Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 08:56:57 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Những ngày ở Cánh Đồng Chum  (Đọc 49628 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #50 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 06:03:26 pm »

*
*   *

Tiểu đoàn 13 phòng ngự Phu Cút đã lập công trận đầu vang dội. Song niềm vui chưa trọn thì trong xóm trú chân của tiểu đoàn bộ binh xảy ra chuyện rắc rối có quan hệ đến Tiểu đoàn 13.

Một cháu gái ra tắm ở ao nước cạnh cơ quan tiểu đoàn bị mất một nhẫn vàng. Hỏi ai lấy thì thời điểm đó dân không đi lại, chỉ có bộ đội đang làm việc trong nhà. Sau khi xem xét kỹ và bàn luận trong nội bộ cơ quan cùng tổ chuyên gia, Bô-khăm, Phuông và tổ chuyên gia khẳng định cháu bé này đánh rơi nhẫn xuống nước. Nếu không tìm ra thì nhân dân không khỏi nghi ngờ bộ đội. Nghĩ như vậy, Đàm quyết định tổ chuyên gia sẽ phải tát cạn nước để tìm bằng được chiếc nhẫn cho cháu bé. Mấy bác hàng xóm đến chứng kiến cũng thấy ái ngại cho việc làm của bộ đội.

Bộ đội tập trung nào gàu, nào chậu tát nước hàng mấy tiếng đồng hồ. Nước bắt đầu cạn, vài con cá hoảng hốt nảy lên bờ cỏ. Các anh Bô-khăm, Phuông, Đàm, Đồng cứ theo mớn nước rút mà mò tìm. Bà con lắc đầu trước sự kiên nhẫn của bộ độ. Bố mẹ của cháu bé cũng rất ái ngại.

Thật là mò kìm đáy bể. Việc tìm kiếm kéo dài. Đã có biểu hiện chán nản. Tôi cũng nghĩ là khó lòng tìm được. Nhưng bất ngờ Bô-khăm nhảy đứng lên reo to: đây rồi, đây rồi! Ôi cái nhẫn bé tý tẹo, mày làm chúng tôi mệt sắp chết đi được!

Đúng là cái nhẫn trẻ con không đầy nửa chỉ vàng tây, nhưng để ổn định lòng tin của dân, các anh đã thắng. Thêm một cử chỉ để nhân dân địa phương càng tin yêu, mến phục bộ đội.

Lãnh đạo bộ đội phòng ngự Phu Cút, chỉ huy đơn vị sợ nhất là chuyện đào ngũ. Vì một chiến sĩ trốn đi là mang theo cả bí mật của trận địa phòng ngự. Tiến công thì bố trí đội hình, cách đánh do ta chủ động, cần thì thay đổi. Còn phòng ngự thì núi non đâu vẫn ở đó, lực lượng, trận địa đâu phải dễ thay đổi. Về việc này thì anh Xa-mán cùng Lê Văn và tôi đều lo lắng nên công tác tư tưởng, công tác bảo đảm vật chất được hết sức quan tâm. Lo thế, nhưng ở Phu Cút, Tiểu đoàn 13 vẫn ổn. Trái lại các đơn vị phía sau như Tiểu đoàn 2, bộ đội pháo binh, cao xạ, công binh, Tiểu đoàn 24, Tiểu đoàn 701 chuyện đào ngũ lại xảy ra nhiều. Số đào ngũ theo địch ít mà chủ yếu là trốn về địa phương. Chiều hướng lãnh đạo là tìm nguyên nhân ở đời sống gian khổ và thời gian xa nhà lâu năm.

Lê Văn làm việc với Xa-mán và Xi-phon bàn kế hoạch tổ chức hội nghị chính trị- tư tưởng toàn Quân khu, rồi giao lại cho tôi theo dõi giúp bạn và anh bận đi dự cuộc họp của Đoàn 959 ở Hà Nội. Chuyên gia các tiểu đoàn theo hướng dẫn của Quân khu giúp đơn vị tổ chức cuộc họp nghiên cứu công tác chính trị - tư tưởng từ cơ sở trở lên.

Từ đơn vị của Ngô và Xa-lỳ đến Xuân Mai, Trần Tín, Xuân Vinh, Hoàng Sang, các cuộc tự kể của cán bộ chiến sĩ Lào có người dào ngũ làm tôi phảng phất thấy có vấn đề đáng phải quan tâm, chứ không đơn giản chỉ do cuộc sống khổ sở và nhớ nhà. Trong chuyến đi này, có khi là một mình, có khi đi cùng Xa-mán, Xi-phon. Phản ánh của các đơn vị làm chúng tôi chú ý: có sự chuẩn bị đi đường xa hàng tháng trời và những cuộc chè chén thâu đêm ở các chợ Lạt Thơn, Lạt Thuổng, Lạt Buộc hoặc các tiệc rượu do các cô gái con cháu của tà xẻng Un Khăm ở Mường Phàn bày ra làm cho Đuông và Xa-lỳ, Ngô rất bực tức vì nếu không gây cãi cọ tranh giành nhau giữa các đại đội của Tiểu đoàn 24 thì sau đó cũng có vài ba người đòa ngũ. Sàng lọc lại, chúng tôi thấy đã có bàn tay địch nhúng vào. Xa-mán nhất trí phải bổ sung ngay nội dung chống chiến tranh tâm lý của địch trong hội nghị chính trị - tư tưởng của quân khu.

Giữa tháng 8 năm 1965, Xa-mán tổ chức hội nghị gồm cơ quan và chuyên gia Quân khu, các chính trị viên và chuyên gia chính trị tiểu đoàn, một số báo cáo viên của đơn vị có sự việc điển hình. Qua hai ngày làm việc, hơn chục bản báo cáo điển hình được trình bày đã làm rõ diễn biến nhiều mặt nhiều vẻ về tình hình chính trị - tư tưởng trong các đơn vị khi tiến hành đánh mật tập, khi địch sử dụng phi cơ Mỹ, khi đơn vị chốt phòng ngự dưới điều kiện phi pháo cao, khi đơn vị đi làm công tác cơ sở vùng sau lưng địch, khi tác chiến gặp khó khăn, và đặc biệt khi Quân khu đã giành được thắng lợi ở Cánh Đồng Chu. Nhiều bản báo cáo đã nêu rõ hiện tượng dụ dỗ chiến sĩ ta đào ngũ. Địch đã chỉ đạo việc tiến công tâm lý làm suy yếu bộ đội với những mức độ khác nhau: cao nhất là trốn theo địch (có súng hoặc không có súng), thứ hai là trốn về địa phương, thứ ba là trốn ra lấy vợ là dân thường. Cả ba kiểu trốn đó đều làm suy yếu thực lực và sức chiến đấu của khối chủ lực Cánh Đồng Chum.

Thành công của hội nghị là tìm rõ nguyên nhân của việc bộ đội đào ngũ, phần lớn vì cuộc sống chiến đấu gian khổ, ác liệt, lâu dài và hoạt động chiến tranh tâm lý, gián điệp của địch. Xa-mán dành hẳn một buổi yêu cầu tôi giới thiệu về lịch sử và tác hại của chiến tranh tâm lý, gián diện của Pháp đã dùng để xâm lược Đông Dương trước đây và những kế hoạch họat động chiến tranh tâm lý mà Mỹ đang tiến hành ở Việt Nam. Hội nghị đã có tác dụng tích cực làm chuyến biến toàn diện phương hướng và nhiệm vụ công tác chính trị, tư tưởng của bộ đội Quân khu Cánh Đồng Chum.

Phong trào chiến tranh nhân dân trong Quân khu bắt đầu có chuyển biến tốt, số du kích từ 500 đã lên 2.600. Thanh thiếu niên được học tập và xung phong tham gia bảo vệ bản làng. Cuối năm 1965, Quân khu mới tổ chức động viên thử mà đã thấy nhiều hứa hẹn. Mường Pẹch có một em gái tên là Xao-nọi mới 14 tuổi, người lại gầy yếu nhưng nhất định xin bố mẹ cho đị bộ đội đánh Mỹ.

Khi bố mẹ của em giải thích rằng em còn bé thì Xao-nọi trả lời: Lớn lên, hết giặc, biết đánh ai. Em còn bé, sức yếu sẽ xin làm cấp dưỡng lo cơm nước cho bội đội…

Mẹ Xao-nọi phân tích: bố mẹ chỉ được mình con là gái. Người Lào ta thường phải trông vào con gái. Lớn lên con lấy chồng lùng, bố mẹ trông chờ nhiều vào con dấy. Đó là nghĩa vụ đề đáp công ơn cha me. Con không nghĩ đến điều đó sao?

Xao-nọi trả lời: con bé nhưng học rồi, con lại nghĩ khác mẹ. Lúc này công đền đáp cao nhất của ngời con bất kể trai hay gái chính là đánh Mỹ giải phóng cho bản làng, cho mẹ cha. Con đi chính là để bảo vệ bố mẹ, đó là đền đáp công ơn.

Mẹ cô chịu, nhưng ông bố dọa: bố mẹ lo cho con ăn mặc, học hành chính là để con khôn lớn, lập gia đình cho bố mẹ được nhờ. Nếu con cứ dứt khoát đòi đi thì từ nay chẳng sắm sửa gì hết.

Đêm đó Xao-nọi viết mọt bức thư ngắn: “Xin phép cho con đi cứu nước. Con chỉ xin mang theo một bộ quần áo. Còn dây chuyền và những cái khác con xin gửi lại bố mẹ. Sau này chiến thắng trở về con sẽ đền đáp công ơn bố mẹ”.

Bức thư và các đồ đạc khác cô gói lại để trên gối. Bốn giờ sáng hôm sau cô theo các chị trốn lên trụ sở tuyển quân của huyện.

Mờ sáng, bố mẹ Xao-nọi thức dậy chẳng thấy con chỉ thấy bức thư. Hai ông bà vừa thương con vừa ân hận ngồi khóc. Hai người lại bảo nhau gói bánh, mua quả, và chiều hôm đó mẹ cô lên huyện tìm con trao quần áo và quà cáp, động viên con yên tâm đi bộ đội. Khi chia tay, bà còn âu yếm, quàng trả dây chuyền vào cổ cho con.

Tình hình nói chung phát triển tốt. Tuy vậy, Quân khu vấn bám sát nắm chắc những hiện tượng ở vùng Bản Ban huyện Mường Khăm vì đây là nơi đang diễn ra những chuyện không bình thường.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #51 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 06:04:01 pm »

*
*   *

Mường Khăm là huyện hậu phương, là vựa lúa của tỉnh, đất tốt, ruộng nhiều, nhân dân có đời sống cao nhất so với các huyện trong tỉnh. Ấy thế mà bộ đội địa phương phải lấy người từ Nậm Nơn về. Hàng năm vẫn có vài trăm thanh niên đi lính cho Vàng Pao và hàng chục gia đình trốn vào Long Chẹng. Trong khi đó tuyển quân cho tỉnh thì chỉ được hai chục người, vào bộ đội năm mười hôm đã lẻ tẻ chuồn về nhà. Thu thóc cứu nước thì được ít, nhưng đổi thóc lấy hàng mậu dịch thì nhiều gấp ba gấp bốn các huyện khác. Có nhiều buổi Tư lệnh Phun-xi-pa-xớt cùng Xa-mán, Xing-ka-pô, Xi-phon, Bun-niên, Lê Văn và tôi ngồi trao đổi hàng giờ. Ai cũng thấy đây là một vùng yếu. Đồng chí Nu-hắc Phun-xa-vẳn cũng đồng tình với ý kiến này. Trái lại một bộ phận lãnh đạo ở tình cùng tổ công tác 35 lại khẳng định đây là đơn vị mạnh, đặc biệt là mạnh về thành tích mậu dịch, ruộng chiêm thí điểm, về ký thuật ngâm giống “ba sôi hai lạnh”…

Nhân dịp đi kiểm tra việc bảo vệ kho tàng và phòng không phía sau, theo dõi kết quả đợt tiễu phỉ ở đường số 6 do đoàn anh Hòa dưa quân xuống chỉ đạo trực tiếp, tôi đã dành hẳn một tuần xuống thăm cơ quan huyện và đội công tác ở Khăm-mặn.

Được ở chung với cơ quan mấy ngày, tôi thấy họ ăn uống rất sang. Lòng lợn, phở gà, phở bò, rượu nếp cẩm, cá chép rán, vịt bầu, xôi trắng, gạo thơm không thiếu. Muốn là được. Chợ Bản Ban họp bên cạnh nhà, giá lại rất rẻ. Họ tự đánh giá là công tác đã đi vào nền nếp, khoa học nên ít vất vả, ít phải xuống cơ sở, khi đi thì đã có cán bộ biệt phái xuống chuẩn bị. Phát triển Đảng, bồ dưỡng cán bộ, họ sắp xếp rất chạy, chỉ có điều là cán bộ, nhất là quân sự như thôn đội, xã đội, trung đội du kích, đại đội du kích cứ thay xong anh nào hoạt động khá là bị phục kích, bị ám hại. Đó là điều thắc mắc duy nhất của họ. Nhưng họ tự giải đáp cũng đơn giản: do địch đóng ở Xen Chồ ra đánh. Chấm hết! Không cần suy xét, nghi vấn gì thêm.

Nhìn cuộc sống của họ ở giữa cái ngã ba Bản Ban trù phú này tôi thấy thật khó hiểu. Có lẽ chiến tranh đã bỏ quên họ hay họ đã lãng quên chiến tranh! Có lẽ không cần phải tìm đâu xa, cạnh nhà họ, đường số 7 bị sứt sẹo, băm nát; các chiến sĩ vận tải, công binh đang ngày đêm giành giật, chiến đấu với máy bay, bom đạn, pháo sáng. Một lần họ làm tôi xấu hổ vì phải trông thấy một cảnh khó coi. Sau mấy ngày công tác, tôi đi tìm chủ nhà để trao đổi ý kiến và chào tạm biệt. Tìm không thấy, tôi đành liều đi sang một vạt đồi cách đó chừng 500 mét thì gặp một ụ mối, bên trong khoét thành hầm giữa nương dứa. Nhìn thấy hai “thủ trưởng” (chủ tịch và đội trưởng công tác) ngồi xếp bằng tròn, sổ tay đặt trên đùi đang trao đổi ghi chép. Bên cạnh, ba cô gái phục vụ với ba bộ ngực đồ sộ nằm cong người ép sát và lưng và đùi hai thủ trưởng. Thấy vậy, tôi chào qua quýt và thoái lui.

Trên đường về tôi nhớ lại bức tranh vẽ ở chùa, cảnh đức Phật Thích Ca bị gái đẹp khiêu khích khi thoát nhà đi tu. Liên hệ với cảnh đó với cảnh thấy hôm nay, tôi càng “phục” cho hai ông “thủ trưởng” khéo bố trí “phòng làm việc, nghỉ ngơi” thời chiến này. Mọi sự hư hỏng chắc có nguồn gốc từ chỗ này đây! Trong khi Quân khu đang dự tính đến khả năng địch có thể tập kích Bản Ban, cắt đường số 7, phá cơ sở của ta thì tiểu đoàn cao xạ lại cử người lên Quân khu báo cáo về việc chủ tịch Mường Khăm cùng độ trưởng công tác đến yêu cầu cao xạ rút khỏi Bản Ban với lý do máy bay bay đến đánh cao xạ sẽ làm dân bị vạ lây. Tại sao lại có yêu cầu kỳ quái như vậy? Một dấu hỏi được đặt ra.

Quân khu chấp nhận việc “di chuyển cao xạ” và cho đến tháng 5 năm 1966 một bản báo cáo đầy lạc quan được huyện giử về Quân khu như sau: “Một chủ tịch tà xẻng cách đây một năm đã trốn theo địch, nay được cử làm tiểu đoàn trưởng. Tin tức cho biết người này sắp được ra đóng ở Xen Chồ. Anh ta đề nghị: nếu được ra Xen Chồ thì sẽ thực hiện một kế hoạch “binh biến” chiếm Xen Chồ, đưa quân về hàng. Đê thực hiện kế hoạch này chỉ cần Quân khu cho một tiểu đoàn mạnh vào giúp sức, thực hiện nội công ngoại kích, bảo đảm cầm chắc phần thắng”.

Người báo cáo còn nói: “Đây là cả một quá trình xúc tiến binh vận công phu, huyện đã cố đầu tư. Thật là một cơ hội nghìn năm có một. Quân khu không nên bỏ lỡ”.

Quân khu khen và gửi quà úy lạo “người hùng” đã làm ra cái kế hoạch này! Thư Quân khu viết ngắn gọn: “Quân khu đồng ý. Sẽ có cán bộ xuống làm việc cụ thể với huyện”.

Chủ tịch huyện nói với đội trưởng khi cầm thư của Quân khu về:

- Kỳ này nhất định ông phải được phong anh hùng. Đội trưởng công tác cũng tin là mình sẽ được phong anh hùng thật. Từ ngày có chiến tranh trên đất Lào đến nay đã có anh nào tổ chức được một cuộc binh biến? Anh ta thấy khoái.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #52 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 06:04:19 pm »

Sau đó, Bộ Chỉ huy Quân khu họp có Lê Văn và tôi tham dự. Cuộc họp đã có những nhận định khác hẳn:

- Chắc chắn đây là một kế hoạch tập kích Bản Ban được soạn thảo từ Long Chẹng đưa ra thực hiện ở Xen Chồ trong mùa mưa (diệt tiểu đoàn của ta rồi đổ quân ra đánh phá kho tàng, cướp dân).

- Ta phải tương kế tựu kế, dùng mưu địch diệt địch, phải tiêu diệt Xen Chồ để xây dựng lại cơ sở Bản Ban.

- Để bảo đảm bí mật tuyệt đối, trừ hai tiểu đoàn tiến công, mọi việc chuẩn bị phải do các sĩ quan chủ yếu của Quân khu và đoàn chuyên gia làm. Xa-mán và tôi nhận trách nhiệm tổ chức chỉ đạo thực hiện. Phải báo cáo trực tiếp và thường xuyên với đồng chí Nu-hắc.

Đầu tiên tôi cử tổ công tác gồm một điện đài cùng các đồng chí Cơ tác chiến và Doanh quân báo mang bản đồ kế hoạch hiệp đồng binh biến xuống phối hợp cùng huyện làm việc với con tin “người hùng” kia. Bản đồ hiệp đồng chú yếu vẽ rõ vùng Bản Ban, Xen Chồ, nhằm vào ba điểm: vị trí sẽ tập kết của tiểu đoàn quân ta; đường hành quân của tiểu đoàn, vị trí tập kết để chiếm lĩnh bàn đạp xuất kích sát chân Xen Chồ (nơi địch dự kiến kéo ta vào để diệt). Còn thời gian hành động sẽ do “người hùng” tính toán và báo ra trước năm ngày để Quân khu có thì giờ ra quân cho chủ động. Lưu ý từ mồng 5 tháng 6, huyện phải cấm không được cho dân đi vào săn, khai thác lâm sản ở vùng tập kết bắc Na Ung để khỏi chạm bộ đội ta (đây là điều thăm dò kiềm tra quan trọng).

Các đồng chí Bun-niên, chủ nhiệm hậu cần quân khu, Công, chủ nhiệm hậu cần chuyên gia, Chum, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 và Pa-xợt, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Pa Chay (người H’mông) được triệu tập lên Quân khu để thống nhất vị trí tập kết, chuẩn bị lương thực cho bộ đội trước giờ xuất kích. Anh Chum chọn khu rừng cấm sau Bản Son. Chum và Pa-xợt dẫn cán bộ đi trinh sát Xen Chồ từ phía nam lên để vạch kế hoạch mật tập Xen Chồ lúc thời cơ đến.

Đúng ngày 5 tháng 6, hai chiếc T28 đến ném bom bắn phá khu vực Na Ung, nơi ta hứa tập kết quân. Cơ được lệnh đến phê bình huyện “vì đã để máy bay ném bom là bộ đội ta suýt thương vong nặng!”. Nhận được tin này Xa-mán cùng tôi xác định: Thế là cá đã cắn câu!

Tổ công tác của Cơ được lệnh: Doanh cùng điện đài vào đặt đài quan sát, hàng ngày nắm vị trí Xen Chồ, nắm việc điều quân của địch, đặc biệt là khi trực thăng đưa pháo đến phải báo cáo ngay. Rút kinh nghiệm lần tập kích trước, địch đã đưa pháo 105 xuống Xen Chồ bắn ra ngã ba Bản Ban. Quân khu phán đoán lần này Bản Ban thế nào địch cũng thả pháo xuống trước một hai ngày.

Ngày 7 tháng 6, “người hùng” xác định ngày hành động là 12 tháng 6, Bun-niên, Công được lệnh mổ lợn, nấu bánh chưng chuẩn bị đủ mỗi người ba bữa ăn. Bếp Hoàng Cầm nằm trong rừng cấm không hề thoát ra tý khói nào. Chiều ngày 9, bộ đội của Chum và Pa-xợt đi qua rừng cấm, mỗi người lãnh ba bánh chưng, ba miếng thịt rán rồi băng rừng bí mật vượt qua Tha Lin Nọi đến suối Nậm Phàn. Xa-mán cùng Hoàng Ngôn phó đoàn chuyên gia mang điện đài rực tiếp chỉ huy trận tập kích này.

Anh Xing-ka-pô cùng tôi chỉ đạo hiệp đồng giữa cánh nghi binh với cánh tiến công. 18 giờ ngày 9, điện của Xa-mán gửi về: “Bộ đội bắt đầu vượt suối Nậm Phàn. Đường tiếp cận bí mật an toàn”. Từ Bản Ban, cánh nghi binh báo cáo: “Trưa ngày 9 tháng 6, pháo 105 của Xen Chồ đã bắn thử ra ngã ba Bản Ban ba quả. Cơ quan huyện yên tĩnh” (thế là địch chưa có gì nghi ngờ). 20 giờ, Cục Kỹ thuật điện cho biết: “Địch báo động, có một tiểu đoàn Pa-thét đã vượt đường số 7. Ngày 11 tháng 6 sẽ đánh Xen Chồ”. Thế là Cục Kỹ thuật đã theo dõi địch đúng yêu cùa của chúng tôi. 23 giờ, điện thoại của Xa-mán: “Bộ đội dang tiềm nhập, trận địa yên tĩnh. 1 giờ nổ súng”.

Nhận được những báo cáo trên, đồng chí Nu-hắc thở phào:

- Thế là mọi việc rất ăn khớp. Ta đánh trước địch một ngày.

Trên thực tế sự việc đã diễn ra rất khớp, đúng dự kiến. Khi chiến sĩ ta tiếp cận trận địa thì cảnh tượng trước mặt quân ta là một trại lính phỉ ồn ào lộn xộn. Chẳng canh gác, chẳng báo động. Chúng được phép tự do ăn chơi, trai gái, cờ bạc thả sức để chờ đón “ngày chiến thắng”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #53 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 06:05:16 pm »

Đúng 1 giờ sáng ngày 10 tháng 6, tiểu đoàn của Chum, tiểu đoàn Pa-xợt nổ súng. B40, AK, thủ pháo nổ giòn. Sau 30 phút quân ta hoàn toàn làm chủ trận địa, pháo hiệu đỏ vút lên giữa trời đêm. Hơn 150 tên phỉ bị loại khỏi vòng chiến. Số khác chạy ra rừng vướng mìn của chúng, chết thêm một số. Việc kiểm soát chiến trường được làm ngay trong đêm. Cái mà Xa-mán khoái nhất là khẩu pháo còn mới nguyên vẹn và văn phòng tiểu khu Xen Chồ vẫn cài cửa nghiêm chỉnh, trong đó có đầy đủ danh sách tổ chức chìm của địch và danh sách trả lương cho tay sai của chúng ở cấp huyện và tà xẻng ở các bản. Xa-mán giao cho Chum và Pa-xợt thu dọn chiến trường, bố trí Pa-chay giữ Xen Chồ còn anh thì ôm chặt khối tài liệu, xem lướt qua cái chợ, hàng hóa đang chất đầy sân bay để chờ phiên họp ngày mai. Xa-mán cùng tổ bảo vệ lách đường đi để về ngay trong đêm.

9 giờ sáng ngày 10 tháng 6, tôi đang chờ ở sở chỉ huy đoàn chuyên gia thì được điện thoại. Nhấc máy lên, đã nghe tiếng đồng chí Nu-hắc sang sảng:

- Anh Bình phải không? Chiến thắng lớn lắm! Nếu không bận anh sang ngay, ta bàn làm một chiến thắng to hơn nữa.

- Vâng, vâng! Tôi ra ngay.

Giọng nói phấn khởi chưa từng có của đồng chí Nu-hắc đã thúc giục tôi vừa đi vừa chạy, mấy phút sau đã đến nơi. Xing-ka-pô, Xa-mán nét mặt rạng rỡ đưa cho tôi xem bản danh sách trả tiền hàng tháng từ đầu năm 1966 đến tháng 6 của tiểu khu Xen Chồn cho tay sai của chúng ở huyện Mường Khăm. Mười hai ủy viên thì đã có mười người có tên lĩnh tiền của địch trong danh sách này. Đọc qua bản danh sách, tôi nói: chúng ta đánh giá tình hình không sai.

Đồng chí Nu-hắc nói tiếp: ta đã thắng trận thứ nhất. Trận thứ hai này làm tốt thì thắng lợi mới trọng vẹn! Vừa nói đồng chí vừa chỉ vào tập hồ sơ chiến lợi phẩm.

Xa-mán phấn khởi nói: tôi đề nghị làm luôn hôm nay để chúng không kịp đối phó.

- Tôi đã ra lệnh gọi một xe bọc thép cùng một xe Gát 66 chở trung đội bảo vệ. Anh Xing-ka-pô bổ sung.

Đồng chí Nu-hắc tiếp: tôi giao nhiệm vụ cho Xa-mán đi làm việc này. Trước hết hãy phổ biến tin chiến thắng cho huyện, sau là đưa quyết định gọi tất cả các cán bộ huyện về gặp Trung ương ngay. Phải làm kiên quyết, bất ngờ...

Xa-mán đi rồi, đồng chí Nu-hắc kéo anh Xing-ka-pô và tôi lại bàn tiếp.

Anh nói: tôi bắt buộc phải ra quyết định đình chỉ sinh hoạt của Đảng bộ Bản Ban và cử một ban cán sự mới do U-đôm, chủ nhiệm chính trị tỉnh đội, Thường vụ tỉnh ủy về làm Bí thư Mường Khăm. Quân khu chọn một đội công tác giúp ban cán sự của U-đôm phát động nhân dân tố cáo, trừng trị bọn phản động. Chọn cốt cán mới để củng cố lại chính quyền, xây dựng du kích và chấn chỉnh các mặt khác giúp huyện.

Qua trao đổi, anh Pô đề nghị lấy nguyên khung cán bộ kể cả học viên gồm một trăm người của trường hạ sĩ quan Quân khu đảm nhiệm việc này. Lấy ngay thực tế, phát động quần chúng để làm bài học trực quan cho học viên. Đồng chí Khâm chuyên gia hiệu trưởng nhà trường cùng đồng chí Nhân đội trưởng công tác mới của huyện bắt tay giúp cuộc phát động quần chúng, xây dựng, củng cố cơ sở Mường Khăm. Ngân vốn là dân Nghệ An đã giúp Nậm Nơn, sau đó về làm tổ trưởng giúp Mường Pẹch được đồng chí Nu-hắc tín nhiệm, lại là bạn cũ của U-đôm khi ở Nậm Nơn.Thiếu tá Khâm là người hiền lành, xông cáo, thận trọng, hợp với Ngân và U-đôm, đã giúp bạn củng cố được cơ sở Bản Ban đổi mới vững chắc mà sau này thực tế chống chiến dịch Cù Kiệt của địch đã chứng minh kết quả này.

Trưa ngày 10 tháng 6, chiếc xe bọc thép phủ kín lá ngụy trang đưa Xa-mán xuống thẳng sân cơ quan huyện. Nghe tiếng súng nổ ở Xen Chồ, cán bộ và nhân dân Bản Ban đang chờ tin chiến thắng. Vì vậy không đợi lệnh tập hợp, tất cả đã tề tựu. Cán bộ ngồi trong, nhân dân đứng ngoài.

Vừa xuống xe, Xa-mán nói to: “Chiến thắng lớn”. Tất cả vỗ tay hò hét nhường chỗ cho Xa-mán bước vào.

Khi tất cả đang tập trung vào Xa-mán thì từ ngã ba, chiếc Gát 66 dừng lại: trung đội bảo vệ nhảy xuống và rẽ hai cánh đi vào dàn thế trận bao vây từ xa quanh hộ trường giống như công việc cảnh giới mỗi khi có cấp trên quan trọng xuống thăm huyện, không ai để ý.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #54 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 06:05:43 pm »

Mở đầu Xa-mán nói gọn về diễn biến trận đánh, về khẩu pháo 105 mới toanh, về một sân bay đầy hàng hóa mà phải hàng trăm dân công mới chuyển hết. Anh kết thúc khi nói xong nhiệm vụ chiếm giữ Xen Chồ để bảo vệ công cuộc củng cố huyện Mường Khăm. Anh mời nhân dân về yên tâm lo việc sản xuất và mời tất cả cán bộ huyện ở lại làm việc tiếp. Mọi người hoan hỉ ra về.

Ở lại hội trường, Xa-mán rút tập giấy ra nói: chiến lợi phẩm có nhiều và tài liệu cũng nhiều; theo chỉ thị của đồng chí Nu-hắc, Trung ương sẽ cùng với tỉnh và huyện nghiên cứu tài liệu để giúp cho địa phương. Anh đọc danh sách 10 người được triệu tập lên ngay Quân khu để gặp đồng chí Nu-hắc chiều hôm đó, không phải chuẩn bị gì hết. Chiếc xe bọc thép, rồi chiếc Gát 66 theo hiệu lệnh đã vào đỗ ngay trước sân. Trung đội bảo vệ khép vòng vây lại. Mười người có tên lần lượt lên xe Gát dưới sự giám sát của anh em bảo vệ. Hồn vía của họ quay cuồng, không còn kịp trở nay nữa. Xe Gát phòng lên trước, xe bọc thép của Xa-mán đuổi theo sau. Khi gặp đồng chí Nu-hắc, trước mọi chứng cớ họ đành cúi đầu nhận tội vì bị mua chuộc, vì hàng hóa, tiền bạc… đã biến mình thành tay sai của địch hại dân, hại cách mạng.

Một vấn đề nổi cộm làm cho Quân khu và Trung ương phải suy nghĩ, tìm hiểu trong suốt ba, bốn năm nay đã được giải đáp. Chính quyền Bản Ban bắt đầu vững mạnh từ đây.

Một ngày tháng 8, tôi về Hà Nội nhận chỉ thị triển khai thực hiện nghị quyết cuộc hội đàm của hai Bộ Chính trị Việt – Lào. Theo người hướng dẫn, tôi vào thẳng Câu lạc bộ Quân nhân, 19 phố Hoàng Diệu. Người ra đón ở cửa câu lạc bộ là Trung tướng Hoàng Văn Thái. Thấy tôi tóc tai, quần áo xơ xác, lấm láp bụi đường, anh Thái hồ hởi nói:

- Ôi chao, đúng là ông “tướng phỉ”, sao mà xơ xác, bẩn thỉu thế kia?

Tôi báo cáo anh Thái rằng tôi đã đi suốt đêm, về đến Hà Nội xuống xe vào thẳng đây.

Anh Thái tiếp:

- Có nhận được điện triệu tập dự cuộc họp “đánh tiêu diệt” này không?

Tôi trả lời rằng: chỉ nhận được điện đi nghiên cứu nghị quyết hai Bộ Chính trị thôi!

Anh Thái nói: Không được! Hội nghị này cần sự có mặt của cậu! Thôi bây giờ về mà nghỉ, đi cắt tóc, tắm rửa. Sáng mai dành hẳn buổi sáng cho cậu trình bày về “đánh tiêu diệt” của bộ đội Cánh Đồng Chum. Kinh nghiệm của các cậu quan trọng lắm.

Anh bắt tay thân mật rồi bất ngờ kéo tôi vào hẳn cửa hội trường và hô to với mọi người: xem ông “tướng phỉ” này vất vả chưa? Bây giờ cho anh ta về nghỉ tắm rửa đã. Đi cả đêm không ngủ. Sáng mai sẽ vào làm việc.

Thái độ ân cần của cấp trên làm tôi vô cùng xúc động. Tôi cúi đầu chào hội nghị, liếc nhìn thấy có Tổng bí thư Cay-xỏn và ha người giơ tay ngoắt là Tư lệnh Phun-xi-pa-xớt và anh Bằng Giang ngồi ở hàng ghế đầu.

Được một ngày nghỉ ngơi cắt tóc, tám rửa thay quần áo và chuẩn bị đề cương, sáng hôm sau tôi đến hội trường câu lạc bộ. Anh Thế Hùng – Cục phó Cục Tác chiến giới thiệu với tôi đại úy Hải Đồng, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn đặc công 41 đã báo cáo kinh nghiệm trận tiêu diệt đài ra đa Pa Thí và thiếu tá Đàm Văn Ngụy – Trung đoàn trường 174 giới thiệu kinh nghiệm vây vét phỉ Pa Thí, Tam La, Na Khằng. Anh em gặp nhau tay bắ mặt mừng, đặc biệt phấn chấn về những thắng lợi đã giành trên chiến trường rừng núi Lào. Đại tá Thế Hùng tỏ rõ thái độ khích lệ khi tôi bước lên bục.

Sau khi chào đồng chí Cay-xỏn và các Thủ trưởng Bộ, tôi bình tĩnh nói: chúng tôi chỉ là chuyên gia, một loại chỉ huy, không quân… Nghe tôi nói vậy, anh Bằng Giang chen ngay: tướng không quân mà đánh thắng mới giỏi.

Anh Phun cũng động viên: kinh nghiệm của ta hay đấy! Anh cứ nói đi!

Cả hội trường cười hưởng ứng. Tôi nói tiếp: hôm nay chúng tôi báo cáo kinh nghiệm đánh tiêu diệt của quân anh Phum, bộ đội mới tập trung học đánh công kiên, đánh tiêu diệt, mà đã đánh thắng hàng chục trận tiêu diệt gọn trung đội, đại đội quân đặc biệt Vàng Pao ở Cánh Đồng Chum…
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #55 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 06:06:15 pm »

Trong báo cáo, tôi tập trung phân tích rõ những đặc điểm về địch, về địa hình rừng núi. Đánh ở rừng núi thì trèo mệt, khó vây. Địch phân tán đóng nhỏ từng chỏm núi, hoạt động theo lối du kích: dễ thì chắn trước, đánh sau, khó thì rút nhanh phân tán rồi quay lại bắn tỉa, đánh du kích. Ta chọn cách đánh mật tập chính là để lợi dụng bóng đêm, bí mật bao vây tiếp cận, nổ súng tiêu diệt khi địch chưa kịp đối phó, phân tán. Đây là cách giải quyết đánh tiêu diệt nhỏ mà bộ binh và đặc công có thể đánh tốt. Tôi nêu một số trận mà trong quá trình học và đánh thử, bộ đội Quân khu Cánh Đồng Chum đã vấp váp, sau đó nói kỹ trận tiêu diệt vị trí đại đội tiền tiêu Tha Lin Nọi mà Đại đội 15 Tiểu đoàn 2 anh hùng đã lập công xuất sắc. Đại đội địch đóng ở đây hơn 80 tên, có hào và hầm chiến đấu cá nhân, có ba ngồi nhà ván gỗ thông. Tiểu đoàn trưởng Chum đã chỉ đạo đại đội trưởng Bun-cơn và đại đội phó Khăm-phăn đi trinh sát bám vị trí địch hơn một tuần, nắm chắc lực lượng, quy luật hoạt động và sinh hoạt của chúng. Tối đến địch đốt lửa đánh bạc, sát phạt nhau đến nửa đêm thì đi ngủ. Lính gác cũng ngồi sưởi trong nhà vì trời rất rét. Trinh sát ta lợi dụng thời cơ, tiếp cận nhà ngủ mà địch không hề biết.

Trinh sát về, Đại đội 15 chọn 36 chến sĩ chia làm 3 mũi: 1 mũi trang bị 1 khẩu B40 còn toàn AK và thủ pháo. Ngày N chọn đúng vào tháng thượng tuần để lúc ta hành quân tiếp cận có trăng, khi tiềm nhập thì trăng lên. Hai giờ sáng, địch ngủ yên, quân ta bí mật áp sát mỗi mũi một nhà. Đúng giờ quy định, B40 phát hỏa; thủ pháo, AK đồng loạt nổ giòn. Nhà sập, lửa cháy, địch không kịp chạy tên nào, không một phát súng bắn trả. Mãi đến 11 giờ ngày hôm sau chúng mới cho một trung đội đến thăm dò, cho trực thăng đến đổ xăng đốt trụi. Từ đó không một tên nào dám bén mảng đến vùng này nữa. Nghe tôi trình bày xong, hội nghị vỗ tay nhiệt liệt tán thưởng.

Chiều hôm đó, anh Hoàng Văn Thái phái trợ lý tác chiến đến gặp tôi yêu cầu vẽ một loạt sơ đồ trận đánh của bạn ở Cánh Đồng Chum để phục vụ cho việc kết luận. Về kinh nghiệm đánh tiêu diệt ở Lào, anh Thái nêu gương trận Chòm Văn Giang Tơi (Bắc Lào) và trận Pa Thí ở Sầm Nưa của đặc công; ngoài ra 9 trận của bộ đội Cánh Đồng Chum đều được nêu làm bài học đánh tiêu diệt nhỏ ở địa bàn rừng núi để hội nghị nghiên cứu. Kết thúc hội nghị bàn về đánh tiêu diệt, Đại tướng Võ Nguyên Giáp mời cơm chiêu đãi đồng chí Cay-xỏn và tướng Phun cùng một số đại biểu khác. Tôi được các anh kéo vào ngồi cạnh đồng chí Cay-xỏn và Đại tướng. Đồng chí Cay-xỏn bắt tay tôi, khen anh em chuyên gia Cánh Đồng Chum làm ăn tốt.

Bữa cơm hôm đó có món bánh đa nướng và lạc rang, nem Huế khai vị theo tập quán địa phương Bình - Trị - Thiên, quê hương của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Khi nữ chiến sĩ công vụ cầm chai định rót rượu mời Đại tướng, đồng chí vội đứng dậy giữ chai và nói: hôm nay bác mời khách, mà khách là bác Cay-xỏn, Tổng Bí thư, Tổng tư lệnh quân đội Lào, cháu phải rót rượu mời bác Cay-xỏn trước.

Cả khách lẫn chủ cùng cười vui vẻ. Không khí thoải mái, thân thiết bao trùm bữa ăn…

Tiếp theo hội nghị bàn về đánh tiêu diệt, chuyển sang quán triệt nghị quyết của hai Bộ Chính trị (Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào).

Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Bộ Chính trị truyền đạt nghị quyết và hướng dẫn việc vận dụng vào nhiệm vụ giúp bạn. Đồng chí phân tích cặn kẽ các điểm chính của hai Bộ Chính trị đã bàn như đặc điểm dân tộc, đặc điểm về địch, hoàn cảnh hai vùng, về những sáng tạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong việc vận dụng đường lối đấu tranh cách mạng nhất là từ năm 1959, đã kịp thời chuyển hướng đấu tranh. Nắm đấu tranh vũ trang nhưng tận dụng hết mọi khả năng và thời cơ cụ thể kết hợp với đấu tranh chính trị, pháp lý và binh vận nên đã liên tục giành thắng lợi. Đồng chí yêu cầu cán bộ chuyên gia và quân tình nguyện phải quán triệt đường lối, nhiệm vụ cách mạng của Đảng Nhân dân cách mạng Lào để giúp bạn…

Tôi nhớ nhất lúc đó là trong tám nhiệm vụ công tác thì nhiệm vụ xây dựng lực lượng, bảo vệ và xây dựng vùng giải phóng thành quy mô quốc gia là điều được Đại tướng đặc biệt nhấn mạnh. Vậy thì công tác chuyên gia, dầu là chuyên gia quân sự cũng phải bổ sung và chủ động hiệp đồng với tất cả các ngành khác. Mỗi đồng chí chuyên gia phải nghiên cứu toàn diện, cụ thể tình hình thực tế của bạn để đề xuất vấn đề cho chính xác. Tuyệt đối tránh máy móc hình thức. Không nên lấy hình mẫu tổ chức của Việt Nam để áp dụng cho bạn.

Về truyền thống đoàn kết chiến đấu giữa hai quân đội, hai dân tộc, Đại tướng nói:

- Nói đến tình nghĩa Việt – Lào, Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã khen ngợi các đồng chí Việt Nam lớp lớp kế tiếp nhau giúp cách mạng Lào, nhiều người đã nêu tấm gương “trọng đời, trọn nghĩa, trọn tình hy sinh cho cách mạng Lào”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #56 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 06:09:04 pm »

Đồng chí còn chỉ thị cho chuyên gia làm đến đâu phải biết tổng kết, nghiên cứu và giúp bạn cũng phải có chế độ sơ kết, tổng kết. Kết thúc bài phát biểu, Đại tướng rất hoan nghênh nếu nhận được những lá thư công tác của các đồng chí gửi cho tôi. Dài ngắn không kể, nhưng nói rõ những suy nghĩ, những thành công và những thắc mắc, khó khăn trong công tác mà các đồng chí cần cấp trên giúp đỡ.

Sau những ngày làm việc ở Bộ, theo lời dặn, 19 giờ tối cuối cùng, tôi đạp xe đến nhà riêng để làm việc thêm với anh Hoàng Văn Thái. Sau khi uống nước, anh mời hút thuốc. Thuốc mời là “Điện Biên” nhưng anh lại hút thuốc lá cuốn. Tôi không hút thuốc, anh khen thế là tốt. Anh Thái vui vẻ nói: mình định phải bớt vạt đất rau để trồng thuốc lá. Nhờ bón phân gà nên thuốc đã tốt lại ngon…

Trước khi vào công việc, anh hỏi về điều kiện gia đình, vợ côn tôi sơ tán, ăn ở ra sao? Về điều kiện sinh hoạt của chuyên gia…

Nghe báo cáo về công tác tổ chức trạm hậu phương chuyên gia gắn với địa phương khai thác thực phẩm tại chỗ nên đời sống chuyên gia có khá hơn, anh khen: Quan tâm giúp cơ sở chính trị và đời sống cho nhân dân làm chỗ dựa để giải quyết đời sống của chuyên gia là chủ trương đúng. Anh nhắc phải quan tâm giúp lực lượng Trung lập của đại tá Đươn. Đây là một công tác dặc biệt mà chỉ có ở Cánh Đồng Chim mới có. Đó là công tác mặt trận, công tác liên minh giữa hai lực lượng quân sự. Cách mạng hóa cho lực lượng Trung lập về chính trị đã khó nhưng cách mạng hóa cả về quân sự, về kinh tế - hậu cần càng khó hơn. Trong khi tập trung bồi dưỡng cho lực lượng Pa-thét trưởng thành về mọi mặt để làm nòng cốt đoàn kết và đánh giỏi, phải mạnh dạn bồi dưỡng và phát huy sức chiến đấu của lực lượng Trung lập.

Tôi mạnh dạn đề nghị: do cứ phải bám sát các đơn vị đang đánh nhau ngoài mặt trận ít khi ở lâu tại cơ quan, tôi muốn xin một đồng chí đoàn phó đặc trách giúp lực lượng ông Đươn, để tôi chỉ phải làm kế hoạch và làm trực tiếp với ông Đươn những việc lớn, những lúc có tình hình khẩn trương, đột xuất. Cần thiết phải có một bộ phận thường xuyên ở cạnh cơ quan ông Đươn để giúp ông những công việc cụ thể. Chúng tôi xác định phải qua chiến đấu và lao động, qua quan hệ gắn bó với dân mà bồi dưỡng ý thức cách mạng, cải tạo con người, xây dựng quan điểm tin dân, phục vụ nhân dân. Ngược lại, chính quyền, quân chúng cách mạng bằng tình cảm và hành động của mình sẽ là người có vai trò lớn nhất trong việc động viên, cảm háo dìu dắt và lôi kéo anh em Trung lập.

Anh Hoàng Văn Thái bổ sung: Những điều các đồng chi suy nghĩ là đúng, nhưng chú ý vai trò tiếp xúc của cá nhân đồng chí, vừa có tính chất tôn trọng, cũng là tình nghĩa với cá nhân ông Đươn, vì dù sao ông là thủ lĩnh một lực lượng. Đường lối của Đảng bạn về chiến tranh nhân dân không những là ánh sáng soi tỏ mọi công tác của chuyên gia, trong đó cần quan tâm củng cố tốt khối đoàn kết mặt trận liên minh giữa hai lực lượng của bạn để giành lấy những chiến thắng mới cho cách mạng Lào.

Ngừng giây lát, anh Hoàng Văn Thái nói tiếp:

- Theo ý kiến của đồng chí Cay-xỏn, rồi đây Bộ sẽ tổ chức một số lớp ngắn ngày cho các thành viên trong bộ chỉ huy Trung lập cùng ông Đươn về bên này nghỉ và nghiên cứu một số vấn đề về chính trị, quân sự, cũng là để có hỗ trợ thêm cho chuyên gia.

Kết thúc buổi nói chuyện, anh bảo tôi nhắc lại những việc cần làm ngay. Sau khi nghe tôi nói rành mạch, anh thân mật bắt tay tôi và nói:

- Mạnh khỏe, thắng lợi! Cho mình gửi thăm các anh em bên cạnh và anh em chuyên gia.

Tôi đạp xe về trong đêm thấy lòng khoan khoái và cứ nghĩ: anh Hoàng Văn Thái đúng là ông thầy của ngành tham mưu Việt Nam. May mà mình nắm chắc vấn đề và tỉnh táo. Làm việc với anh mà nắm không vững và qua loa, đại khái là chết ngay!

Mỗi khi giao nhiệm vụ xong bao giờ anh cũng bắt nhắc lại để kiểm tra việc quán triệt nhiệm vụ của người được giao. Đó là một chế độ tham mưu mà bất kỳ người chỉ huy nào cũng phải chấp hành, nó giúp cấp trên đánh giá được cấp dưới đã nắm chắc công việc đến đâu, đồng thời cũng nhắc nhở cấp dưới phải nghiêm túc và có trách nhiệm trong công việc chấp hành.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #57 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 07:14:13 pm »

*
*   *

Đang mùa mưa, đường rừng đi lại rất trơn, lắm vắt. Nhóm chuyên gia chúng tôi vượt Bản Liang, Bản Hin và gặp chỗ sơ tán máy bay của dân Bản Khai. Mục đích của chuyến đi này là dựa vào cơ sở địa phương tìm chỗ đặt trạm hậu phương của đoàn để cải thiện đời sống cho anh em.

Trạm hậu phương phải gần với dân, nhưng lại ở chỗ bất ngờ, tiện liên hệ, gần đường ôtô, ra vào được mà không lộ. Đến chùa Bản Khai gặp đường số 4, đị Lạt Buộc, Phu Cút, chúng tôi thống nhất chọn khu rừng non, rẫy cũ, cây mới mọc lại độ sáu bảy năm toàn thông, dẻ, sồi, lại gần làng, gần ruộng. Địa điểm này vừa bảo đảm bí mật, vừa bất ngờ đối với kẻ địch. Mùa mạc choòng (mắc cọc) năm nay lắm quả. Vườn Bản Hin, Bản Khai nơi nào cũng đầy quả. Những cây lớn, cành dài sà xuống sát đất toàn quả to gấp đôi cái chén uống nước. Có nơi không hái để rụng, đàn lợn nhà xô nhau đến giành giật nhau ăn những quả chín mềm.

Hỏi một bà mẹ vì sao không hái đem đi bán, bà nói: năm nay được mùa nhưng chẳng đủ công đâu mà hái, cây ngay cạnh nhà cũng phải bỏ. Các con có sức cứ hái ăn giúp bố mẹ.

Được lời, đám thanh niên như Thanh, Văn, Lung nhào vào luồn the các cành đầy quả, chọn quả chín nhất vừa ăn vừa chuyền ra cho người đứng ngoài hàng rào. Đoàn được hưởng một bữa mạc choòng no nê của Bản Khai.

Ỏ Lào có một tục lệ rất hay là cứ đến Tết dân tộc (tháng 4, tháng 5), các nhà sư cắt các mầm non mạc choòng ra ghép với gốc mạc choòng rừng mọc ở các rãnh khe từ trên cao chảy xuống. Cứ như thế ba năm, mỗi gia đình siêng năng lại kết hợp với nhà chùa rào và xây dựng thêm một vườn ăn quả mới. Đây là một cách “làm phúc” rất đạo mà cũng “rất đời”. Mạc choòng tơ mới hái, ba năm thì bột khô ăn nhạt, nhưng bốn năm trở lên thì bột mịn ăn ngọt, lại thơm.

Nhiệm vụ của trạm hậu phương đoàn chuyên gia là giúp xây dựng phong trào chiến tranh nhân dân của địa phương Bản Khai, lập một kho dự trữ lương thực, thực phẩm và một trạm xá kiêm an dưỡng phục vụ chuyên gia và giúp dỡ y tế địa phương.

Khu rừng đặt trạm cách ngã ba Noỏng Hét đường chim bay không tới bốn ki-lô-mét. Cách đường số 7 hơn hai ki-lô-mét, mà đường số 4 lại là nơi phỉ Buôn Lọng hay ra đặt mìn đánh xe, nên anh em đề nghị xin lực lượng bảo vệ.

Tôi phân tích, bảo vệ trạm là nghìn rưỡi dân Bản Khai. Vấn đề ở đây là phải dựa vào dân, phải làm cho dân tin yêu bộ đội. Không ai bảo vệ tốt hơn dân. Đoàn thống nhất hàng tháng để ra một thùng mỡ nước, một két diêm, một cân đường, một cân kẹo để đến ngày rằm và mồng một âm lịch, mỡ và diêm thì biếu dân rán bánh đi chùa, còn kẹo và đường là để mỗi lễ trạm đưa một đĩa kẹo, một đĩa đường kèm mấy que tre kẹp mấy đồng bạc cắm vào giữa đĩa, làm đúng thủ tục đi lễ của dân. Vấn đề ở đây không phải là vật chất mà là biểu hiện sự tôn trọng truyền thống, tập quán, lễ giáo của nhân dân địa phương, gắn bó tình cảm giữa chuyên gia với nhân dân bạn. Với tấm lòng nhiệt thành đó, không đầy một tháng từ khi trạm đến ở, nai bản và sư cả cùng các sãi chùa đã tự động lập một kế hoạch bảo vệ trạm rất chu đáo, tin cậy Nhà sư đã hướng dẫn cho hai nhóm chú tiểu thường xuyên theo dõi người lạ đi lại trong vùng; có gì lạ là về báo sư cả, sư cả đến báo cho xã hội và trạm. Tuyệt đối cấm không cho xe cũng như người đi bộ qua bãi cỏ gần tram. Các thành viên của trạm tuyệt đối không được ra bãi cỏ. Dân cần xin thuốc, khám bệnh thì đến chùa. Ai phải ở lại vài ngày cấp cứu thì ở nhà nai bản, cần vài tuần điều trị thì trạm xá giúp đưa vào bệnh viện tình nguyện. Dân ở nơi khác không được vào thẳng trạm mà phải qua chùa và nai bản. Đó là lệ làng.

Để góp phần cùng bạn xây dựng phong trào ở địa phương, trạm xin cán bộ giúp huấn luyện du kích, tham gia các cuộc họp cơ sở, đỡ đầu về bút, phấn, tổ chức học chữ. Xã Khai đã được xây dựng thành xã đầu tiên thoát nạn mù chữ của huyện. Đội nữ du kích đầu tiên của xã Khai được đồng chí Bặt chuyên gia cao xạ dìu dắt trở thành ngọn cờ đầu của tỉnh dùng súng 12,8 bắn rơi chiến AD6 của địch ngay tại Noỏng Pết. Trường cấp hai xã Khai sau chuyển thành trường cấp hai của huyện, được thưởng Huân chương Anh hùng và thành tích học tập và chiến đấu giỏi. Mỗi mùa, chiếc xe tải của trạm giúp chuyển hàng mậu dịch, nhất là muối, vải, của tỉnh xuống cửa hàng các xã. Từ các xã lại chuyển đổi về cho tỉnh nào lợn, bò, gà, trứng. Nhờ vậy, suốt những năm chiến tranh ác liệt 1966-1970, dời sống chuyên gia được bảo đảm. Trạm an dưỡng ở đây được coi là một trong những đơn vị tốt nhất của bộ đội trong thời kỳ chống Mỹ. Quân tình nguyện cũng được mua của dân Xiêng Khoảng hàng trăm tấn thịt với giá rẻ.

Địch đánh ra Noỏng Pết, chiếm Phu Hoọc, trạm đã giúp giày dép, thuốc men và xin vũ khí cho du kích xã Khai tập kích loại khỏi vòng chiến đấu một đại đội địch ở Phu Hoọc, góp sức với chủ lực đánh bại cuộc tiến công của GM16 Vàng Pao ra Noỏng Pết. Qua hai năm xây dựng trạm, anh em kết luận: dân Lào tình nghĩa rất đậm đà, ngay thẳng, có nhận có trả, không bao giờ để bộ đội thiệt: lấy một bao diêm thì hôm sau biểu lại quả trứng, lấy một ít mỡ, hôm nay bưng đến cho một rổ rau. Thật là chí tình, chí nghĩa.

Chính trong chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Cù Kiệt, đội thanh niên của trạm hậu phương do Văn chỉ huy đã bảo vệ kho tàng, gài mìn, bắn tỉa diệt hàng chục tên địch, làm cho cánh rừng non Bản Khai này trở thành mảnh đất bất khả xâm phạm trong suốt những năm chống Mỹ. Ở đây, suốt cả tháng, ngày nào máy bay L.19 và OV10 cũng lượn tìm liên tục mà vẫn không phát hiện được gì và không một quả bom này rơi vào đây. Dân gọi OV10 và L19 là “máy bay Bản Khai”. Cứ 6 giờ sáng hàng ngày, OV10 và L19 đến là dân gọi nhau: “Máy bay Bản Khai đến rồi. Phải cẩn thận”.

Những năm 1970-1971, khi dân Mường Pẹch từ nơi lánh nạn trở về lập ra hợp tác xã, trạm đã nhận đỡ đầu hai xã Khăng và Khai. Tất cả bò, lợn, gà, vịt, ngựa chiến lợi phẩn Quân khu chia cho chuyên gia đều được trạm cho hai xã đỡ đầu. Khi về nước sang, anh em đã gùi từng mâm chuối non, từng bó cây sắn, bắp ngô, từng con vịt giống, gà giống, đem biếu hợp tác xã đỡ đầu. Quan hệ giữa trạm hậu phương đoàn chuyên gia cùng nhân dân bạn ngày càng thắm thiết. Anh em được dân coi như con cháu trong gia đình.

Mùa mưa năm 1965, sau khi giúp Coong-e xây dựng đủ ba bình đoàn 801, 802, 803, Mỹ ra lệnh cho Coong-le mở chiến dịch đánh chiếm Phu Cút và vùng bắc Cánh Đồng Chum, nhưng chúng đã bị quân dân Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng đánh bật trở lại.

Vừa đánh tan quân Coong-le, bộ đội đang sửa sang trận địa đề phòng địch đánh tiếp, tôi nhận được điện của Đồng – chuyên gia chính trị Tiểu đoàn 13 báo là bạn cho phép cả anh Phuông (chính trị viên) và anh Bô-khăm (quyền tiểu đoàn trưởng) nghỉ cưới vợ cùng một lúc. Trong lúc bộ đội chuẩn bị đánh địch thì việc này quả thật làm cho chuyên gia tiểu đoàn hết sức lo lắng. Không tiện trao đổi trên máy, tôi mời Đồng đến chỗ tôi để bản bạc cụ thể.

Mười lăm phút sau, Đồng đến sử chỉ huy đoàn. Tôi và Lê Văn tiếp vui vẻ. Tôi nói đủ để Đồng rõ: đây là vấn đề tế nhị. Chúng tôi biết hai cán bộ tiểu đoàn đã yêu hai cô tổng đài trên hai năm rồi. Bây giờ Quân khu cho cưới. Tất nhiên Quân khu quyết là bạn đã cân nhắc rồi. Về nguyên tắc không có quyền can thiệp. Hơn nữa, theo chúng tôi, trong vòng một tuần tới quân Coong-le còn tổ chức, chưa tổ chức đợt tiến công mới được. Lúc này chắc việc chuẩn bị cưới của tiểu đoàn thông tin đã sắp xong. Tốt nhất ta phải ủng hộ tích cực hai đồng chí ấy cưới xong, phấn khởi trở về chỉ huy đơn vị càng nhanh càng tốt.

Lê Văn viết giấy cho liên lạc xuống hậu cần nhận hai túi thuốc lá Điện Biên, hai chai rượu Lúa Mới, hai túi đường và dặn Đồng mang quà về gửi biếu bạn, chúc hai bạn tổ chức vui vẻ, hạnh phúc, chóng trở lại chỉ huy đơn vị. Còn chuyên gia tiểu đoàn xin vắng mặt để ở nhà thay hai anh theo dõi các đại đội, giúp đôn đốc sẵn sàng chiến đấu. Trên này, chúng tôi sẽ bám anh Chăn-đi nắm tình hình và sẵn sàng giúp đỡ phòng khi địch tiến công. Còn nếu địch có đánh thật thì Quân khu cho xe về nhanh, chả có gì đáng ngại.

Cuối cùng địch cũng chưa đánh và đám cưới được tổ chứ vui vẻ. Hai cán bộ tiểu đoàn sau một tuần nghỉ ngơi thoải mái đã trở về Phu Cút yên tâm làm nhiệm vụ và cảm ơn lòng nhiệt thành xây dựng của chuyên gia đối với hạnh phúc gia đình mình. Đúng là vừa được lòng và được việc.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #58 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 07:14:38 pm »

*
*   *

Tổ chức hội phụ nữ ở một số cấp tỉnh, cấp huyện, động viên phụ nữ tiếp tế,nuôi dưỡng thương bệnh binh tình Xiêng Khoảng đã có từ thời đánh Pháp nhưng không nhiều. Thời kỳ đầu chống Mỹ, phong trào phụ nữ ở đây vẫn chưa mạnh. Một khái niệm lưu cữu là phụ nữ Lào chỉ làm việc nhẹ, sống dựa vào đàn ông, còn đánh giặc chỉ là cá biệt. Tổ chức phụ nữ thành lực lượng phục vụ chiến đấu và chiến đấu tập trung là điều không dễ.

Vào một ngày cuối năm 1965, trên đường đi kiểm tra việc bố trí lực lượng phòng không bảo vệ cầu đường và kho tàng dọc đường số 7, tội gặp đoàn dân công hỏa tuyến Nghệ An lên phục vụ quân tình nguyện chiến đấu ở Cánh Đồng Chum. Đây là một đại đội thanh niên xung phong mà nữ chiến đến 95 phầm trăm. Tuyệt đại bộ phận các em chỉ độ tuổi 16-17, mới tốt nghiệp phổ thông cấp hai, một số đang học dở cấp ba.

Hỏi vì sao 16 tuổi mà cũng được đi, các cô vừa nói vừa cười:

- Vì chúng cháu ước ao đi đánh Mỹ. Xã thì phải chạy cho đủ số lượng, chỉ cần chúng cháu vận động cán bộ xã cho xin thêm một hai tuổi, thế là thoát!

Khi tôi nói đùa: thế là các cô, các cậu đã nói dối chính quyền, thì họ nhao nhao trả lời: nói dối để được đi đánh Mỹ thì chũng cháu nghĩ chẳng có tội. Thật là một sự nói dối đáng yêu!

Tối hôm đó, tôi đưa thư anh Trần Đăng Vân – Vụ trưởng lao động tiền lương thuộc Ủy ban Kế hoạch Nhà nước cho Lê Văn đọc. Thư viết: “Đã lâu, bất ngờ hôm nay mới đọc được công văn của thủ trưởng cũ đề nghị Nhà nước xin dân công hỏa tuyến cho tình nguyện và chuyên gia Cánh Đồng Chum. Lớp thanh niên xung phong đầu tiên cứng cáp hơn đã lên đường phục vụ đường Trường Sơn. Nay còn lớp dự bị. Chúng tôi ưu tiên cho Cánh Đồng Chum hai đại đội Nghệ An, một đại đội Thanh Hóa. Thế là anh em tận tình chi viện cho đơn vị thủ trưởng đủ sức lập công. Chỉ trách thủ trưởng sao không gọi cho lính cũ cùng sang Cánh Đồng Chum cho vui. Cứ phải chạy viện phía sau buồn lắm…”.

Đêm đó tôi ngủ trong tâm trạng chập chơn, địch đã tiến hành chiến tranh phá hoại ở Quân khu 4, gia đình tôi đã sơ tán. Hà Nội, Hải Phòng đang bị đe dọa nhưng mẹ hiền Tổ quốc vẫn chăm lo cho lớp con cháu phía trước. Hết lớp của anh đi trước đến lớp đàn em, con cháu đi sau. Vì nhiệm vụ và nghĩa tình quốc tế mà hậu phương huy động chi viện cho chiến trường Lào như vậy là tận tâm, tận lực. Đến các em học sinh gái mới ỏ tuổi 16 cũng hăm hở sang phục vụ chiến trường Lào! Trong khi đó thanh nên Lào chỉ dám huy động con trai là chính. Sao ta chưa nghĩ đến việc đề nghị động viên nữ thanh niên Lào ra mặt trận? Tự nhiên, tôi thấy hình như mình đang mắc một lúc hai sai lầm là quá ỷ lại vào hậu phương lớn và thiếu lòng tin và nam nữ thanh niên Lào.

Sáng hôm sau vừa thức dậy, tôi tâm sự với Lê Văn. Chúng tôi thống nhất ngày hôm đó làm việc với anh Xa-mán và anh Xi-phon, sẽ trao đổi thử vấn đề này.

Làm việc xong với anh Xa-mán về những nội dung chính, chúng tôi xoáy vào hai điểm:

Một là vấn đề đánh phá của địch ngày càng ác liệt. Vấn đề bảo vệ kho tàng, đường sá càng đòi hỏi nhiều nhân lực, nhiều dơn vị tập trung vận chuyển chuyên và không chuyên.

Hai là chiến tranh đang phát triển, bộ đội ta ắt phải mở rộng vùng giải phóng. Nhiều cuộc chiến đấu cơ động, nhiều chiến dịch tập trung ngày một cao hơn. Vấn đề đánh trả máy bay địch, nhất là máy bay bay thấp, vấn đề bảo đảm giao thông vận tải nếu chỉ dựa vào chủ lực, dựa vào một, hai đại đội ô tô sẽ rất bị động, nhất là khi phải mở các mũi đường tắt, thọc sâu. Tác chiến ở rừng núi phải có các đại đội vận tải bộ mạnh.

Ở Việt Nam, lúc này các đơn vị du kích bắn máy bay đã được xây dựng và hoạt động có cả nam lẫn nữ. Lực lượng nữ ở Việt Nam trước là tập trung phục vụ và bảo vệ hậu phương. Bây giờ lực lượng nam không đủ, nữ đã được huy động vươn dần theo tuyến Trường Sơn, và thực tế dân công hỏa tuyến nữ đã huy động sang cả bên Lào. Chúng tôi kể lại cuộc gặp các cô gái 16-17 tuổi xin chính quyền cho thêm tuổi để được ra mặt trận.

Vốn tính nhạy cảm, anh Xa-mán nghe mà rưng rưng nước mắt. Còn Xi-phon thì suy ngẫm quyết liệt hơn. Anh nói:

- Chết thật! Thế này thì chúng ta đơn giản quá. Việt Nam phải huy động đên cả học sinh gái 16 tuổi sang giúp ta vậy thì anh em ta còn chờ đợi gì, chờ đợi ai mà không động viên lực lượng thanh niên gái của ta. Nữ du kích, nữ cao xạ, nữ pháo binh Việt Nam làm được thì ta cũng làm được chứ! Phải tin phụ nữ Lào! Phải tin phụ nữ Xiêng Khoảng chứ! Xóa nạn mù chữ, cày ruộng, đi dân công ở Phu Cút cũng nữ xã Khai dẫn đầu, nến ta huấn luyện và hướng dẫn thì việc gì họ cũng làm được.

Xa-mán tiếp:

- Việc này tuy mới nhưng không phải là lạ. Chúng tôi sẽ về báo cáo anh Phun và tính toán cụ thể. Đã quyết là phải làm cho chắc ăn. Có thể đi từ thấp lên cao.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #59 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2016, 07:15:54 pm »

Kết quả là Quân khu đã bàn và quyết định và giao cho hậu cần cùng chuyên gia nghiên cứu lập một trung đội nữ vận tải bốc vác. Vấn đề cần nghiên cứu là cách quản lý và tổ chức sinh hoạt tập trung của một đơn vị nữ thoát ly. Tuy vậy, một số còn lo họ sẽ mang cái tập quán chơi hội múa hát kiểu tự do ở vùng dân tộc, không duy trì được kỷ luật.

Thậm chí khi Quân khu đang xoay trần ra sửa chữa lại một số quy tắc về sinh hoạt, chế độ phục vụ, về các tiêu chuẩn bổ sung cho sinh hoạt của nữ quân nhân thì chúng tôi nhận được điện từ phòng chuyên gia hậu cần Sầm Nưa: “Các đồng chí phải nghiên cứu cho hết các đặc điểm riêng của phụ nữ Lào, chớ hấp tấp… Có sự cố gì các đồng chí phải hoàn toàn chịu trách nhiệm với bạn”.

Những bức điện, những dự luận thu lượm được xung quanh chuyện ủng hộ hay không ủng hộ chủ trương này trong bộ đội, trong nhân dân, chúng tôi đều cung cấp để Bun-niên, Xi-thon, Tả Đảo, Ven Tích, Sinh bàn luận cân nhắc. Sự thật thì Quân khu có tin nhưng vẫn lo. Để khích lệ phong trào, Bun-niên cho mời đội văn nghệ của đơn vị dân công Nghệ An đi dự cuộc liên hoan văn nghệ trường cấp hai Mường Pẹch và trường cấp hai Bản Ban. Tuổi tác xấp xỉ nhau, nhưng vóc dáng nhiều cô gái Lào còn to khỏe hơn. Các bài hát Bài ca hy vọng, Giải phóng miền Nam, Quảng Bình quê ta ơi, Tiếng hò trên đất Nghệ An… hòa nhập với những bài hát Lào như “Xao Xiêng Khoảng” (Gái Xiêng Khoảng)… Sự hòa nhịp về lời ca giữa những người con gái Lào – Việt trẻ trung đang hăm hở bước vào con đường đánh Mỹ cứu nước thật là nhẹ nhàng, tự nhiên. Các bạn Lào dẫn bạn Việt về thăm bố mẹ Lào, chuyện trò nghe tiếng được tiếng mất nhưng dần dần họ đã hiểu nhau. Bí chỗ nào là tất cả lại cười rộ lên. Các ông bố, bà mẹ người Lào nhìn những đứa con Việt mà âu yếm, mà thương, mà phục: “Cũng bé như con Xao-nọi nhà mình mà dám xa nhà, sang tận đất Lào đánh Mỹ. Ôi con cháu Bác Hồ có khác!...”.

Một ngày cuối thu trên đường đi công tác về qua khu tổng kho, anh em mời tôi xem trung đội nữ bốc vác chuyển hàng lên xe đi Phu Cút và khẳng định: “Thủ trưởng xem xong bảo đảm sẽ phấn khởi!”.

Mặt trời sắp khuất mé núi. Hai chiếc xe vừa vòng vào cửa khi thì Văn-đi và Khăm-mặn, chỉ huy trung đội nữ tập hợp hai hàng dọc, mỗi tiểu đội hướng theo một xe. Hai cô nâng từng bao gạo 50 cân lên, chiến sĩ bốc vác ghé lưng đón lấy hai góc bao nhanh nhẹn chạy đến cửa sau xe, hai nữ chiến sĩ đứng chờ trên xe đón lấy bao gạo nâng lên xếp vào sàn xe. Hai tiểu đội thao tác thành thạo, nhẹ nhàng, chả mấy chốc gạo đã đầy xe. Khi các nữ chiến sĩ rút khăn tay lau trán thì chiếc xe đầy hàng đã nhanh chóng rời kho, nhường chỗ cho hai xe khác tiến vào.

Xe cộ tấp nập vào ra, những thiếu nữ nhanh tay, nhanh chân chuyển hàng… chẳng khác nào một cảnh phim có dàn dựng trước. Trước khung cảnh ấy, tôi thực sự xúc động và khẳng định với Sinh, Tích rằng chúng ta đã thành công. Về đến nhà tôi gọi điện ngay cho anh Phun:

- Báo cáo anh, tôi vừa đi xem phim ở kho hậu cần về.

- Ô, thế thì vui quá. Phim gì có hay không?

- Hay lắm! Phim đội nữ vận tải của Quân khu bốc gạo lên xe…

Vỡ lẽ, anh Phun ồ lên một tiếng:

- Thế nào, làm ăn khá lắm hay sao?

- Khá lắm! Thật bất ngờ. Tôi chưa dám nghĩ chị em họ học quân sự nghiêm chỉnh và tổ chức bốc vác giỏi đến thế, rất xi-nê anh ơi!

- Ôi! Thế thì ngày mai tôi cũng phải đi xem!

Sau khi cùng ra xem đội bốc vác về, lòng tin, lòng tự hào của những người chỉ huy Pa-thét Lào với phụ nữ Xiêng Khoảng càng được củng cố. Cứ thế, lần lượt từ trung đội, Quân khu đưa lên đại đội vận tải nữ, rồi trung đội súng máy 12,8 ly nữ, cho đến khi đại đội nữ pháo binh Xi-núc, Thu-mi ra đời thì tiếng tăm các đơn vị nữ càng vang xa, làm nức lòng nhân dân, mà kẻ địch cũng hoảng sợ. “Phụ nữ mà nạp đạn thì không bùa mê, không ngải nào, thuật nào chống được”. Lính phái hữu rất mê tín nên chúng sợ đến nỗi phòng tâm lý chiến phái Hữu phải cho ra những truyền đơn, biếm họa xuyên tạc về tổ chức đội nữ pháo binh.

Phong trào lan rộng, Văn-đi được điều về Sầm Nưa làm cố vấn để tổ chức đại đội vận tải nữ của Tổng cục Hậu cần quân đội Lào; sau đó được đề bạt làm Giám đốc Xí nghiệp giày quân đội.

Khăm-mặn được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Lào. Nhưng sôi nổi nhất vẫn là cái ngày giải phóng Viên Chăn năm 1975. Đại đội Xi-núc rực rỡ, tươi cười với những giàn Ca-chiu-sa tiến vào thành phố Viên Chăn. Trên đại lộ từ sân bay Vạt Tày đến Nhà Quốc hội, dẫn đến doanh trại bộ đội bảo vệ Thủ đô dày đặc nhân dân Viên Chăn, có cả cờ hoa, đón xem đại đội nữ pháo binh Quân đội nhân dân Lào ra mắt đồng bào trong nước và bè bạn quốc tế. Điều này được coi như một trong các sự kiện đáng tự hào của đất nước Triệu Voi.

Trong dịp về thăm Quân khu mùa hè năm 1970, khi đánh giá phong trào, Tổng bí thư Cay-xỏn Phôm-vi-hản đã nói: “Trải qua chiến tranh ác liệt, Xiêng Khoảng đã mở ra một vấn đề có tính chiến lược trên bước đường giải phóng phụ nữ”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM