Trong Chiến dịch Gazelle, chiến dịch phản công bí mật của Israel nhằm vượt qua kênh đào Suez để đánh vào hậu phương quân Ai Cập, quân Israel đã gặp kháng cự mạnh tại vị trí “Trang trại Trung Hoa”. Tại đây, chiến sự diễn ra ác liệt giữa xe tăng Israel và xe tăng, bộ binh Ai Cập trong đêm tối. Trong ảnh, một chiếc xe tăng M48 Magach của Israel và một chiếc T-55 của Ai Cập nằm cách nhau chỉ hơn chiều dài nòng pháo.
Trong cuộc chiến Yom Kippur, trong 2000 xe tăng của Israel, một nữa bị thiệt hại trong chiến đấu với khoảng 400 chiếc bị phá huỷ hoàn toàn và khoảng 600 chiếc khác trở về phục vụ sau khi sử chữa. Liên quân Ảrập bị mất 2250(trong đó khoảng 1000 chiếc là của Ai Cập) trong tổng số 4480 xe tăng của họ. Một nữa trong số 2687 lính thiệt mạng của Israel là lính tăng.
Việt Nam
Vào ngày 9/3/1965, chiếc xe tăng M48A3 đầu tiên của Thuỷ quân lục chiến Mĩ, Tiểu đoàn tăng số 3 cập cảng Đà Nẳng. Đây là đơn vị xe tăng đầu tiên của Mĩ tại Việt Nam và được bổ sung bởi Tiểu đoàn tăng số 1 Thuỷ quân lục chiến sau đó 1 năm. Đơn vị tăng đầu tiên của Lục quân Mĩ là Tiểu đoàn 1, Trung đoàn kị binh số 4 vào năm 1965, phục vụ với Sư đoàn số 1. Ban đầu, quân đội Mĩ không có mấy cảm hứng để bố trí xe tăng đến Việt Nam do cảm thấy chúng không phù hợp với địa hình và kiểu chiến tranh không quy ước. Tuy nhiên, kinh nghiệm của Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 4 cho thấy xe tăng rất hữu dụng trong việc hổ trợ các hoạt động của bộ binh cơ giới và chỉ đạo các vai trò khác. Và sau đó, có 3 tiểu đoàn tăng được bố trí đến Việt Nam: Tiều đoàn 2, Trung đoàn thiết giáp 34; Tiểu đoàn 1, Trung đoàn thiết giáp 69 và Tiểu đoàn 1, Trung đoàn thiết giáp 77, tất cả đều dùng M48A3. Cùng với đó là nhiều xe tăng khác hoạt động trong các tiểu đoàn kị binh bọc giáp. Ban đầu, các tiểu đoàn kị binh bọc giáp thuộc cấp trung đoàn chứa 1 đại đội tăng bao gồm 3 trung đội(mỗi trung đội 5 xe tăng) và 2 xe tăng chỉ huy, một trong 2 chiếc đó mang lưỡi đào mở đường. Các đội hình đó sau đó được bố trí lại và đến 1969, các xe tăng Patton bắt đầu được thay bởi xe tăng hạng nhẹ M551 Sheridan. Các tiểu đoàn tăng bao gồm 54 xe tăng với 3 đại đội tăng 17 chiếc(bố trí giống đại đội tăng của tiểu đoàn kị binh bọc giáp) và 3 xe tăng chỉ huy. Các tiểu đoàn này thường xuyên được chia nhỏ thành các đại đội hoạt động chung với nhiều đơn vị bộ binh khác nhau hay để thực hiện các nhiệm vụ an ninh.
Chiến thuật dụng tăng ở Việt Nam thể hiện môi trường của cuộc chiến. Patton thường được dùng để cung cấp hoả lực nặng để hổ trợ trực tiếp các hoạt động của bộ binh hay dùng để đẩy lui mai phục trên các nhiệm vụ hộ tống. Các đại đội tăng đôi khi được bố trí vào nhiệm vụ bảo vệ sân bay nơi mà các viên đạn canister của chúng chứng tỏ hiệu quả tốt. Kẻ thù chính của xe tăng Mĩ ở Việt Nam không phải là thiết giáp địch mà là mìn, gây ra hơn 75% thiệt hại của xe tăng. Các mối nguy chính khác là vũ khí chống tăng của bộ binh như B-40, B-41, ĐKZ…
Mặc dù không được thiết kế cho kiểu chiến trường này, M48A3 vẫn cho thấy có thể đáp ứng các mong đợi vào nó. Nó là loại xe tăng thô chắc và bền bĩ và có thể sống sót tất cả trừ những quả mìn cực lớn. Một quả mìn trung bình thường thổi bay một bánh đi đường phía trước và một phần xích xe và một quả mìn đặc biệt lớn có thể bóc đi vài bánh xe và tổn hại đến khu chứa các thanh xoắn của xe. Nếu các bộ phận dự phòng có đủ thì chiếc xe tăng thường có thể chạy lại được vào ngày hôm sau. Quân Việt Cộng đôi khi sử dụng bom của máy bay để làm mìn. Ví dụ như năm 1966 tại gần Củ Chi, một chiếc M48A3 cuả Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 69 trúng một quả mìn 500lb(~225kg) làm thổi tung phần cuối đuôi xe và toàn bộ động cơ, dù vậy tổ lái vẫn sống sót một cách thần kỳ. Xe tăng M48, như bất kì loại xe tăng cùng thời nào cũng đều cho thấy dễ tổn hại trước RPG-7. Đôi khi, một xe tăng có thể trúng vài phát đạn mà vẫn chiến đầu được, nhưng ngược lại, đôi khi 1 phát đạn xuyên phá qua giáp và kích nổ đạn trong xe khiến cho xe bị tiêu diệt hoàn toàn.
Việc chuyển đổi sang M5511 Sheridan trong các đơn vị kị binh cho thấy không được nhiều người thích thú. Xe tăng Sheridan có khả năng chống mìn rất kém do lớp giáp mỏng và thường gây ra cái chết cho lái xe và các vụ hoả hoạn nghiêm trong bên trong xe. Nó cũng không có đủ trọng lượng để có thể phá đường vào các khu có thực vật rậm rạp như Patton. Một phiên bản đặc biệt của Patton cho Thuỷ quân lục chiến Mĩ là M67A2, là một xe tăng M48A3 mang súng phun lửa M7-6 và có bình nhiên liệu khoàng hơn 1400l(378gallon). Súng phun lửa phóng lửa qua nòng pháo giả và có tầm phóng hoả từ 180-200m với thời lượng 60s trước khi nạp nhiên liệu lại. Lục quân Mĩ thích dùng loại M132 “Zippos”, vốn là loại M113 mang thiết bị phóng hoả tương tự.
Trong toàn cuộc chiến chỉ có một trường hợp duy nhất xe tăng giữa Mĩ và Bắc Việt Nam giao chiến. Vào đêm ngày 3/3/1969, Đại đội số 16, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn thiết giáp 202 của quân Bắc Việt tấn công vào căn cứ Mĩ ở Bến Hết với bộ binh, vài xe tăng PT-76 và xe thiết giáp chở quân BTR-50 với mục đích tiêu diệt các cỗ pháo tự hành M107 175mm đóng tại đó. Căn cứ được bảo vệ bởi vài chiếc M42 Dusters và 1 trung đội M48A3 của đại đội Coy “B”, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 69. Vào khoảng 21:00h, sau khi đã chuẩn bị pháo binh, quân Bắc Việt tấn công. Các xe tăng Patton bật đèn dò hồng ngoại lên nhưng không hiệu quả vì sương mù mặt đất. Một chiếc PT-76 trúng phải mìn nhưng vẫn tiếp tục khai hoả. Sử dụng ánh chớp của pháo chiếc PT-76 để làm điểm nhắm, chiếc xe tăng của chuyên viên F. Hembree bắn trúng nó với viên đạn HEAT thứ hai và biến chiếc PT-76 thành một quả cầu lửa. Một chiếc PT-76 thứ hai bắn vào chiếc xe tăng của trung sĩ Havermale trong khi chỉ huy đại đội, đại uý Stovall đang leo lên xe. Một phát đạn bắn trúng vào hách của người nạp đạn giết chết người này và lái xe cũng như thổi bay Stovall và Havermale ra khỏi xe tăng nhưng chỉ gây thiệt hại nhỏ cho xe. Chiếc xe tăng của chuyên viên E. Davis tiêu diệt chiếc PT-76 thứ hai và các loạt hoả lực từ 5 chiếc Patton đẩy lui quân Việt Nam sau khi bị mất 2 chiếc PT-76 và 2 chiếc BTR-50. Cuộc đối đầu thiết giáp duy nhất khác diễn ra về sau khi một chiếc M728 CEV tiêu diệt một xe tăng T-54 của Bắc Việt Nam ở tầm gần bởi một phát đạn 165mm loại chống lô cốt.
Một bức ảnh nổi tiếng từng đoạt giải thưởng Wolrd Press Photo năm 1967. Trong ảnh là xa trưởng của một xe tăng M48 đang nhìn qua kính nhắm bắn
Mãi đến tận 1971, quân đội VNCH mới bắt đầu nhận các xe tăng M48A3 để lại của Mĩ, trước đó, nó chỉ có các xe tăng hạng nhẹ M41. Tháng 7/1971, Trung đoàn tăng số 20, trang bị chủ yếu với M48A3 được thành lập. Đơn vị này có cơ cấu khá đặc biệt vì có 1 đại đội bộ binh đi theo trên các xe tăng để bảo vệ xe khỏi vũ khí chống tăng bộ binh. Lính tăng của VNCH ban đầu gặp nhiều rắc rối trong việc học cách sử dụng hệ thống điều khiển hoả lực phức tạp của xe nhưng việc huấn luyện cuối cùng cũng được hoàn thành vào màu xuân năm 1972. Một trong những điểm yếu chính của đơn vị này là thiếu các phương tiện hổ trợ thiết giáp như xe dựng cầu AVLB hay xe cứu kéo M88 và điều này gây ra nhiều thiệt hại trong quá trính chiến đấu sau đó.
Tháng 3/1972, quân Bắc Việt tấn công vào các tỉnh phía bắc của nam Việt Nam với 2 trung đoàn xe tăng. Trung đoàn tăng số 20 của VNCH được gấp rút đẩy tới khu vực để chặn đường tấn công của quân Bắc Việt ở tính Quảng Trị. Vào thời điểm đó, trung đoàn chỉ có 44 chiếc M48A3, một số ở trong tình trạng sửa chữa và thiếu các bộ phận dự phòng. Vào ngày chủ nhật 2/4, Tiều đoàn 1 của Trung đoàn 20 giao chiến với một hàng thiết giáp của quân Bắc Việt ở tầm 2500-300m, nhanh chóng phá huỷ 9 chiếc PT-76 và 2 chiếc T-54 và đẩy lui đợt tấn công. Qua sóng radio, chỉ huy quân Bắc Việt tỏ ra hoảng hốt và cho rằng ông ta đã bị tấn công bởi một lực lường mà ông không thể thấy. Các cuộc tấn công của quân Bắc Việt gần Đông Hà sau đó diễn ra khá nhẹ cho đến ngày 9/4 khi Trung đoàn 20 đẩy lui một cuộc tấn công khác và bắn hạ 16 xe tăng T-54 và tịch thu 1 xe Type-59 mà không bị thiệt hai.
Một yếu tố mới được đưa vào cuộc chiến ngày 23/4 khi 1 chiếc M48 và 1 chiếc M113 ACAV bị tên lửa 9M14M Malyutka tiêu diệt. Quân Bắc Việt sau đó tấn công trở lại vào ngày 27/4 với pháo binh nã pháo nặng nề, Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 20 mất toàn bộ số sĩ quan và 3 chiếc M48. Đến ngày hôm sau, Trung đoàn tăng số 20 chỉ còn 18 chiếc nhưng tuyên bố đã hạ thêm 5 chiếc T-54. Đến ngày 2/5, trung đoàn bị mất toàn bộ số xe tăng của mình, một số là do chúng không vượt sông được, một số khác bị sự cố kĩ thuật và nhiều chiếc khác do hoả lực Bắc Việt.
Sau khi thoả thuận ngừng bắn năm 1973 diễn ra, Trung đoàn 20 được tổ chức lại cùng với 2 tiểu đoàn số 21 và 22 với xe tăng M48A3. Cũng có một số đại đội Patton được thành lập để dùng trong các đơn vị kị binh bọc giáp. Sau cuộc tổng tấn công năm 1975, hầu hết các đơn vị tăng VNCH đều bị tiêu diệt ở các tỉnh miền bắc VNCH và chỉ có một số ít trong số 352 xe tăng M41 và M48 sóng sót được qua cuộc chiến. Sau giải phóng, những chiếc tăng M48 còn sót lại được đưa đi sửa chữa, phục hồi khả năng chiến đấu và được tái trang bị cho các đơn vị tăng - thiết giáp QĐNDVN. Năm 1978, trong chiến dịch phản công biên giới Tây Nam, nhiều đơn vị M48 cũng đã được điều động sang Campuchia tham chiến. Cuối thập niên 1980, M48 được loại khỏi biên chế do thiếu phụ tùng thay thế, hiện nay một số chiếc được đi trưng bày trong các bảo tàng và dùng làm mục tiêu trên trường bắn.
CÁC PHIÊN BẢN
-
M48A5K: Phiên bản của Hàn Quốc với pháo 105mm, hệ thống điều khiển hỏa lực mới và được cho là hiệu quả hơn xe tăng M60 đời đầu.
-
M48A5E: Phiên bản của Tây Ban Nha với pháo 105mm, thiết bị tìm tầm laser.
-
M48A5T1: Phiên bản nâng cấp của Thổ Nhĩ Kì, tương tự M48A5, phiên bản T2 có thiết bị quan sát hồng ngoại.
-
CM11: Phiên bản của Đài Loan với tháp pháo M48H gắn vào thân xe M60. Có hệ thống điều khiển hỏa lực tiên tiến với máy tính đạn đạo và thiết bị ng8ám được ổn định với thiết bị quan sát hồng ngoại(tương tự M1 Abrams) gắn với pháo 105mm, cho phép khả năng bám sát mục tiêu khi di chuyển.
-
CM12: Phiên bản của Đài Loan, gắn tháp pháo CM11 vào các thân xe M48A3.
-
AVLB: Phiên bản xe bắt cầu dùng bởi Ỉael và Đài Loan.
-
M67: Phiên bản xe phun lửa.