con cái, cha anh, chú bác, thân thuộc của những người nầy đã ra đi, và không bao giờ trở lại.

Những tiệm buôn đã cạn hàng hoá, bán theo khẩu phần hiện là một vấn đề bắt buộc. Dân chúng kiên nhẫn đứng nối đuôi trong gió lạnh, chờ đợi để nhận thức ăn. Tuy nhiên thủ đô vẫn nguyên vẹn, ngoại trừ một cuộc không tập duy nhứt xảy ra vào năm 1942.

Nhưng chiến tranh lấn bước đến Nhật Bản vào tháng sáu năm 1944, gây ảnh hưởng không tốt đối với công chúng. Vào ngày 15 tháng sáu, dân chúng Đông Kinh đã xúc động khi nghe tin 20 oanh tạc cơ địch đã bay một mạch từ Trung Hoa đến tấn công một thành phố phía Bắc Kyushu. Cuộc oanh tạc không gây hư hại bao nhiêu. Nhưng trong nhà và trong các cửa tiệm, trong những cơ xưởng và trên đường phố khắp nơi ở Nhật, ai ai cũng bàn tán đến vụ oanh tạc, nói về việc các chiến đấu cơ của chúng tôi đã thất bại không chận đứng nổi các oanh tạc cơ địch. Tất cả đều có chung những câu hỏi: thành phố nào bị oanh tạc kế đó ? Khi nào ? Và bao nhiêu oanh tạc cơ ?

Đài phát thanh lại loan đi một tin tức gây lo âu khác. Người Mỹ đã đổ bộ lên Saipan. Chiến tranh đã đến gần quê hương bằng một lối khác nữa. Những tấm bản đồ được mở ra, và người dân Nhật nhìn thấy hòn đảo nhỏ li ti sát bờ biển Nhật Bản. Và họ nhìn lẫn nhau. Họ đã bắt đầu đặt những câu hỏi, thì thầm, về các tin tức chiến thắng loan đi thường xuyên trên đài phát thanh. Làm sao Nhật Bản có thể nghiền nát chiến hạm, tiêu diệt phi cơ, đánh tan lực lượng của đối phương một khi Saipan đã bị xâm phạm. Đó là một câu hỏi mà ai ai cũng đặt ra, nhưng chỉ một vài người dám đưa ra lời giải đáp.
Logged
baokhanhnbk
Thành viên
*
Bài viết: 1089



« Trả lời #51 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2010, 04:57:12 pm »

Tiếp liền tin tức về Saipan, chúng tôi nhận được tin các lực lượng hùng hậu thuộc hạm đội của chúng tôi tiến đến quần đảo Mariana, tham dự vào trận đánh mà mọi người ở Yokosuka đều biết sẽ là một trong những trận đánh quyết định cuộc chiến. Chúng tôi không còn mưu định đổ bộ lên các hòn đảo bên ngoài, chúng tôi đang canh gác ở ngay những cổng bước vào quê hương chúng tôi.

Sáng hôm sau, không đoàn Yokosuka nhận được lịnh di chuyển đến đảo Iwo Jima. Bộ Tư Lệnh Tối Cao của chúng tôi e rằng một khi Saipan được củng cố, người Mỹ sẽ bước thêm bước nữa, bằng cách tấn công địa điểm chiến lược nầy. Với Iwo Jima trong tay đối phương, toàn thể nước Nhật sẽ bị uy hiếp.
Sự thật, Iwo Jima không bị xâm chiếm vào mùa hạ năm 1944 là một gây kinh ngạc cho chúng tôi. Phòng thủ trên đảo nầy lúc đó rất yếu kém. Chỉ cần một phần lực lượng đổ bộ lên Saipan, địch quân có thể đặt chân lên các bãi biển Iwo Jima và tẩy sạch sức đối kháng của lực lượng phòng thủ trên đảo dễ dàng. Không hiểu vì lý do nào, cuộc đổ bộ bị trì hoãn nhiều tháng, cho phép Lục Quân và Hải Quân Nhật đổ người và vũ khí lên hòn đảo chiến lược nhỏ bé nầy.

Khi không đoàn Yokosuka nhận được lịnh thiết lập một mạn lưới bảo vệ không phận hòn đảo. Không đoàn Yokosuka chỉ có vỏn vẹn ba mươi chiến đấu cơ khả dụng. Ba mươi chiến đấu cơ Zero, giống như mấy chiếc Zero mà tôi đã từng bay ở Trung Hoa gần 5 năm trước đây. Chỉ có bao nhiêu đó! Tuy nhiên, cuộc đổ bộ chưa xảy ra. Chúng tôi coi biến cố nầy như một phép lạ.

Trung tá Nakajima đã trở về Yokosuka. Một tháng sau khi ông rời Toyohashi để đến Rabaul, Đông Kinh đã gọi ông về và chỉ định chức vụ chỉ huy trưởng không đoàn Yokosuka. Bây giờ, sau một năm trên đất liền, ông ta lại ra đi nữa. Lần nầy ông sẽ đối diện với một mặt trận bi tráng hơn bất kì mặt trận nào khác trong đời chỉ huy của ông.

Tôi nhận được lịnh trình diện ông trong văn phòng. “Sakai, tại sao anh không đi với tôi lần nầy ?” ông hỏi. “Anh biết là tôi nôn nóng muốn bay trở lại với anh đến mức nào không. Tôi bất cần những gì mấy thằng bác sỹ cứ lải nhải. Hiện thời, đối với tôi, anh vẫn là một phi công xuất chúng. Anh đã chứng tỏ điều nầy mỗi khi tôi thấy anh bay.”

“Saburo, tôi cần anh đi với tôi. Gần lắm. Anh sẽ giống như một vị thần hộ mạng đối với những phi công mới nầy. Có anh bay với chúng tôi, tinh thần của họ sẽ lên cao. Họ sẽ theo anh bất cứ nơi nào.”

“Trung tá cần phải hỏi tôi nữa sao ?” Tôi nói. “Trung tá yêu cầu tôi đi với trung tá phải không ? Bao nhiêu lần tôi đã chạy chọt! Bao nhiêu lần tôi đều bị lắc đầu, anh không thể bay được đâu, Sakai, anh nửa đui nửa sáng mà còn bay với bổng gì nữa, Sakai. Dĩ nhiên, tôi muốn đi! Tôi muốn đi với Trung tá. Tôi muốn chiến đấu trở lại!”.

Thời gian đã đổi thay. Không một viên y sỹ nào tỏ vẻ phản đối ý định của tôi. Những lời đầu môi để giữ một viên phi công độc nhãn đứng bên ngoài cuộc chiến không còn nữa. Nhật Bản không thể nào lo nghĩ đến những chi tiết nhỏ mọn như vậy nữa. Nhật Bản đang lâm nguy, và một phi công độc nhãn có đầy đủ kinh nghiệm chiến đấu như tôi vẫn phải gánh vác trách nhiệm.

Tôi lại ra đi. Xứ sở đang cần tôi.

Chúng tôi nhận được lịnh đến Iwo Jima tức khắc. Chúng tôi không có cả thì giờ liên lạc với gia đình. Không có những lời từ biệt.

Vào sáng ngày 16 tháng sáu, chúng tôi cất cánh từ Yokosuka và bay trong đội hình, với tôi dẫn đầu, trực chỉ hòn đảo xa xôi. Nhưng chúng tôi không đến được mục tiêu. Sau 100 dặm bay trong những đám mây dầy đặc sà thấp và những cơn mưa như thác lũ, chúng tôi bắt buộc phải quay về Yokosuka. Mùa mưa của Nhật Bản đã bắt đầu. Nakajima và tôi, cũng như một số phi công kinh nghiệm khác có thể bay đến Iwo Jima dễ dàng, nhưng đa số ba mươi phi công thuộc không đoàn đều là tay mơ. Mưa bão sẽ đánh dạt họ ra khỏi đội hình không biết lúc nào, và điều đó có nghĩa là mạng sống của họ tiêu luôn.

Iwo Jima là một hòn đảo nhỏ cách phía nam Yokosuka 650 dặm. Bề ngang lớn nhứt của hòn đảo chỉ khoảng hai dặm. Trên mặt bản đồ thế giới, Iwo Jima có vẻ như là một hòn đá cuối cùng của một loạt hòn đá trải dài từ Yokosuka đến Guam. Tuy nhiên, các bản đồ thường đưa đến những sai lầm tai hại, và trên đường bay bao la của Thái Bình Dương, khoảng cách giữa mỗi điểm nhỏ có thể được phỏng định chênh lệch một cách khủng khiếp. Quả thật, không rada, ngay cả vô tuyến cũng không có, chúng tôi không dám liều lĩnh, vì như vậy hầu hết phi cơ của chúng tôi có thể đi đời.

Chúng tôi đã từng gặt hái kinh nghiệm bi thảm về vấn đề nầy. Đầu năm 1943, nhiều phi đoàn chiến đấu cơ Lục Quân, được lái bởi những phi công không có một chút kinh nghiệm nào trong các phi vụ vượt đại dương, cất cánh ở Nhật Bản để đến một căn cứ ở phía Nam. Trên đường đi họ chạm trán với tình trạng thời tiết tồi tệ, nhưng họ không chịu quay về. Kết quảm hầu hết phi cơ đều biến mất trên khoảng không trình vô tận của Thái Bình Dương.

Chúng tôi cố lên đường một lần nữa vào sáng ngày 17 tháng sáu. Lần nầy chúng tôi rời khỏi Yokosuka chưa đầy 100 dặm thì bị các trận bão đẩy bật trở lại, mặc dù theo báo cáo thời tiết ở Iwo Jima và quần đảo Mariana rất tốt đẹp. Chúng tôi nằm lì trong doanh trại, nghe tin tức do đài phát thanh loan đi liên quan đến đoàn quân trú trên đảo Iwo Jima. Theo đó, đối phương đã tung các cuộc không tập trên hòn đảo nầy suốt ngày suốt đêm.

Bốn lần, chúng tôi cất cánh, và bốn lần chúng tôi đều bị các trận bão đẩy bật trở lại. Vào ngày 20 tháng sáu, khi chúng tôi cố gắng lên đường lần thứ năm, tình trạng thời tiết vẫn hoàn toàn không bảo đảm an toàn cho phi vụ. Tuy nhiên, Nakajima quyết định lướt qua. Chúng tôi để những phi công không kinh nghiệm bay ở cánh và đuôi, rồi tất cả xông vào mưa bão mù mịt.

Không ai trong chúng tôi biết được vào ngày nầy nhiều hạm đội quan trọng của chúng tôi đã chịu đựng một cú đấm thảm khốc do phi cơ và trọng pháo của lực lượng đặc nhiệm đối phương ở quanh quần đảo Mariana tung ra.

Cuối cùng, chúng tôi thoát ra khỏi trận mưa bão. Chúng tôi bay được 650 dặm, và nhiều phút sau đó, đỉnh của ngọn núi lửa trên đảo Iwo Jima hiện ra lờ mờ trên mặt nước, Nakajima bắt đầu đảo một vòng rộng lớn trên phi đạo thứ nhì, thiết lập trên ngọn núi Motoyama, nằm chính giữa hòn đảo. Tôi những tưởng những phi đạo lấm bụi ở Lae là tồi tệ, nhưng phi đạo nầy còn tồi tệ hơn. Đáp xuống sân bay trên một hàng không mẫu hạm có lẽ còn đơn giản hơn đáp xuống phi đạo khủng khiếp ở dưới kia. Hai phía của phi đạo vách đá dựng đứng. Chỉ cần đáp trật một chút, chúng tôi sẽ biến thành trái cầu lửa ngay. Và một hòn đá cao chớn chở chắn ngang cuối phi đạo chờ đợi những phi công không thận trọng.
Logged
baokhanhnbk
Thành viên
*
Bài viết: 1089



« Trả lời #52 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2010, 04:59:23 pm »

Nakajima từ chối thử sức các phi công của ông trên phi đạo cấm kị nầy. Ông dẫn cả nhóm trở lại phi đạo thứ nhứt, nằm ở mặt phía nam của hòn đảo. Phi đạo nầy rộng và dài. Lần lượt, các chiến đấu cơ hạ cánh.

Đã có hơn 90 phi cơ đậu dọc theo phi đạo, không còn chỗ trống nào dành cho các chiến đấu cơ của chúng tôi.

Nakajima đưa tay ra khỏi phòng lái và vẩy ra dấu cho chúng tôi đi theo ông. Một con đường dốc lộng gió dẫn từ phi đạo chánh đến phi đạo phụ dài hơn một dặm. Tôi cảm thấy buồn cười khi chạy cà xốc men theo con đường nầy. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, tôi mới biết leo lên sườn núi với một chiến đấu cơ và một dọc ba mươi chiến đấu cơ phía sau.

Một tiểu đoàn bộ binh đã kinh ngạc đến nỗi há hốc khi nhìn đoàn công voa nối đuôi kêu vang rầm trời và quậy bụi mù mịt của chúng tôi. Nhiều người đưa tay chỉ chỏ, cười nghiêng ngửa. Riêng chúng tôi khó thể nào cười nổi. Lái một chiến đấu cơ lên dốc, với một chiếc ở phía trước và một chiếc khác quay cánh quạt vù vù ở phía sau trong khi phải cố gắng đối phó với mấy chỗ lượn cong, hốc búa còn hơn duy trì đội hình bay khít khao trong một đám sương mù dầy đặc.

May mắn thay, chúng tôi đến Iwo Jima trong thời gian các trận đánh lắng dịu tạm thời. Chỉ vào ngày trước đó, hòn đảo đã náo động dưới hàng ngàn quả đại pháo của lực lượng đặc nhiệm đối phương chạy dọc theo bờ biển. Hiện thời đối phương đã quay hướng đến Saipan để dập các pháo đài trên hòn đảo nầy.

Trong ba ngày, chiến tranh buông tha Iwo Jima. Không một người đàn ông lành mạnh nào muốn ở đây. Nó vừa ảm đạm vừa bất an, không cảm thấy dễ chịu như ở Rabaul. Nhưng chúng tôi thích nghi với hoàn cảnh, lợi dụng thời gian yên tĩnh giả tạo để trầm mình trong các suối nước nóng chảy róc rách thường xuyên qua các kẻ đá từ bên nầy đến bên kia phi đạo.

Cuộc chiến chưa bao giờ kì dị hơn đối với chúng tôi. Chúng tôi biết được tin hạm đội của chúng tôi đã tan tác trong trận hải chiến ở quần đảo Mariana. Và tất cả các phi công của hàng không mẫu hạm đều chết rụi không còn một mống. Những lực lượng đổ bộ của địch quân có sức mạnh siêu việt là điều không thể nghi ngờ được. Với sự yểm trợ của hàng nhiều trăm phi cơ, hàng nhiều ngàn đại pháo trên các chiến hạm, những lực lượng nầy chắc chắn sẽ diệt các đơn vị Nhật trên đảo Saipan đến người cuối cùng.

Các sỹ quan của chúng tôi đã đến hồi tuyệt vọng. Họ biết rõ Saipan cần được giúp đỡ. Nhưng chúng tôi có thể làm gì được? Một cuộc tấn công toàn lực bằng chiến đấu cơ của chúng tôi chỉ hiệu quả nhứt thời, nếu không nói là vô nghĩa. Bởi lẽ Saipan nằm cách phía Nam Iwo Jima đến 600 dặm. Mặt khác, nếu chúng tôi rời Iwo Jima mà không để lại một số chiến đấu cơ khả dụng, lúc đó người Mỹ có thể thừa nước đục thả câu, đập tan hệ thống phòng thủ và quét sạch sức đề kháng yếu ớt trên hòn đảo.

Cuối cùng, quyết định được đưa ra: chiến đấu cơ ở lại, nhưng các oanh tạc cơ sẽ cất cánh tấn công các tàu chiến Hoa Kỳ trên đường chạy đến Saipan. Mỗi cuộc tấn công đều được thực hiện vào ban đêm, các oanh tạc cơ không hộ tống sẽ cất cánh từng nhóm tám hoặc chín chiếc.
Khoảng thời gian giữa mỗi phi vụ oanh tạc cơ đi và về là một khoảng thời gian vô tận. Các phi công của chúng tôi đã thi hành nhiệm vụ mới với lòng dũng cảm tột cùng và đã đạt được một số hiệu quả. Nhưng mà những hiệu quả nầy có nghĩa lý gì ? Đó chỉ là cái đập cánh của lũ thiêu thân.

Vào ngày 24 tháng sáu, sự yên tĩnh giả tạo của Iwo Jima biến mất. Vào khoảng 5 giờ sáng, còi báo động không tập rú lên đinh tai nhức óc. Ra đa sớm phát hiện nhiều nhóm phi cơ địch đông đảo còn cách phía Nam Iwo Jima 60 dặm và đang lướt đến nhanh chóng.

Tất cả chiến đấu cơ trên hòn đảo, hơn 80 chiếc Zero, chạy ra hai phi đạo và cất cánh. Các cơ khí viên mang những chiếc oanh tạc cơ Betty và Jill còn trên mặt đất vô hầm trú ẩn.

Thời gian chờ đợi bấy lâu đã được đền bù. Tôi lại được bay một chiếc Zero chiến đấu, và trong một giây lát đây tôi sẽ biết sự khéo léo của mình còn hay không.

Một đám mây treo lơ lửng 13.000 bộ trên bầu trời. Và các chiến đấu cơ chia làm hai nhóm, 40 chiếc vượt lên trên, và 40 chiếc nhóm của tôi duy trì phía dưới đám mây.

Ngay khi tôi vừa lấy thăng bằng sau khi vượt lên, một chiến đấu cơ địch hùng hổ chúi xuống xuyên qua các đám mây, kéo theo sau một vệt lửa và khói màu đen tật dài. Tôi liếc mắt, nhận ra đó là loại chiến đấu cơ mới, với đôi cánh rộng và mũi bẹt, chiến đấu cơ Grumman F6F Hellcat mới mà tôi đã nghe nói đến nhiều lần. Tôi vung phi cơ ra một vòng thật rộng và nhìn lên… một chiếc Hellcat khác ló khỏi các đám mây, chúi thật thẳng xuống, với vệt khói túa ra phía sau.

Phía sau tia khói của chiếc chiến đấu cơ nầy, hàng chục chiếc Hellcat khác cũng nối đuôi nhau chúi thẳng xuống. Tất cả 40 chiến đấu cơ đều xoay hướng và vượt lên để đối đầu trực tiếp với các phi cơ địch. Bọn phi công Mỹ không một chút lưỡng lự nào, lướt đến tấn công. Rồi phi cơ toả khắp bầu trời, xoay tít từ tầng mây trên cao cho đến mặt biển dưới thấp, khai diễn một trận không chiến kinh tâm động phách. Các đội hình bị cắt nát ra từng mảnh.
Logged
baokhanhnbk
Thành viên
*
Bài viết: 1089



« Trả lời #53 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2010, 05:00:32 pm »

Như chớp, tôi xoay trôn ốc và lăn tròn đến sát đuôi một chiếc Hellcat, và ấn cò súng ngay khi chiếc phi cơ lọt vào tầm nhắm. Tôi lăn ra xa và nhận thấy những viên đạn của tôi đều bay trong không khí. Tôi xoay nửa vòng hình trôn ốc, lướt đến thật sát, cố tâm rót đạn vô bụng của đối thủ. Viên phi công địch mưu tranh tài xoay vòng tròn với tôi. Tôi chỉ chờ có vậy. Cạnh sườn của hắn nằm gọn trong tầm nhắm, và tôi quất ngay một loạt đại bác thứ hai, đạn chạm dọc theo thân phi cơ. Hai giây kế đó, những đám khói đen dầy đặc tuông ra và chiếc phi cơ chúi như gió lốc xuống biển.

Khắp nơi, tôi nhìn thấy nhiều chiến đấu cơ kéo những vệt khói dài bốc cháy và nổ tung. Lúc tôi đang nhìn, nhiều vệt đạn rót từ phía dưới lên cánh tôi. Tôi cấp tốc gạt cần lái sang trái, lăn tròn một vòng, tôi đã ở sau đuôi đối thủ và ấn cò súng. Trật. Hắn chúi xuống, mau hơn loạt đạn thứ hai của tôi.

Tôi vừa nguyền rủa sự lơ đãng vừa chửi bới con mắt đui mù của mình. Bởi con mắt nầy đã khiến tôi hầu như không nhìn thấy một phía. Nhanh chóng, tôi tháo hết dây dù buộc quanh thân, do đó tôi có thể xoay trở dễ dàng trên ghế ngồi để nhìn mọi hướng.

Ít nhất cũng có nửa tá Hellcat đang ở sau đuôi tôi, sẵn sàng trong vị thế khai hoả. Các họng súng trên đôi cánh của một chiếc bắt đầu rực lửa, một chiếc khác vừa lăn tròn vừa bắn, nhưng tất cả đều không trúng. Sáu chiến đấu cơ địch lướt qua hai bên cánh tôi và vừa vượt lên vừa xoay về phía phải.

Lần nầy không dễ dàng như vậy được! Không! Tôi gia tăng tốc lực khẩn cấp và lộn ngược về bên phải, xoay theo sáu chiến đấu cơ. Tôi liếc nhìn sau lưng, không có bóng dáng chiếc phi cơ nào khác. Khoảng cách giữa tôi và chiếc phi cơ địch gần nhứt thâu hẹp một cách nhanh chóng. Còn cách 50 thước, tôi khai hoả, nhìn thấy những viên đại bác chạm vô thân phi cơ và biến mất trong phòng lái. Lửa sáng lòa và khói xuất hiện sau kiếng che gió, một giây kế đó, chiếc Hellcat bay lồng lộn, một bên cánh trề hẳn xuống và một bựng khói tuôn ra càng lúc càng cuồn cuộn.

Nhưng có thêm chiến đấu cơ địch sau đuôi tôi. Bỗng nhiên tôi không muốn dây dưa với chúng nữa. Nỗi mệt mỏi bao trùm lấy tôi, giống như một chiếc khăn choàng kín mít. Những ngày trước đây ở Lae, tôi sẽ không bỏ phí một giây phút nào để đảo chiếc Zero lại và mặt đấu mặt với đối phương. Nhưng hiện thời, tôi cảm thấy năng lực của tôi hầu như đã bị hút cạn. Tôi không muốn chiến đấu nữa.

Tôi chúi xuống, bay về phía Bắc với hết tốc lực. Mấy chiếc Hellcat quay lại. Bấy giờ, tôi bỗng cảm thấy hàng trăm trận không chiến mà tôi từng tham dự là một cái gì đáng chán ghét nhứt.

Tôi liếc nhìn xuống bên phải và há hốc miệng. Một chiếc Hellcat lộn nhào dữ dội, cố để thoát khỏi một chiếc Zero đeo dính theo bên đuôi, khoảng cách không hơn 50 thước. Chiếc Zero vừa rượt vừa bắn. Ngay lúc ấy một chiếc Hellcat khác đuổi theo chiếc Zero. Lúc tôi còn đang nhìn diễn biến, một chiếc Zero nữa chúi từ trên cao và lộn vòng lại phía sau chiếc Hellcat thứ hai. Rồi hết chiếc nầy đến chiếc khác nhảy vào vòng đua, kéo thành hàng dài như một con trường xà. Hình như kể từ chiếc Zero thứ hai, chiếc nào chiếc nấy cứ nhắm mắt nhắm mũi rượt đuổi, không biết rằng phía sau mình còn có kẻ rượt theo nữa. Và phi cơ nào cũng khai hoả vào mục tiêu trước mặt. Hellcat, Zero, Hellcat, Zero, Hellcat, Zero. Thật lạ lùng, không một phi cơ nào, cả Nhật lẫn Mỹ, lưu ý đến việc bảo vệ yếu điểm phía sau của họ.

Chiến đấu cơ dẫn đầu, chiếc Hellcat, bỗng chúi nhủi dữ dội sau khi nhả ra khói đen, rồi đâm đầu xuống biển. Hầu như cùng lúc, chiếc Zero truy đuổi cũng nổ tung, biến thành trái cầu lửa. Chiếc Hellcat thứ nhì, bay ở hàng thứ ba, vừa tung cú ra đấm chết người, chỉ sống sót khoảng hai giây, đạn đại bác từ chiếc Zero thứ hai, bay ở hàng thứ tư, xé vứt một bên cánh của nó. Khi cái cánh vừa lìa khỏi thân chiếc Hellcat, một bựng lửa túa ra làm lòa cả mắt, đánh dấu sự nổ tung của chiếc Zero thứ hai. Và khi chiếc Hellcat lạng ra xa khỏi tiếng nổ do nó vừa tạo ra, những viên đạn đại bác của chiếc Zero thứ ba xé nát phòng lái của nó ra làm muôn mảnh.

Khi năm chiến đấu cơ đâm đầu xuống biển hết, chiếc Zero cuối cùng lộn nhào để xoay hướng và bay đi. Đó là kẻ sống sót duy nhứt của cuộc hỗn chiến kinh tâm.

Tôi lượn chầm chậm, phía Bắc Iwo Jima, hít thở không khí. Cơn choáng váng tan biến, tôi quay lại khu vực chiến đấu. Trận chiến đã kết thúc. Vẫn còn nhiều chiếc Zero vừa Hellcat trên bầu trời, nhưng hai phía bay thành từng nhóm riêng rẽ và cách rời hẳn nhau.

Phía trước và bên phải, tôi thấy 15 chiến đấu cơ Zero thấp thoáng trong đội hình. Tôi bay đến để kết hợp. Từ phía dưới, tôi lướt lên…

Hellcat! Bây giờ tôi mới biết tại sao bác sĩ đã khăng khăng phản đối việc tôi chiến đấu trở lại. Chỉ còn một mắt, tầm nhìn xa của tôi quả yếu kém, những chi tiết nhỏ trên thân phi cơ tôi không sao nhìn thấy. Cho đến khi những ngôi sao màu trắng nổi bật hai bên cánh của các chiếc phi cơ trở thành rõ rệt, tôi mới biết mình sai lầm. Tôi không phí một giây nào trong việc chận đứng nỗi sợ hãi đang bao trùm lấy mình. Tôi lộn về phía trái, xoay thật ngặt và chúi thẳng xuống, hy vọng mấy chiếc không phát hiện tôi.

Đâu được may mắn như vậy. Đội hình Hellcat vỡ ra và cuộc truy đuổi khai diễn. Tôi có thể làm gì ? Không còn một cơ hội nào nữa.

Không, vẫn còn một lối thoát, một cơ hội mong manh. Tôi hầu như bay ngay trên Iwo Jima. Nếu tôi cứ chạy quanh quẩn, một việc không dễ, chờ cho đến khi xăng của các chiến đấu cơ địch cạn dần và bắt buộc phải quay về căn cứ.

Bấy giờ tôi lượng định tốc lực của những chiến đấu cơ mới nầy. Chỉ trong mấy giây chúng đã tiến sát. Nhanh quá đỗi! Không thể chạy được…
Logged
baokhanhnbk
Thành viên
*
Bài viết: 1089



« Trả lời #54 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2010, 05:01:17 pm »

Tôi xoay ngược lại thật mau, và dọa các phi công địch bằng cách từ phía dưới vượt lên, xoay một vòng hình trôn ốc.

Tôi kinh ngạc, phi cơ địch không phân tán. Chiến đấu cơ dẫn đầu đáp trả bằng cách xoay hình trôn giống như tôi. Tôi lại xoay nữa, lần nầy thâu hẹp đường bán kính hơn. Đối thủ không nhường tôi một bước nào.

Một chiếc Airacobra hoặc một chiếc P.40 sẽ thua cuộc nếu thi tài với tôi bằng lối nầy, ngay cả loại chiến đấu cơ Wildcat có thể giữ vòng xoay khá lâu cũng không thể chống lại một chiếc Zero. Nhưng những chiếc Hellcat nầy, một loại phi cơ nhanh nhẹn nhứt của địch quân mà tôi mới thấy lần đầu. Và tôi đã lọt vô bẫy. Mười lăm chiến đấu cơ địch lần lượt điền vào vòng xoay.

Giây phút kế đó, tôi nhận thấy mình đang xoay chính giữa một sợi dây khổng lồ do mười chiếc Hellcat tạo thành. Bất cứ phía nào tôi cũng đều thấy những cái cánh rộng lớn với những ngôi sao màu trắng. Nếu có một viên phi công nào bị vây trên trời, viên phi công ấy chính là tôi.

Tôi có rất ít thì giờ để suy ngẫm về sự bất hạnh của mình. Bốn chiếc Hellcat phá vỡ vòng xoay đâm chúi vô tôi. Chúng quá nôn nóng. Tôi lăn tròn và thoát dễ dàng.

Nhưng tôi đã phơi lưng cho nhiều chiến đấu cơ khác. Một nhóm bốn chiếc thứ nhì tách ra khỏi vòng vây, ngay phía sau tôi.

Tôi chạy! Gia tăng hết tốc lực để thoát ra khỏi tầm súng đối phương. Tôi hành động kịp lúc. Bốn chiến đấu cơ đầu tiên, sau khi chúi xuống vồ hụt tôi, đang vượt lên để tiếp tục vồ nữa.

Tôi ấn chân phải lên bàn đạp bẻ lái, đảo chiếc Zero sang trái. Kế đó là cần điều khiển, gạt sang bên trái, lăn tròn nhiều vòng. Những tia đạn loé sáng dưới cánh phải tôi, tiếp liền theo một chiếc Hellcat bay vượt qua.

Tôi giải toả cú lộn nhào bằng cách xoay một vòng thật ngặt. Một chiếc Hellcat khác ở cách phía sau tôi 700 thước, mọi họng súng hai bên cánh đều rực lửa. Một điều tôi chưa biết trước đó, bây giờ tôi đã biết. Những tên phi công địch còn tệ hơn mấy tên phi công thiếu kinh nghiệm của tôi… và điều nầy có thể là yếu tố cứu mạng sống của tôi.

Chiếc Hellcat cứ tiến sát mãi, vừa bay vừa rải đạn như mưa, nhưng cách phi cơ tôi quá xa. Tôi xoay hướng một lần nữa và vẫn chạy dài. Chiếc Hellcat tiến sát nhanh chóng. Khi chiếc phi cơ còn cách phía sau tôi 300 thước, tôi lăn về phía trái. Chiếc Hellcat vượt ngang phía dưới tôi, vẫn khai hoả trong không khí.

Tôi đã mất phong độ. Tại sao lại chạy dài trước một tên phi công vụng về như vậy. Không suy nghĩ, tôi lăn trở lại và ở sau đuôi hắn. Từ khoảng cách 50 thước, tôi rót vội một viên đại bác.

Phí đạn. Ngay lúc ấy một chiếc Hellcat khác đã đến sau đuôi tôi và đang khai hỏa. Một lần nữa, tôi lăn về phía trái, cách nầy thì tôi không bao giờ thất bại. Chiếc Hellcat vượt qua , tiếp theo đó là hai chiếc khác.

Một nhóm bốn chiếc nữa hầu như ở ngay trên đầu tôi sẵn sàng nhào xuống. Thỉnh thoảng, bạn cũng nên tấn công để tự vệ chớ! Tôi vượt thẳng đứng lên, ngay phía dưới bốn chiếc chiến đấu cơ. Mấy tên phi công lắc cánh qua lại cố tìm tôi. Tôi không có thì giờ để phá rầy họ. Ba chiếc Hellcat khác đâm thẳng vô tôi từ bên phải. Tôi né tránh những làn đạn thổi tới, bằng cách lăn về phải và chỉ thoát trong đường tơ kẻ tóc.

Mười lăm chiến đấu cơ lập vòng vây trở lại. Bất kì âm mưu thoát thân nào của tôi cũng đều đưa lưng cho nhiều chiếc Hellcat cắt ngang từ nhiều hướng khác nhau. Tôi xoay vòng chính giữa, suy nghĩ tìm lối thoát.

Đối phương không cho phép tôi suy nghĩ. Các chiến đấu cơ tách ra khỏi vòng vây, hết chiếc nầy đến chiếc khác, vừa lướt đến tôi vừa khai hoả.

Tôi không nhớ đã bị tấn công mấy lần mà cũng không nhớ mình đã lăn tròn bao nhiêu vòng. Mồ hôi đẫm ướt thân tôi, thấm ướt cả áo lót. Mồ hôi cũng đọng thành hột trên trán tôi và bắt đầu lăn dài xuống mặt. Tôi chửi thề khi mắt trái tôi xót xa như muối xát. Tôi không có thì giờ để đưa tay lên dụi. Tôi mệt nhoài, không biết làm sao thoát khỏi vòng vây. Nhưng rõ ràng mấy tên phi công nầy không tốt hơn phi cơ của họ. Một tiếng nói vang lên trong đầu tôi, lập đi lập lại… tốc lực… gia tăng tốc lực… cứ lăn tròn… lăn tròn không ngừng nghỉ.

Cánh tay phải tôi bắt đầu tê cứng khi giữ cho chiếc phi cơ lăn liên hồi về phía trái để tránh những làn đạn địch. Nếu tôi gượng lại, không lăn nữa, mạng tôi đi đời tức khắc. Nhưng tôi có thể lăn như thế nầy bao lâu ?

Tôi phải lăn tròn! Bao lâu mà mấy chiếc Hellcat còn giữ nguyên vòng vây, chúng chỉ có thể nhảy xổ vô tôi từng chiếc một. Né tránh đạn của chỉ một chiếc thì tôi không sợ. Tầm gần, nhưng ít ra nó phải nhắm trúng tôi cái đã. Những viên đạn được bắn ra từ khoảng cách một trăm thước tôi có thể né tránh dễ dàng.

Tôi chỉ cần giữ khoảng cách với mấy chiến đấu cơ địch, lúc ấy đang lần lượt từng chiếc một tách khỏi vòng vây, vừa chúi xuống vừa khai hoả vô tôi.
Tôi lăn tròn. Gia tăng hết tốc lực.

Gạt cần điều khiển qua trái. Lăn tròn liên tục. Mặt biển và chân trời xoay tít. Những tia đạn loé sáng, bùng nổ. Luôn luôn dưới cánh tôi. Gia tăng tốc lực. Lăn qua trái. Lăn nữa. Cánh tay của tôi! Tôi không còn nghe một cảm giác nào cả.

Nếu có một viên phi công Hellcat nào chọn một hướng tấn công khác hoặc tập trung đường nhắm cẩn thận trên mục tiêu, chắc chắn tôi không còn ở trên không. Bọn họ chỉ giữ nguyên lối tấn công cũ, rượt theo vòng lăn của tôi, tôi cũng lãnh đủ.

Bọn phi công kì lạ. Ngoại trừ một vài viên phi công đại tài, hầu như 99 phần trăm phi công địch giữ nguyên công thức mà họ đã được dạy trong trường. Họ được dạy như thế nào họ làm theo như thế đó, không bao giờ suy xét để thích ứng với tình thế cấp thời khi chiến đấu, nơi mà giữa sống và chết chỉ cách nhau trong đường tơ kẻ tóc.

Do đó, cuộc thử thách nầy là cuộc thử thách chịu đựng giữa cánh tay của tôi, và khả năng xăng nhớt của chiến đấu cơ Hellcat. Những chiếc phi cơ nầy vẫn còn phải bay về các hàng không mẫu hạm.

Tôi liếc nhìn đồng hồ đo tốc độ. Gần 350 dặm một giờ. Đó là tốc độ mà một chiếc Zero có thể đạt được dễ dàng.

Cánh tôi cần chịu đựng thêm nữa. Chiến đấu cơ Zero cũng cần có giới hạn của nó. Tôi ngại đôi cánh. Chúng đang oằn xuống dưới các vòng lăn tròn tránh né liên tục và dữ dội, có thể gãy rời ra khỏi chiếc phi cơ. Nhưng việc nầy nằm ngoài tầm tay đối phó của tôi. Tôi chỉ có thể tiếp tục bay. Tôi bắt buộc phải lăn tròn để tránh né hoặc chết.

Lăn tròn. Lăn tròn. Tôi không nghe gì hết. Tiếng động cơ của chiếc Zero, tiếng gầm thét của mười lăm chiếc Hellcat, tiếng rít của đạn đại liên 50 ly, tất cả đều biến mất.

Mắt trái tôi đau nhức. Mồ hôi đổ như tắm. Tôi không thể đưa tay lên lau. “Bỏ hết”. Gạt cần điều khiển. Đá bàn đạp lái. Né đạn địch.

Máy tính độ cao xuống tận cùng. Đại dương ở ngay phía dưới phi cơ của tôi. Hiện thời tôi không thể nào dời đổi độ thấp hơn nữa. Các chiếc Hellcat không thể chúi xuống vì phía dưới là mặt biển. Nhưng chúng sẽ tìm ra một cách khác. Tôi chỉ có một vài giây. Tôi nắm chặt cần điều khiển với tay trái, gạt về phải thật mạnh. Đau đớn cùng khắp. Đau đớn đến tê liệt. Tôi đảo về trái.
Những vệt đạn rót xuống. Những tia nước bắn lên từ mặt biển, trải ra và sủi bọt. Bao giờ đối thủ bỏ cuộc ? Chiến đấu cơ Hellcat cũng phải hết xăng chớ! Nhưng tôi không thể nào lăn tròn một cách hiệu quả mãi. Hai tay tôi dần dần tê liệt. Tôi đang mất cảm giác.

Phân nửa số phi cơ địch tạo thành một chướng ngại vật trên đầu tôi, trong khi những chiếc khác lướt đến, tập trung hoả lực vào tôi. Loại chiến đấu cơ Hellcat quá nhanh. Trong vòng một vài giây, phi cơ của tôi đã nằm trong tầm súng. Tôi lăn tròn sang phải , chiếc Zero lay động dữ dội qua mỗi lần lăn tròn, bỏ lại những tia nước sủi bọt trên mặt biển do đạn địch tạo ra.

Đối phương không chịu bỏ cuộc. Bây giờ các chiến đấu cơ địch đang chúi xuống chận đầu tôi trong khi những chiếc còn lại khai hoả. Không có lối thoát. Nếu tôi cứ tiếp tục bay thấp thì cái chết chỉ còn là vấn đề của phút giây. Tại sao chờ chết trong sự trốn chạy như một tên hèn nhát ?

Tôi kéo cần điều khiển ngược lại, hai tay hầu như sát vô bụng. Chiếc Zero giật nẩy và vượt lên, phía trước tôi là một chiếc Hellcat, chỉ cách 100 thước với tên phi công kinh hoảng của nó. Chiếc phi cơ đảo thật mau để né tránh. Tôi ấn cò súng. Chiếc Hellcat lăn tròn, vượt lên và bay mất.

Những chiếc Hellcat khác rối loạn. Tôi vượt lên và chạy nữa. Mấy tên phi công ngu ngốc rượt theo và khai hoả từ khoảng cách 500 thước. Phí đạn vô ích, phí đạn vô ích, tôi thét lên. Nhưng, bọn nầy nhanh quá đỗi! Những tia đạn loé sáng bên cánh tôi, và tôi lại lăn tròn một cách tuyệt vọng.

Xuống thấp nữa, Iwo thình lình xuất hiện ở phía dưới. Tôi lắc đôi cánh, hy vọng các xạ thủ dưới mặt đất nhìn thấy những dấu hiệu màu đỏ kẻ trên cánh phi cơ. Đó là một sai lầm, hành động nầy khiến tôi chậm lại, và những chiếc Hellcat đã ở ngay phía trên tôi.

Súng cao xạ ở đâu ? Bắn đi, lũ ngu xuẩn, bắn đi!

Iwo nổi lửa. Những tia đạn chớp loé khắp hòn đảo. Mọi loại súng đều khai hỏa. Tiếng nổ làm rung chuyển chiếc Zero. Những bựng khói do đạn cao xạ tạo ra xuất hiện trên không, giữa các chiếc Hellcat. Đối phương quay lại thật mau và chúi xuống để thoát khỏi tầm súng.

Tôi vẫn duy trì tốc độ tối đa. Tôi đang sợ hãi. Tôi cứ nhìn về phía sau sợ đối phương quay lại, sợ những tia đạn từ dưới đất rót vô phòng lái, xuyên thủng thân phi cơ, ghim vô thân tôi.

Tôi lướt ngang qua Iwo, ấn mạnh ga, thúc giục chiếc phi cơ bay mau hơn. Mau hơn, mau hơn! Phía Nam Iwo xuất hiện ở chân trời… ở đó có một đám mây! Một đám mây dày đặc chồng chất nhiều lớp vĩ đại, bay là đà trên mặt nước. Tôi bất cần lưu ý đến sự vận chuyển của không khí. Tôi chỉ muốn thoát thân. Với hết tốc lực , tôi chui vô đám mây.

Hình như có một bàn tay khổng lồ tóm lấy chiếc Zero và đu đưa nó qua lại một cách dữ dội. Tôi thấy gì khác hơn là những màu tím thẫm chợt loé chợt tắt. Tôi đã mất kiểm soát. Chiếc Zero chúi nhũi và giựt lại, liên tục. Thế rồi tôi qua khỏi đám mây, nhưng cơn bão bên trong đám mây quay chiếc Zero ra ngoài khiến nó lảo đảo dữ dội. Tôi ngã sấp về phía trước. Sau đó, tôi lấy lại cao độ khoảng 16.000 bộ. Xa về phía nam, tôi nhìn thấy thấp thoáng bóng dáng 15 chiếc Hellcat. Chúng đang bay về các hàng không mẫu hạm. Khó thể tin rằng mối hiểm nguy đã vượt qua, và tôi vẫn còn sống sót. Tôi muốn rời khỏi không trung lập tức. Tôi muốn được đứng trên mặt đất cứng rắn phía dưới.

Tôi đáp xuống phi đạo chánh của Iwo. Tôi ngồi trong phòng lái một vài phút, sức cùng lực kiệt, sau đó leo xuống chiếc phi cơ một cách mệt nhọc. Tất cả các chiến đấu cơ khác đã đáp xuống từ lâu. Một đám phi công và thợ máy chạy ùa ra phi cơ của tôi, la lên vui mừng. Nakajima cũng có mặt. Ông ôm choàng lấy tôi, la lớn với nỗi hân hoan. “Anh mới làm nổi việc đó, Sakai. Một chống mười lăm… anh quả thật phi thường!” Tôi chỉ có thể tựa vô chiếc phi cơ và miệng càu nhàu nguyền rủa con mắt đui mù của mình. Mạng sống của tôi suýt đi đời vì nó.

Một cơ khí viên chạy đến tôi, chào và nói: “Thưa Chuẩn úy, phi cơ của chuẩn uý. Nó… nó không… tôi không thể tin nổi… nó không có một vết đạn nào cả!”

Tôi cũng không thể tin nổi. Tôi xem xét lại chiếc phi cơ từ đầu đến cuối. Tên cơ khí viên nói đúng. Không có một viên đạn nào trúng phi cơ của tôi.

Sau đó, tôi trở về doanh trại, tôi biết được nhóm chiến đấu cơ Zero đầu tiên, bay phía trên các đám mây, đã đánh nhau với đối phương một cách dễ dàng hơn nhóm của tôi. Nhóm Zero nầy đã có được ưu thế từ trên cao bổ nhào xuống, khiến bọn phi công Hoa Kỳ trở tay không kịp. Trung sỹ Kinsuke Muto, ngôi sao sáng của phi đoàn Yokosuka, đã hạ một lúc bốn chiếc Hellcat. Các phi công khác cũng ghi điểm chiến thắng. Nhưng đổi lại, gần 40 hầu như phân nửa tổng số chiến đấu cơ của chúng tôi bị bắn rơi.
__________________
Logged
baokhanhnbk
Thành viên
*
Bài viết: 1089



« Trả lời #55 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2010, 05:03:47 pm »

Chương XIX


Ngày hôm sau, tôi bị bịnh tháo dạ trầm trọng. Tình trạng thể xác như vậy, tình trạng tinh thần của tôi cũng không hơn gì. Mất bốn mươi phi cơ và phi công chỉ trong một phi vụ khiến tôi choáng váng. Cuộc chiến đã xoay đủ một vòng của nó rồi.

Cơn bịnh tháo dạ đã tàn phá năng lực của tôi và đè bẹp tôi trên giường một tuần lễ. Sức khoẻ của tôi phục hồi chậm chạp.

Buổi chiều ngày 2 tháng bảy, niềm phấn khởi lan tràn khắp doanh trại. Các liên lạc viên chạy lui chạy tới từ phòng truyền tin đến Bộ chỉ huy. Tôi chận một người để hỏi và được biết các hiệu thính viên của chúng tôi vừa chặn bắt được một số công điện chuyển đi tới tấp của đối phương. Mặc dù đa số đều được mã hoá, không thể nào đoán giải nổi, nhưng chúng tôi cũng biết những công điện nầy đã được chuyển đi từ các đơn vị địch không xa hòn đảo mấy.

Một cuộc tấn công sắp xảy ra. Điều nầy rõ rệt, và sẽ xảy ra rất sớm. Tất cả phi công trình diện Bộ chỉ huy để nhận lịnh. Tôi không được phép bay. Vị chỉ huy trưởng cảm thấy tôi còn yếu sức, khó thể nắm vững chiếc chiến đấu cơ của mình.

Sáng hôm sau, tất cả phi công ra sân bay vào lúc bốn giờ. Nhiều trinh sát cơ cất cánh tức khắc để dò tìm tung tích địch quân trên đại dương. Không có việc gì xảy ra trong suốt giờ kế đó. Tôi trở về phòng để ngủ thêm. Vào lúc sáu giờ, tiếng tù và nổi lên, phá tan sự yên tĩnh của hòn đảo, cho biết một cuộc tấn công của địch quân sắp xảy ra. Binh sỹ chạy ngang qua sân bay để đến các ụ súng, và bốn mươi chiến đấu cơ lướt ra các phi đạo để cất cánh nghinh chiến. Tôi bước ra sân bên ngoài doanh trại để coi diễn tiến.

Xa về phía Nam, có ít nhất 50 phi cơ xuất hiện, hướng thẳng về phía chúng tôi. Hellcat. Bốn mươi chiến đấu cơ Nhật đang bay quần trên đầu, đã đổi hướng để mặt đâu mặt với các chiến đấu cơ địch.

Tôi chỉ nhìn trận không chiến dữ dội được một vài phút, tai tôi bỗng nghe một âm thanh khác… những chiếc phi cơ đang chúi xuống. Tôi quay đầu và nhìn thấy một phi đội oanh tạc cơ Avenger, chia làm bốn loạt, lướt xuống phi đạo chính. Cuộc tấn công của phi đội nầy thật đúng lúc, bốn mươi chiến đấu cơ của chúng tôi đã bị nhóm Hellcat lôi vào trận đánh nhường lại hòn đảo hoàn toàn trống trải cho các oanh tạc cơ.

Khi tôi quay đầu chạy vô doanh trại, bom rớt nổ làm rung chuyển mặt đất dưới chân tôi. Tôi ngã chúi xuống, vùi mặt vô tro than của núi lửa. Tôi cố gắng trườn đi nhằm tránh xa những mảnh bom rít vang trong không khí. Tiếng nổ liên tục cả mấy phút. Các oanh tạc cơ lướt về phía nam.

Tôi đứng dậy, nhìn những cột khói và bụi bốc mọc lên trên sân bay. Một cuộc oanh tạc khác. Một phi đội Avenger thứ nhì lướt xuyên qua các cột khói dày đặc, chúi thẳng xuống sân bay. Các oanh tạc cơ hầu như ở ngay trên đầu tôi. Tôi quay mình và chạy bán sống bán chết, phi thân vô phía sau một hồ chứa nước mưa vĩ đại, nằm đằng sau doanh trại. Cùng lúc đó, tôi nhìn thấy những trái bom rớt ra từ bụng oanh tạc cơ… Tôi nhìn trừng trừng như bị thôi miên… những trái bom lớn dần, phồng lên như chớp, chúi xuống mặt đất. Miệng tôi đầy bụi.

Những tiếng nổ vang dội đập vô đôi tai tôi. Tôi mở mắt, chỉ thấy đất cát và khói bốc cao khỏi mặt đất. Tôi không bị một thương tích nào, ngoại trừ mấy chỗ xây xát lúc ngã chúi xuống. Thính giác tôi phục hồi dần dần. Tôi nghe tiếng răng rắc của dãy doanh trại đang sụp đổ, và vừa thét lên vừa vội vã thoát thân khi hồ chứa nước nghiêng qua một bên.

Trận không chiến vẫn còn tiếp tục. Tôi lắng nghe tiếng động cơ máy bay, tiếng đại bác, tiếng đại liên vang rền. Tôi chạy đến Bộ chỉ huy, nhưng khựng lại và vọt vô một hầm trú ẩn khi nhìn thấy đợt oanh tạc cơ thứ ba đang lướt xuống. Lần nầy đối phương nhắm hơi yếu. Bom rớt hết phía bên kia phi đạo. Tôi chạy đến Bộ chỉ huy, một căn lều vải, vẫn còn nguyên vẹn. Gặp Nakajima, tôi nói với ông rằng tôi muốn bay. “Tất cả phi cơ khả dụng đều rời khỏi mặt đất hết rồi, Sakai”, ông đáp một cách rầu rĩ.

Tôi chỉ một chiếc Zero đang đậu ở cuối phi đạo. “Máy nó hư rồi!”. Vị chỉ huy nói. “Nhưng bây giờ có lẽ sử dụng được. Bọn thợ máy đã sửa chữa mấy giờ trước đây.” Ông nhìn lên. “Được, cứ đi!”

Tôi vội vã chào và chạy ra khỏi lều vải. “Sakai!” Nakajima gọi, tôi quay lại. “Hãy thận trọng, Sakai. Bây giờ không phải như ở Lae… hãy thận trọng!.”

Nhưng, khi tôi cất cánh, trận chiến đã kết thúc. Những chiếc Hellcat rời khỏi nhóm chiến đấu Zero để hộ tống các phi đội oanh tạc cơ trở về. Tôi không thể làm gì hơn là quay về phi trường Iwo với những chiếc Zero còn lại.

Tổng số chiến đấu cơ Nhật cất cánh nghinh chiến với chiến đấu cơ Hoa Kỳ đã bị bắn rơi một nữa. Hai mươi chiếc. Trong hai trận đánh, đối phương dã hạ tất cả 60 chiếc trong tổng số 80 chiếc chiến đấu cơ Zero của chúng tôi. Một con số không thể tin nổi.

Người Mỹ chưa chán chúng tôi. Một lần nữa, tất cả chiến đấu cơ còn lại trên đảo cất cánh. Kết quả tồi tệ hơn dự tính của chúng tôi. Chỉ còn 9 chiếc Zero trở về để đáp xuống Iwo.

Lần nầy cuộc tấn công của đối phương cũng lập lại y như lần trước. Các cơ sở tan nát, phi đạo đầy dấu bom. Chỉ còn lại 8 oanh tạc cơ được hầm trú ẩn bao che. Hầu hết oanh tạc cơ và chiến đấu cơ khác đang được sửa chữa hoặc giấu trong hầm trú ẩn đều bị hủy diệt.
Logged
baokhanhnbk
Thành viên
*
Bài viết: 1089



« Trả lời #56 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2010, 05:04:29 pm »

Sau khi đáp xuống, chúng tôi bước nặng nhọc đến Bộ chỉ huy. Không ai còn nghị lực và tinh thần để bàn tán. Chúng tôi lê thân trên mặt đất, mệt mỏi và tuyệt vọng, đưa mắt nhìn binh sỹ chạy tới chạu lui trên phi đạo cố gắng lấp những lỗ bom, dập tắt lửa đang còn hoành hoành trên mất ngôi nhà gần đó.
Mấy phút sau, trung tá Nakajima chậm rãi bước vô Bộ chỉ huy. Chúng tôi đứng nghiêm. Nakajima khoát tay, biểu chúng tôi ngồi xuống. Ông có vẻ khích động, giọng nói nhỏ và do dự. Ông nói với chúng tôi rằng các sỹ quan tham mưu đã thảo luận suốt đêm, và tất cả đều đồng ý với phương cách chống lại người Mỹ mà chúng tôi sẽ phải thực hiện trong tương lai. Một nhóm sỹ quan nhấn mạnh rằng nếu chúng tôi cứ tiếp tục ngăn chặn các cuộc tấn công của đối phương, một vài ngày nữa chúng tôi sẽ không còn một chiếc máy bay nào. Do đó, chỉ còn một hành động duy nhứt mà chúng tôi phải làm là dốc toàn lực đánh trả đối phương. Một trong những trinh sát cơ của chúng tôi đã phát hiện một lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ cách phía Đông Nam của hòn đảo 450 dặm, và chúng tôi có thể tấn công lực lượng nầy.

Nhóm sỹ quan tham mưu thứ nhì đồng ý kế hoạch tấn công trên nguyên tắc. “Nhưng” họ lý luận, “chỉ với 9 chiến đấu cơ và 8 oanh tạc cơ một máy, chúng ta có thể nào chống lại lực lượng đặc nhiệm của đối phương hay không ? Các hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ có thể tung hàng nhiều trăm phi cơ nghinh chiến cùng một lúc!” Nên biết lực lượng mà chúng tôi tấn công là lực lượng đã quát sạch tất cả các phi cơ thuộc các hàng không mẫu hạm Nhật ở quần đảo Mariana vào ngày 20 tháng Sáu.

Cuộc thảo luận, Nakajima nói, cuối cùng đã đưa ra kết luận khi chỉ huy căn cứ Iwo, đại tá Kanzo Miura, chấp nhận kế hoạch đánh trả hạm đội Hoa Kỳ. Miura định ngày phát xuất của chúng tôi là trưa ngày 4 tháng bảy, đúng ngày lễ kỷ niệm Độc Lập của Hoa Kỳ.

Chúng tôi không bao giờ thực hiện được kế hoạch dự trù. Các phi công Hoa Kỳ đã hung hăng trở lại Iwo vào sáng ngày 4 và xé nát các cơ sở của hòn đảo thành manh múm. Chúng tôi không sao cất cánh nổi. Các phi đạo đều tê liệt. Sau cuộc không kích chúng tôi ngồi quanh Bộ chỉ huy, trong khi các sỹ quan tham mưu thảo luận bên trong. Đại tá Miura (sau nầy chúng tôi biết được vẫn không thay đổi kế hoạch). “Chúng ta đang kiệt quệ dần,” ông nói với Bộ tham mưu của ông, “sự kết thúc đã nhìn thấy rõ rệt nếu chúng ta cứ tiếp tục nằm trong thế thủ. Chúng ta sẽ làm gì ? Ngồi đây để nhìn chiếc phi cơ cuối cùng bị bắn rơi trong khi hạm đội của đối phương vẫn còn nguyên vẹn ? Không! Chúng ta sẽ tấn công, ngay hôm nay! Ngay khi các phi đạo được sữa chữa, tôi muốn tất cả các phi cơ rời khỏi mặt đất.”

Trung tá Nakajima đã kể lại chi tiết của buổi họp cho chúng tôi nghe. Ông kết luận: “Tôi ý thức nhiệm vụ mà chúng ta sắp thực hiện. Không có cách nào khác hơn: các bạn sẽ bay để chết. Nhưng,” tới đây ông do dự, “quyết định đã được đưa ra. Các bạn sẽ phải đi.”

Ông nhìn đôi mắt cỉa mỗi người. “Và có lẽ may mắn vẫn theo một bên các bạn.”

Vị trung tá rút ra một tờ giấy trong túi áo và đọc tên những phi công được chọn để thực hiện phi vụ nầy, một phi vụ không có lượt về, hình như vậy.
Không hề có một sự phấn khởi nào được nhìn thấy giữa nhóm phi công. Mỗi người nghe đọc tên đã đứng dậy và đưa tay chào. Tên tôi đứng hàng thứ chín trong sanh sách. Tôi sẽ cầm đầu nhóm phi cơ thứ nhứt, gồm 9 chiến đấu cơ Zero. Muto, phi công ưu tú của không đoàn, cầm đầu nhóm thứ hai. Nakajima chỉ định một vị đại úy cầm đầu cả phi đội.

Nakajima bước đến tôi, “hiển nhiên là không mấy vui vẻ”. Ông đặt tay lên vai tôi. “Tôi rất buồn phải để anh đi hôm nay, người bạn thân lâu năm của tôi.”. Ông ấp úng nói. “Nhưng, tôi không thể nào làm khác hơn, Sakai… Tôi… chúc anh gặp may mắn.” Tôi lặng thinh. Tôi đưa tay ra. Chúng tôi nắm lấy tay nhau trong lặng yên, rồi Nakajima quay lưng và bước đi.

Chúng tôi giải tán, không ai nói tiếng nào. Các phi công được chọn thực hiện nhiệm vụ bỏ lại hết các vật dụng tuỳ thân. Tôi nhìn một vài thứ mà tôi mang theo đến Iwo. Những vật dụng để lại nầy sẽ được gởi về cho gia đình. Má tôi sẽ phản ứng ra sao khi người ta trao cho bà những thứ nầy và kể cho bà nghe câu chuyện đã xảy ra ?

Thì giờ trôi qua quá mau. Thật mĩa mai, tôi nghĩ, chỉ một đôi ngày trước đây, tôi giành giựt mạng sống với 15 chiếc Hellcat.

Muto bước vô căn lều của tôi và hỏi tôi có ý kiến gì về nhiệm vụ nầy không. Tôi nhìn hắn hồi lâu. “Muto, tôi… tôi không biết. Ý kiến gì ? Có ý kiến nào đâu. Khi chúng ta bay đến chiến hạm địch vào trưa nay, chiến đấu cơ địch sẽ bu lấy chúng ta. Tất cả những gì mà tôi có thể nói là … chúng ta đã nhận lịnh. Chúng ta sẽ đi. Chỉ có thế thôi.”

Tôi cảm thấy buồn cho viên phi công trẻ tuổi nầy. Cá nhân tôi không còn lợi ích mấy cho xứ sở nữa. Những khó khăn mà tôi đã trải qua trong việc né tránh bọn phi công Mỹ thiếu kinh nghiệm, cho tôi sự xác tín rằng đời sống nửa đui nửa sáng của tôi có kéo dài cũng chỉ kéo dài một ngày một bữa. Nhưng Muto… hắn là sự phối họp của Nishizawa, Ota và Sasai. Một phi công tài ba sáng chói. Hắn không thuộc lớp người của chúng tôi. Quẳng hắn vô một nhiệm vụ vô vọng như thế này quả là ngu xuẩn. Hắn có thể làm hơn nữa trong việc bảo vệ xứ sở. Và hiện thời… hoang phí biết bao.
Logged
baokhanhnbk
Thành viên
*
Bài viết: 1089



« Trả lời #57 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2010, 05:05:54 pm »

Dĩ nhiên Muto không biết tôi đang suy nghĩ gì. Hắn cười sau lời nói của tôi. “Đúng lắm, Sakai. Tôi biết. Nếu Thượng Đế vui vẻ…” hắn nhún vai. “Nói cách khác, xin Thượng Đế hãy để cho chúng ta ít ra là được chết chung với nhau, như những người bạn.”

Một giờ sau, tất cả các phi công được chọn lựa thực hiện nhiệm vụ tấn công xếp hàng ngay ngắn trước Bộ chỉ huy. Phía sau căn lều, là một cây cột cao có treo một lá cờ đuôi nheo màu trắng rộng lớn. Trên nền trắng của lá cờ có kẻ một hàng chữ cổ: “Namu Ha****an Daibosatsu”. Có nghĩa là: “Chúng tôi tin tưởng vào vị thần Chiến Tranh quảng đại.”. Đây là lá cờ phỏng theo hiệu kỳ của một chiến tướng Nhật ở thế kỷ 16, trong thời kỳ xảy ra hàng loạt nội chiến liên tục khiến cho nước Nhật rối loạn cùng cực.

Khi còn ở Lae, chúng tôi không bao giờ chống đỡ tinh thần bằng những “cây nạng” tâm lý như thế nầy. Đối với tôi, sự phô trương có vẻ kinh tởm nầy là dấy hiệu của sự yếu đuối, không có ý nghĩa gì khác hơn. Nó chứng tỏ đầu óc thoái hoá của các sỹ quan chúng tôi, những kẻ cố làm nổi bật họ lên bằng ánh lửa và sự dũng mãnh của những thời xa xưa, thời mà hầu hết các cuộc chiến đều được quyết định bởi tài ba và lòng dũng cảm cá nhân.

Nhưng đó chỉ là thời xa xưa. Tôi không phải là một sỹ quan tham mưu, tôi không tham dự vào bất kì việc soạn thảo kế hoạch mặt trận nào, tôi cũng không phải là một chiến lược gia tập sự, nhưng tôi biết chắc chắn những gì mà các sỹ quan của tôi đang làm không còn phù hợp nữa. Các sỹ quan của chúng tôi đang làm công việc của một loại phù thủy mới. Họ khua chiêng đánh trống để cổ vũ lòng yêu nước, để cố thuyết phục không chỉ riêng thuộc cấp mà còn chính họ nữa. Điều nầy giống như chúng tôi bù đắp những thiệt hại khủng khiếp bằng cách phô trương và đe doạ: “bọn Mỹ khốn nạn”.

Tại sao những người nầy lại từ chối công nhận sự thật ? Làm cách nào để họ ý thức rằng loại chiến đấu cơ Zero của chúng tôi, mà từ lâu họ đinh ninh là tốt nhứt thế giới, bấy giờ lỗi thời về mọi phương diện so với loại chiến đấu cơ Hellcat, cũng như nhiều loại phi cơ mới khác của đối phương mà tôi chưa thấy qua.

Tôi nhìn lá cờ. Nó hiện diện ở đó biết bao ngày rồi, nhưng hôm nay, lần đầu tiên, tôi mới thực sự nhìn thấy nó. Có thể nào chúng tôi đặt niềm tin của mình vào một vật tượng trưng sức mạnh siêu phàm nầy ? Nó giúp chúng tôi gặt hái chiến thắng ? Nó sẽ chận đứng những tia đạn do mấy chiếc Hellcat bắn ra ?

Là một phi công chiến đấu, tôi nhận thấy tốt hơn hết là tin vào sức mạnh và sự khéo léo của chính mình để thoát khỏi cái chết chỉ xảy ra trong đường tơ kẽ tóc. Tôi chỉ có thể tin vào các phi công bên cánh của tôi, và nhận sự hỗ trợ của các đồng đội khác. Nếu tôi lâm trận bằng cách chỉ la lớn những câu cổ lỗ ấy, tôi đã chết mục xương từ lâu rồi.

Nhưng tất cả đã biến đổi ở hiện tại. Sự khéo léo, tài ba đã từng cứu tôi nhiều lần trở thành vô nghĩa… Không một người nào trong số 17 phi công đang đứng nghiêm trước Bộ chỉ huy có được một mảy may hy vọng nào nhìn thấy lại bạn bè.

Tôi yêu xứ sở của tôi tha thiết, và tôi sẽ không bao giờ ngần ngại một phút giây nào khi phải đổi mạng sống để bảo vệ quê hương. Nhưng giữa việc bảo vệ quê hương đến hơi thở cuối cùng và việc hoang phí mạng sống khác nhau xa lắm.

“Namu Ami Dabutsu!”, “Nam Mô A Di Đà Phật”. Đó là lời thì thầm của những người hấp hối để tìm sự khuây khoả và yên ổn tâm hồn khi sắp ra đi. Tôi tin vào nước Nhật, tôi không tin cái gọi là vị thần chiến tranh khoan dung, quảng đại. Tôi muốn chết cho xứ sở của tôi nhưng chỉ chết với niềm tin của mình, truyền thống Samurai, như là một con người, như là một chiến sĩ.

Sự suy tư đã xoa dịu nỗi tức giận trong lòng tôi. Và vào lúc đại tá Miura bước ra khỏi căn lều, tôi hoàn toàn thoải mái. Vị đại tá leo lên một cái bục xếp bằng những thùng đựng bia. Chầm chậm, ông nhìn khắp lượt, có vẻ buồn bã, như nhìn mặt chúng tôi lần cuối cùng.
“Các bạn sẽ đánh trả đối phương,” ông cất tiếng, “Những trận đánh tự vệ chấm dứt từ đây trở về sau. Các bạn là những phi công chọn lọc của phi đoàn Yokosuka, những phi công danh tiếng nhứt của Nhật Bản. Tôi tin rằng hành động của các bạn hôm nay sẽ gây thêm tên tuổi và truyền thống vẻ vang của không đoàn.”

Ông lưỡng lự một lúc. “Để cho danh dự vốn sẵn có của các bạn trở nên bất diệt, các bạn phải chấp nhận nhiệm vụ mà sĩ quan chỉ huy của các bạn đã giao phó cho các bạn. Các bạn không thể, tôi lập lại, các bạn không thể hy vọng tồn tại. Trong đầu óc của các bạn chỉ có hai tiếng “tấn công”. Hôm nay, các bạn sẽ đâu mặt với một lực lượng địch được bảo vệ, dĩ nhiên hàng nhiều trăm chiến đấu cơ .

“Do đó, tấn công cá nhân phải được quên đi. Các bạn không thể tấn công vô các mục tiêu từng người một. Các bạn phải luôn luôn kết hợp thành một nhóm duy nhứt. Các bạn phải đánh mở đường xuyên qua những phi cơ nghinh chiến của địch quân và…” Đại tá Miura đứng thật thẳng. “Các bạn phải chúi xuống các hàng không mẫu hạm của địch quân cùng một lúc. Chúi xuống, cùng với thủy lôi, đời sống và linh hồn của các bạn.”

Tại tôi lùng bùng. Ông ta đang nói gì ? Tôi có nghe đúng không ? “… một cuộc tấn công thông thường sẽ là vô ích. Ngay nếu các bạn thành công trong việc thoát khỏi màn lưới chiến đấu cơ của Hoa Kỳ, các bạn cũng sẽ bị bắn rơi trên đường trở về hòn đảo nầy. Cái chết của các bạn không lợi ích gì cho xứ sở. Đời sống của các bạn sẽ bị hoang phí đi. Chúng ta không thể cho phép việc nầy xảy ra.”
Logged
baokhanhnbk
Thành viên
*
Bài viết: 1089



« Trả lời #58 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2010, 05:06:34 pm »

Tiếng nói của ông là chúng tôi chấn động. “Khi tiến đến mục tiêu, các phi công chiến đấu cơ sẽ né tránh đánh nhau với phi cơ địch. Không có phi công oanh tạc phóng thủy lôi của họ từ trên không xuống. Những gì xảy ra không cần biết, các bạn cứ giữ phi cơ của các bạn chung nhóm. Cánh sát cánh! Không một trở ngại nào có thể chận đứng các bạn thi hành nhiệm vụ. Các bạn phải làm sao bổ nhào xuống cùng lúc, để gặt hái sự hữu hiệu. Tôi biết những gì mà tôi nói với các bạn không phải dễ làm, nếu không nói là khó thể làm được. Nhưng tôi tin các bạn có thể làm được, và các bạn sẽ phải làm. Đó là, mọi người trong các bạn, cùng chúi xuống một hàng không mẫu hạm địch và đánh chìm nó.”

Ông ta nhìn chúng tôi một lát rồi nói mau. “Các bạn đã nhận lịnh xong.”

Tôi đứng như trời trồng! Trước đây, chúng tôi đã từng được giao phó những nhiệm vụ ít có cơ may sống sót để trở về. Nhưng ít ra tôi có cơ hội tranh đấu cho sự sống còn của mình! Rõ ràng, đây là lần đầu tiên, một phi công Nhật nhận được lịnh tạo ra một cuộc tấn công tự sát.

Trong hải quân của chúng tôi đã có một qui luật bất thành văn. Theo đó, viên phi công có thể bổ nhào xuống một chiến hạm địch một khi chiếc phi cơ của hắn què quặt trên biển cả bao la, không thể nào trở về căn cứ được. Không chỉ có phi công Nhật, nhưng phi công Hoa Kỳ, Anh, Đức… cũng làm như vậy… và sẽ luôn luôn làm như vậy bao lâu mà con người còn bay và còn chiến đấu. Nhưng chưa từng có một vị Chỉ Huy Trưởng không quân Nhật nào nói với các phi công của ông ta: “Hãy ra đi và chết!”.

(Bốn tháng sau đó, Phi Đội Tấn Công Đặc Biệt Thần Phong lừng danh được tổ chức bởi Phó Đô Đốc Onishi ở Philippine. Trước khi tung ra các phi cơ tự sát, Onishi đã hội ý với các phi công dưới quyền để nhận một sự đảm bảo hoàn toàn rằng họ sẽ hy sinh mạng sống để bảo vệ xứ sở. Các cuộc tấn công Kamikaze trước khi được tung ra phải trải qua nhiều sự sắp xếp phức tạp, nhứt là những phi cơ thi hành nhiệm vụ nầy đều còn trong tình trạng khả dụng và chất đầy bom cũng như được các chiến đấu cơ hộ tống đến mục tiêu. Các phi công chiến đấu cơ hộ tống nhận chỉ thị đặc biệt quay về căn cứ để báo cáo những kết quả cuộc tấn công do chính mắt họ nhìn thấy. Ở Iwo, việc nầy hoàn toàn khác hẳn. Ngay cả những chiếc Zero không mang bom khi thi hành nhiệm vụ hầu như đã đến kỳ phế thải. Đại tá Miura, người ban tử lịnh cho chúng tôi, đã chết vì nhiệm vụ, trong khi Phó Đô Đốc Onishi cam tâm mổ bụng sau cuộc đầu hàng của Nhật Bản.)

Những lời nói của Miura đã gây sự xúc động dữ dội cho các phi công đứng tập họp. Trường hợp những người hy sinh đời sống của họ với sự cân nhắc, thì lời nói, dáng vẻ, sự dũng cảm phi thường cũng như kinh nghiệm chiến đấu của đại tá Miura sẽ gây phấn khởi tinh thần cho họ. Nhưng hiện tại lại khác hẳn. Hiện tại, họ biết rằng họ sẽ ra đi không bao giờ trở lại, những người lên không trung lần cuối.

Tư tưởng tôi hỗn độn. Tôi không phẫn nộ mà cũng không tuyệt vọng. Tim tôi, trí óc tôi có thể nói là đã đông lạnh. Tôi nhớ lại câu: “Một Samurai đã sống một đời sống như vậy, hắn phải luôn luôn chuẩn bị để chết.”

Tuy nhiên, giáo điều Samurai không bao giờ đòi hỏi một người chuẩn bị liên tục để tự hủy. Có sự khác biệt rất xa giữa sự tự hủy và việc bước vào cuộc chiến đấu với một ý chí chấp nhận tất cả mọi thách thức và gian nan.
Trường hợp sau nầy, cái chết được chấp nhận và, có thể, không hối tiếc. Con người sống với chiếc đầu ngẩng cao, hắn có thể chết với dáng vẻ ấy. Hắn không chôn vùi danh dự của chính mình cũng như xứ sở, và hắn mãn nguyện khi trao cho xứ sở tất cả những gì tốt đẹp nhứt mà hắn có. Bất chấp dầu sôi lửa bỏng, bất chấp kẻ thù vượt trội, hắn vẫn chiến đấu khi cần thiết, hắn tấn công khi bị áp lực. Tất cả những điều nầy đã hình thành đời sống của một chiến sĩ.

Nhưng làm sao một người có thể giữ được trầm tĩnh và khách quan để ra đi tự hủy trong vòng một đôi giờ ?

Tuy nhiên, lịnh vừa ban ra nhắc nhở chúng tôi biết rằng chúng tôi vẫn còn ở trong hải quân, nơi mà lịnh vẫn là lịnh.

Một sự yên lặng trùm lấp khi đại tá Miura dứt lời. Chúng tôi đưa tay chào.
Ông ta quay lưng, và các phi công tụ tập thành nhiều nhóm nhỏ.

Tôi nói với hai phi công bên cánh của tôi: “Các bạn đã thấu hiểu lịnh của đại tá ?” Họ gật đầu. “Tôi tin các bạn đã sẵn sàng chuẩn bị cho những gì mà chúng ta phải làm. Đây là những chỉ thị của tôi: phải sát cánh với phi cơ của tôi cho đến khi chúng ta đến mục tiêu. Không bao giờ được phá vỡ đội hình. Những gì xảy ra không cần biết, cứ đeo dính phi cơ của tôi.”

Muto và hai phi công bên cánh đến nhập bọn với chúng tôi. Muto nhe răng cười và nói đùa: “Nầy, còn một vài giờ nữa chúng ta đi chết, chúng ta phải nhìn mặt nha cái đã. Tôi muốn nhớ mấy khuôn mặt quen thuộc một cách chắc ăn.” Hắn đã phá vỡ sự căng thẳng, chúng tôi cười và ngồi bẹp trên mặt đất. Muto không ngớt cười đùa. Tuy nhiên, một vài phút sau, tiếng cười và những lời nói đùa trở nên gượng gạo.

Nhiều phi công không có tên trong danh sách thi hành nhiệm vụ đến gặp chúng tôi. Họ mang cho chúng tôi thuốc hút, kẹo và nước ngọt. Dĩ nhiên, họ muốn làm cho chúng tôi vui vẻ, họ nói rằng họ rất tiếc đã không được chọn để ra đi với chúng tôi. Nhưng đôi mắt mở rộng và buồn bã ấy đã nói thêm những lời mà họ không thể nói được. Muto thôi đùa giỡn. Hắn ngồi lặng lẽ, suy tư. Nỗi căng thẳng vừa vở lại hiện ra.

Đã đến giờ cất cánh lần cuối cùng.
Logged
baokhanhnbk
Thành viên
*
Bài viết: 1089



« Trả lời #59 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2010, 05:07:13 pm »

Ba phi công khác bước ra khỏi căn lều, và tất cả chúng tôi đi ra các chiến đấu cơ. Đứng bên cạnh phi cơ, tôi nhìn túi dù của mình. Thế rồi, khi một người quăng túi dù của hắn xuống đất, chín phi công khác đều làm theo.

Phi cơ của tôi máy móc không được tốt vì đã bay chiến đấu ròng rã hai ngày, và năng lực thiết yếu đòi hỏi của các trận không chiến làm cho động cơ của nó gần cháy. Thông thường tôi không bao giờ gượng gạo cất cánh với một chiếc phi cơ trong tình trạng nầy. Nhưng hiện thời ? Tôi lấ làm khó nghĩ. Tôi nhìn các chiến đấu cơ khác. Cơ khí viên đang sửa chữa ít nhứt 4 trong số 8 chiếc phi cơ sắp sửa thực hiện nhiệm vụ. Không phải một mình tôi gặp khó khăn.

Nhưng ai lại đi đòi hỏi một chiếc phi cơ hoàn hảo trong nhiệm vụ nầy ? hãy nhớ, Sakai, đây là phi xuất một chiều. Anh chỉ cần nó lết được 450 dặm, không phải 900 dặm. Anh không trở về từ nhiệm vụ nầy đâu.

Tám oanh tạc cơ chạy ra phi đạo. Chiếc Zero đầu tiên nằm trong vị thế cất cánh. Tôi chạy chầm chậm theo sau, tiếp đó là hai phi công bên cánh của tôi.
Dọc theo hai bên phi đạo, các cơ khí viên và phi công khác đứng nghiêm chỉnh đầu trần, vẩy khăn khi chúng tôi lướt trên phi đạo và cất cánh. Chúng tôi bay dọc theo đội hình chữ V, và xoay hướng trực chỉ về phía hạm đội của địch quân.

Tôi quay đầu, Iwo là một chấm nhỏ ở chân trời, càng lúc càng nhỏ hơn, cho đến khi nó chỉ còn là một mũi kim trên mặt đại dương bao la.

Tôi nhìn lại một lần nữa, khó thể thấy Iwo ở đâu. Chân trời lờ mờ và gợn sóng trước mắt tôi. Tôi cảm thấy váng vất.

Khuôn mặt của má tôi thấp thoáng khắp nơi trên bầu trời. Một ảo ảnh, nhưng rõ rệt quá đỗi. Bà mỉm cười với tôi. Bà không biết rằng tôi sắp chết bằng cách tự giết mình. Tôi nhìn mặt má tôi trừng trừng. Ảo ảnh tan dần và biến mất.

Một nỗi cô đơn vây phủ lấy tôi. Tôi như tan biến hẳn trong biển cả vô tận. Khắp nơi chỉ là trời nước mênh mông.

Tôi nhìn những chiến đấu cơ bay phía trước tôi, các oanh tạc cơ bay phía trước nữa và thấp hơn một chút. Chúng hình như không chuyển động, đứng một chỗ giữa không gian, lung lay nhè nhẹ, lên xuống rập rình trên một tấm đệm không khí căng phồng. Mọi thứ có thật không ?

Tôi lắc đầu để xua đuổi sự mù mịt trước mắt. Nhạc! Hãy lắng nghe! Tiếng dương cầm. “Khúc nhạc dưới trăng”… Hatsuyo một lần đã đàn cho tôi nghe.
Hatsuyo! Khuôn mặt nàng hiện ra… một ảo ảnh ? Tiếng nhạc lúc đầu phảng phất, rồi dần dần lớn hơn, phá vỡ hai lỗ tai tôi.

Tôi chưa bao giờ nói với nàng. “Hatsuyo, anh yêu em”. Tôi hét lớn. Không ai hết. Chỉ một mình tôi. Tôi nghĩ về nàng… tôi xoay lại nhìn Iwo Jima. Tôi chỉ thấy biển cả vô tận.

Tiếng nhạc biến mất. Bầu trời trong sáng trở lại. Động cơ máy bay đập mạnh vào tai tôi. Mấy chiếc Zero giữ vững đội hình hoàn hảo, chuẩn xác, cùng nhau lướt về phía định mạng của máu và lửa.

Niềm cô đơn cũng tan hẳn. Anh quá bi ai, Sakai. Anh là một phi công. Một Samurai. Nhiệm vụ… hãy làm những gì mà anh phải làm!

Tôi cố gắng sắp xếp kế hoạch cho những phút giây cuối cùng trong không gian, phương pháp nào để chúi xuống một hàng không mẫu hạm hữu hiệu nhứt. Chỗ nào yếu nhứt trên chiếc tàu ? Ống khói! Chui xuống ống khói. Ba chiến đấu cơ hè nhau đâm vô vỏ mỏng ở ngay mực nước ? Hy vọng trên sàn tàu có nhiều dãy phi cơ, bình của chúng chứa đầy xăng, bên trong chứa đầy bom. Chúi xuống những chiếc phi cơ, bom sẽ nổ, xăng sẽ cháy, biến chiếc tàu thành một địa ngục với hàng ngàn người đẫm trong máu, vang dậy tiếng la hét và ngập tràn sự kinh khiếp.

Đại dương trôi lướt phía dưới tôi. Chớp mắt, nhiều phút trôi qua và tôi nhìn thấy, xa về bên phải, một cột khói lả theo chiều gió, trôi chầm chậm trên mặt nước. Đó là hòn đảo Pagan, nổi trên mặt biển khoảng 90 thước, với một nhóm núi lửa ngầm, toả hơi nghi ngút qua sức nóng lan rộng và luồn sâu dưới nước. Nó nhắc tôi, nhớ lại những hình ảnh trong kinh Phật mà tôi từng coi qua lúc còn nhỏ. Mỉa mai thay, mảnh đất cuối cùng mà tôi được nhìn thấy là một mảnh đất lờ mờ, sôi sụt, bốc lửa và gớm ghê.

Bốn mươi phút sau, nhiều đám mây đen xuất hiện ở chân trời, phía trước chúng tôi, cách mặt nước hàng ngàn bộ. Những đám mây ấy đang trút cuồng phong và mưa lũ xuống mặt biển phía dưới. Tôi nhìn bản đồ. Lực lượng đặc nhiệm của địch quân, do trinh sát cơ chỉ điểm, nằm ở một nơi nào đó dưới cơn mưa bão dữ dội nầy.

Chúng tôi đã ở trong vòng bán kính tuần thám của phi cơ địch, và ra đa trên các chiến hạm chắc chắn đã phát hiện chúng tôi.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM