(tiếp)
Từ hồ sơ
"Tshusima. Nhật ký hải trình và chiến sự", chúng ta đã trích ra các tài liệu chọn lọc, liên quan đến việc đảm bảo kỹ thuật và hậu cần cho các chiến hạm hạm đội Thái Bình Dương số 2 từ ngày 1 tháng 4 đến 1 tháng 5 năm 1905, và cho các chiến hạm đội tàu của chuẩn đô đốc Niebogatov từ ngày 27 tháng 4 đến 1 tháng 5 năm 1905, mục đích để độc giả hiểu được khối lượng công việc mà các thủy thủ Nga đã phải làm trong quá trình đi từ các cảng biển Bantich đến các cảng trong biển "Nam Trung Hoa".
Cần phải dẫn thêm tư liệu này nữa:
"Trong thời gian đi từ Libava ra khỏi biển Bantich, hạm đội đã có 5 sỹ quan, 25 hạ sỹ quan chết, loại ngũ vì bệnh tật 10 sỹ quan và 42 hạ sỹ quan, trong đó 1 sỹ quan và 3 hạ sỹ quan bị rối loạn thần kinh và 28 người bị lao".
Trước trận hải chiến Tshusima, các hạ sỹ quan và sỹ quan của hạm đội Thái Bình Dương số 2 đã lập một kỳ tích chưa hề có trong lịch sử hải quân các quốc gia trên thế giới. Các chiến hạm Nga đã vượt qua 16.600 dăm hải trình khó khăn nhất mà không hề có được các căn cứ tiếp vận hậu cần kỹ thuật trên bờ. Dù thất bại đau đớn, nhưng chủ nghĩa anh hùng của đại đa số các thủy thủ Nga, cho đến nay vẫn gợi lên sự khâm phục chân thành. Không phải vì trận chiến thất bại, mà vì
"cuộc hành quân,....với trọng lượng than nặng nhất, luôn phải đi trong những biển lớn và mở, và những trọng tải khác..... của cả chặng đường xuyên đại dương" qua sắc lệnh của Tổng cục Hải quân số 199 ngày 30 tháng 8 năm 1907...
"Đức Hoàng thượng ngày 19 tháng 2 năm nay, đã rủ lòng thương mà quyết định......lập huy chương kỷ niệm hải trình vòng quanh châu Phi của hạm đội Thái Bình Dương số 2 dưới sự chỉ huy của đô đốc tùy tùng Rozdestvenskii, để gắn trên ngực các sỹ quan, hạ sỹ quan trên các chiến hạm đã tham gia chuyến đi" . Huy chương đó sẽ gọi là: "Kỷ niệm cuộc hành quân của hạm đội đô đốc Rozdestvenskii tại Viễn Đông". Xưởng đúc tiền Saint-Peterburg đã đúc tất cả 5.500 huy chương để tưởng thưởng cho tất cả các sỹ quan và hạ sỹ quan.
Phân tích ngắn gọn sự phát triển đề tài
"Sự chuẩn bị chiến trường sớm của nước Nga trước chiến tranh với Nhật" và sự phân tích một số nguyên nhân thất bại của Hạm đội Thái Bình Dương số 2 của Rozdestvenskii ngày 14 và 15 tháng 5 năm 1905 theo các tài liệu báo cáo của Ủy ban điều tra để làm sáng tỏ những hoàn cảnh trận hải chiến Tshusima, chúng ta sẽ làm trong phần kết thúc bản tổng kết lịch sử này.
Sau khi kết thúc chiến tranh Nga-Nhật, đi qua Cam Ranh, để trở về biển Bantich các tàu còn lại của hạm đội Thái Bình Dương số 1 và số 2 gồm: thiết giáp hạm "Hoàng thái tử", các tuần dương hạm "Nước Nga", "Bão tố", "Hiệp sỹ", và "Điana".
Năm 1914, các tuần dương hạm "Askold" và "Ngọc trai" của Nga đã bổ sung dự trữ than trong vịnh Cam Ranh, sau khi bước vào giai đoạn đầu của Thế Chiến 1 trong đội hình hạm đội liên hợp Anh-Pháp chiến đấu với các tuần dương hạm của Đức ở biển "Nam Trung Hoa".
Việc xây dựng căn cứ hải quân Cam Ranh được bắt đầu bởi chính quyền Pháp trong những năm 30 của thế kỷ 20. Trong những năm 1938-1940 đã xây dựng các tòa nhà bằng đá
(về sau do vùng 4 hải quân sử dụng), song song tiến hành san đắp tường bến, xây dựng trên nền cọc các cầu tàu gỗ để neo thả tàu.
Việc giao thông nối bán đảo với lục địa thời bấy giờ sử dụng phà.
Giai đoạn đầu Thế Chiến 2, quân đội Pháp trên lãnh thổ Việt Nam bị quân Nhật giải giáp. Ngày 23 tháng 7 năm 1941, Nhật và Pháp đã ký thỏa ước cho phép quân đội Nhật sử dụng các căn cứ quân sự trên toàn cõi Đông Dương. Các chiến hạm Nhật sẽ ghé vịnh Cam Ranh. Chiến tranh và các sự kiện nối tiếp đã khiến việc xây dựng căn cứ hải quân trên bán đảo phải ngừng lại cho đến giữa thập kỷ 60 thế kỷ 20.
Sau khi nước Nhật đầu hàng và Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, ngày 2 tháng 9 năm 1945 đã phát đi bản Tuyên ngôn Độc lập với tuyên bố ra đời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cuối năm 1945, nước Pháp mưu toan thiết lập lại ách thuộc địa, đã đổ bộ lực lượng quân sự vào Việt Nam, tiến hành mở rộng chiến tranh, lúc đầu ở Miền Nam Việt Nam, rồi sau đó lan ra cả nước. Năm 1949, thực dân Pháp đã dựng lên ở Miền Nam Quốc gia Việt Nam, chia cắt nước Việt Nam thống nhất ra làm hai: VNDCCH - thủ đô là Hà Nội, Nam Việt Nam - thủ đô là Sài Gòn. Để đáp trả, nhân dân Việt Nam đã đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân. Nỗ lực cùng với sự giúp đỡ của nước CHND Trung Hoa và Liên Xô, phong trào kháng chiến đã thường xuyên giáng cho quân đội Pháp những đòn chí mạng.
Cao trào của cuộc đấu tranh vì độc lập đã đến vào năm 1954, sau thất bại nghiêm trọng của quân đội Pháp tại
thung lũng Điện Biên Phủ. Hoàn cảnh đó và sự đòi hỏi của cộng đồng Thế giới đã thúc đẩy việc
ký kết hiệp định Giơnevơ về lập lại hòa bình ở Việt Nam và rút quân đội Pháp về nước.
Trong những năm 1955-1956, quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam, nhưng ở Nam Việt Nam đã lập nên chế độ thân Mỹ thay cho chính quyền thân Pháp. Thế chỗ 300 ngàn quân Pháp là 500 ngàn nhân viên quân sự Mỹ. Chính quyền Nam Việt Nam, với sự che chở và hậu thuẫn của Hoa Kỳ đã xé bỏ hiệp định Giơnevơ. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc lại bắt đầu vào năm 1960, do MTDTGP Miền Nam lãnh đạo. Phong trào du kích của MTDTGPMN với sự giúp đỡ quân sự của VNDCCH đã giành được ảnh hưởng so với "chế độ Sài Gòn" ở các vùng nông thôn.
Trong những năm 1964-1965, Hoa Kỳ leo thang chiến tranh đường không chống VNDCCH, và năm 1965 đã đưa quân đội Mỹ vào Nam Việt Nam, giành quyền điều khiển trực tiếp cuộc chiến tranh chống lại phong trào yêu nước do MTDTGPMN đứng đầu. Các máy bay chiến thuật của Không quân và Hải quân Mỹ đã được sử dụng để chống lại các lực lượng yêu nước của MTDTGPMN ở Nam Việt Nam, cũng như VNDCCH. Máy bay Mỹ tập trung đánh phá các trận địa phòng không, công trình quân sự, nhà máy điện, các xí nghiệp công nghiệp quốc phòng, mạng lưới giao thông, các kho xăng dầu nhiên liệu. Các tàu sân bay thường xuyên dàn đội hình chiến đấu cách bờ biển VNDCCH từ 100-200 km. Năm 1965, trong tổng số 16 tàu sân bay xung kích của Mỹ, đã có 11 tàu sân bay tham gia vào hoạt động chiến tranh tại Việt Nam (trong đó có 2 tàu thuộc biên chế hạm đội Đại Tây Dương).
Để tiến hành chiến tranh đường không chống Miền Bắc Việt Nam và thực hiện chiến tranh tổng lực chống MTDTGPMN, người Mỹ cần phải có các căn cứ cho các lực lượng không quân và hải quân của mình.
Vì vậy, Bộ chỉ huy quân đội viễn chinh Mỹ đã quyết định xây dựng một loạt căn cứ quân sự ở Miền Nam Việt Nam, trong đó có căn cứ Hải quân Cam Ranh.
Trong những năm 1967-1969, đã xây dựng sân bay với hệ thống đường băng dài 3,5 km, có thể tiếp nhận mọi loại máy bay, kể cả máy bay ném bom chiến lược và máy bay vận tải quân sự hạng nặng. Trong thời gian Mỹ xâm lược Việt Nam, sân bay này sử dụng để cung ứng hậu cần cho quân viễn chinh Mỹ và tăng cường khả năng vận chuyển sâu vào các vùng lãnh thổ Việt Nam, các loại hàng hóa và vật dụng chiến tranh chở bằng đường biển từ nước Mỹ tới. Riêng các máy bay ném bom chiến lược B-52 không đặt căn cứ chính tại đây.
Đồng thời tại đây đã xây dựng hệ thống hạ tầng hàng không với các kho nhiên liệu, kho bom cho máy bay, các kho mìn, tên lửa, đạn pháo v.v...Các kho chứa này được đắp đê quây bằng các bó cây to bao quanh và phủ cát, đến lượt mình các bó cây được kẹp gắn chắc với nhau và đổ hắc ín.
Trong những năm 1968-1969, đã xây dựng sở chỉ huy dự bị với trung tâm truyền tin, trong số đó có trung tâm liên lạc viễn thông qua tầng đối lưu. Đã xây dựng khu nhà ở cho phi công (chính là nơi đóng quân ban đầu của PMTO), kho thiết bị y tế và dụng cụ kỹ thuật. Phủ khắp bán đảo là một mạng lưới đường ô tô trải nhựa, tại vịnh Bình Ba có xưởng sửa chữa tàu biển.
Các cầu tàu do Pháp xây dựng bằng gỗ được cải tạo lại, người ta dựng lên 3 cầu cảng bê tông, trong đó một cầu cảng được nâng hạ bằng kích thủy lực.
Năm 1972, ở phía nam bến phà cũ đã xây dựng một cây cầu kết cấu dàn thép ống kép. Ngày nay đó là
cầu "Long Hổ".(Ảnh: cầu Long Hổ (hay Long Hồ cũng vậy) ngày nay, nguồn ảnh: xem properties của hình)