Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 06:07:34 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử phát triển và giới thiệu các dòng xe tăng chủ lực (MBT)  (Đọc 268294 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
selene0802
Trung tá
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #60 vào lúc: 26 Tháng Ba, 2011, 10:09:39 pm »

Trong số 17 tháp pháo, có 10 tháp pháo trang bị pháo 105mm nòng trơn và 7 tháp pháo trang bị pháo 120mm nòng trơn, tất cả đều được thiết kế và sản xuất bởi Rheinmetall. Tất cả các phiên bản này đều mang tên Leopard-2K (K là Karnone: pháo) vì năm 1970, Bộ Quốc Phòng và BWB vẫn hy vọng giữ lại những bộ phận chính của KPz-70, đặc biệt là pháo 152mm và tên lửa Shillegagh và đề xướng nghiên cứu dự trên thiết kế của Leopard-2FK (FK: Flugkorper: tên lửa). Lúc bắt đầu dự án, nhu cầu chính của quân đội là có một thân xe chung cho cả 2 loại tháp pháo. Chương trình Leopard-2FK bị dừng năm 1971 vì vấn đề thiếu thực tế và kinh tế, mọi tiền lực tập trung vào Leopard-2K (mẫu tự K sau này sẽ được bỏ đi). Tuy nhiên, quân đội muốn trọng lượng của Leopard-2 nằm trong khoảng 45,5 tấn theo chuẩn MLC 50 (MLC 50, military loading class 50: Tiêu chuẩn tải trọng quân sự 50) và hệ thống điều khiển hỏa lực vẫn đang trong quá trình phát triển, bao gồm việc kết hợp hệ thống đo xa quang học và laser như trên Leopard-1. Các kĩ sư thử nghiệm những phiên bản mẫu trên nhiều loại địa hình khác nhau như tại Munster và Meppen khoảng giữa những năm 1972 và 1974 với sự tham gia của những đơn vị thử nghiệm. 4 xe được gửi đến Shilo, Canada để thử nghiệm trong thời tiết lạnh từ 14 tháng 2 đến 19 tháng 3 năm 1975 ở nhiệt độ -30 độ C, sau đó là thời tiết nóng trên 45 độ C tại sa mạc Yuma, bang Arizona của Mỹ trong tháng 4 và tháng 5 năm 1975. lúc này, trọng lượng xe vẫn vượt quá 1.5 tấn so với tiêu chuẩn của MLC 50, một tháp pháo mới và nhẹ hơn, gọi là Spitzmaus-Turm (tháp pháo chuột chù), được thiết kế bởi Wegmann với mục đích lắp thiết bị đo xa kết hợp EMES 13. Thiết bị này được chế tạo bởi Leitz và AEG-Telefunken, với chiều dài cơ sở chỉ 350mm. Với kích thước nhỏ gọn, EMES 13 có thể được lắp lên mặt trước tháp pháo. Cùng thời điểm đó, sau lần đầu tiên phân tích cuộc chiến Yom Kippur năm 1973, người ta nhận ra rằng gia tăng độ dày của giáp sẽ là nhân tố quyết định trong tương lai. Kết quả là Leopard -2 được đồng ý theo chuẩn MLC 60, cho phép gia cố giáp và chế tạo loại tháp pháo mới có nhiều lớp giáp. Ngừoi ta đã chế tạo tháp pháo mẫu số 14 (T 14 mod), là một bước chuyển dự án từ Leopard-2 thành Leopard-2AV.



Bức ảnh của phiên bản PT 14 cho thấy 2 kính đo xa lập thể của EMES 12 nằm 2 bên tháp pháo (cửa bảo vệ đã trượt ra). Hình dạng tháp pháo được chọn lựa đúng theo đề nghị của quân đội vào thời điểm đó, cho phép hệ thống điều khiển hỏa lực của Leopard 2 có thể lắp cho Leopard 1 đời sau. Việc loại bỏ yêu cầu này đã mở đường cho việc phát triển Leopard 2AV
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
Bộ đội Cụ Hồ
Thành viên
*
Bài viết: 158



« Trả lời #61 vào lúc: 12 Tháng Tám, 2011, 01:25:46 am »

Topic nói về xe tăng Nga và NATO nên không biết đưa xe tăng Trung Quốc vào có lạc đề không nhưng em xin được đóng góp một ít thông thông tin về một số loại tăng của Trung Quốc. Mong các bác cho phép. Grin

Type 90/96

Tổng hợp từ : http://www.tanknutdave.com/component/content/article/170
                    http://www.military-today.com/tanks/type_96.htm
                    http://www.fas.org/man/dod-101/sys/land/row/type-85.htm
                    http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=20821.120

Type 96 là phiên bản cuối cùng trong chương trình xe tăng chiến đấu thế hệ thứ hai của Trung Quốc. Được thiết kế dựa trên cơ sở Type 85-III, Type 96 chính thức đi vào hoạt động trong biên chế của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa (PLA) vào năm 1997, Những những hình ảnh đầu tiên của Type 96 được thế giới biết đến là trong những cuộc diễn tập binh chủng vào năm 2000. Đến năm 2005, các chuyên gia ước tính có khoảng 1500 đến 2000 chiếc Type 96 đang phục vụ trong các đơn vị chiến đấu của PLA.

Nói chung, chương trình phát triển xe tăng chiến đấu của PLA có thể chia thành ba thế hệ. Thế hệ đầu tiên là một phiên bản đợc sản xuất theo mẫu T-54A của Liên Xô và các phiên bản cải tiến của nó, các xe tăng thế hệ đầu tiên bao gồm Type 59, Type 62 và Type 69/79. Thế hệ thứ hai bắt đầu với Type 80 và kết thúc bằng Type 96. Thế hệ thứ ba bắt đầu sự phát triển của Type 98, sau đó Type 98 được sửa đổi, nâng cấp và được mang tên mới là Type 99.

Type 85-III, tiền thân của Type 90 và Type 96

Hoàn cảnh ra đời

Trong cuộc xung đội biên giới giữa Liên Xô và Trung Quốc năm 1969, những chiếc Type 59 của Trung Quốc đã bị lực lượng xe tăng hiện đại của Liên Xô đập tơi tả. Suốt những năm 1970, hàng nghìn bộ đội Trung Quốc và Liên Xô đã đồn trú ở dọc biên giới hai nước và các vụ đụng độ lẻ tẻ liên tục xảy ra. Trước tình hình đó, các tướng lĩnh tăng thiết giáp PLA đã đề xuất lên chính phủ chương trình nghiên cứu, chế tạo một loại xe tăng mới đủ mạnh để có thể chống chọi với xe tăng Liên Xô, điều đó dẫn đến việc cải tiến, phát triển một phiên bản Type 59 mới (Type 69), dự án này do Nhà máy 617 (nay là tập đoàn công nghiệp số 1 Nội Mông) thực hiện. Loại xe mới được kết hợp một số công nghệ mới từ chiếc tăng T-62  do Trung Quốc tịch thu từ Liên Xô trong trận đánh năm 1969. Tuy nhiên, Type 69 không đáp ứng được các yên cầu do PLA đề ra và kết quả là nó được sử dụng nhiều cho việc xuất khẩu (hơn 2000 chiếc đã được bán ra nước ngoài).

Sau đó chương trình phát triển xe tăng chiến đấu thế hệ thứ hai được khởi động, đầu tiên là sự xuất hiện của phiên bản Type 80 rồi đến các phiên bản cải tiến của nó. Type 85 được phát triển bởi Tập đoàn Công nghiệp Hoa Bắc (NORINCO) với sự tài trợ từ chương trình nghiên cứu quốc phòng của Chính phủ Trung Quốc và được thiết kế dựa trên cơ sở Type 80. Trong khi đó, một phiên bản khác mang ký hiệu Type 88 (cũng dựa trên nền tảng của Type 80) được trang bị rộng rãi trong các lực lượng đổ bộ của Hải quân Trung Quốc .

Sự khác biệt rõ ràng nhất là Type 85 có một tháp pháo hàn hình hộp theo kiểu phương Tây so với tháp pháo đúc kim loại có hình dạng hình nửa quả trứng theo kiểu Liên Xô/Nga.

Xe có trọng lượng 39 tấn, xe được trang bị một động cơ diesel làm mát bằng chất lỏng 800 mã lực và được trang bị với hệ thống ổn định hình ảnh ISFCS-212 cùng một hệ thống điều khiển hỏa lực tương tự như loại được lắp đặt trên Type 88A.
Type 85-II không bao giờ được đưa vào trang bị. Dựa trên nền tảng của Type 85-II, một phiên bản cải tiến mang tên hiệu Type 85-IIA đã được phát triển vào những năm 1990.

Các nâng cấp của Type 85-IIA bao gồm việc sự thay thế của pháo 105mm nòng xoắn bằng một pháo 125mm nòng trơn và giảm thiểu số lượng thành viên tổ lái từ 4 xuống còn 3 người từ, tháp pháo được được mở rộng.
Type 85-IIA đã được xuất khẩu sang Pakistan từ 1991-1992 và được nâng cấp, sửa đổi để phù hợp với các điều kiện của Quân đội Pakistan (Type 85-IIAP). Ước tính có khoảng 300 chiếc đang phục vụ. Đây là tiền đề để hình thành nên loại Type 85-III.

Ở phiên bản Type 85-IIM xe được trang bị thêm hệ thống ISFCS.

Type 85-IIM sau đó được đặt tên mới là Type 85-III và lần đầu tiên được nhìn thấy vào năm 1995. Nó được trang bị một động cơ diesel 1000 mã lực mới, giáp phản ứng nổ ERA được trang bị trên mặt trước của tháp pháo và thân xe. Ban đầu chiếc xe dự định được dùng cho xuất khẩu nhưng sau khi xem xét lại PLA quyết định đưa nó vào trang bị trong các đơn vị chiến đấu và tiếp tục cải tiến, nâng cấp nó. Và Type 85-III chính là tiền thân của Type 90 và Type 96.
Sau khi Type 96 ra đời, dây chuyền sản xuất của Type 88 đã bị đình chỉ hoạt động và được thay thế bằng việc sản xuất hàng loạt Type 96 theo đơn đặt hàng của PLA, đôi khi Type 96 còn được gọi là Type 88C. Type 96 dự kiến sẽ thay thế cho các phiên bản Type 59, Type 69 và Type 88 đang phục vụ trong biên chế của PLA trở thành "xương sống" của lực lượng tăng thiết giáp Trung Quốc trong tương lai gần, trong khi đó phiên bản Type 99 ưu việt hơn sẽ được dành riêng cho các đơn vị tinh nhuệ của PLA.

Những chiếc Type 88 duyệt binh trên Quảng trường Thiên An Môn, dù Type 96 và Type 99 đang được trang bị ồ ạt nhưng nồng cốt của Lục quân Trung Quốc vẫn là những chiếc Type 88 vốn được phát triển từ chiếc T-54 cổ xưa của Liên Xô
« Sửa lần cuối: 13 Tháng Tám, 2011, 02:12:05 am gửi bởi Bộ đội Cụ Hồ » Logged
Bộ đội Cụ Hồ
Thành viên
*
Bài viết: 158



« Trả lời #62 vào lúc: 12 Tháng Tám, 2011, 02:35:47 am »

Tính năng kỹ thuật

Khả năng cơ động

Động cơ Kharkov 6TD-1200 mã lực do Ukraina sản xuất

Type 96 có tính cơ động cao nhờ được động cơ Diesel có công suất lên đến 1000 mã lực, động cơ của Type 96 được thiết kế rất tốt trong việc thải khói và chạy rất êm, giảm rất nhiều độ dằn xóc gây mệt mỏi cho tổ lái, động cơ thể được thay thế nhanh chóng trong 40 phút ngay trong điều kiện chiến trường ác liệt. Trong khi Type 96 được trang bị loại động cơ do trong nước sản xuất thì phiên bản Type 90 xuất khẩu sang Pakistan được trang bị động cơ Kharkov 6TD-1200 mã lực do Ukraina sản xuất. Động cơ Kharkov 6TD-1200 mã lực có thể đạt hiệu suất cao trong tất cả điều kiện thời tiết hoặc nhiệt độ cao. Trong điều kiện khí hậu lạnh, động cơ còn có thiết bị làm nóng trước khi khởi động. Động cơ 6TD-2 hoạt động hiệu quả trên sa mạc với nhiệt độ lên tới 55 độ C. Mặc dù là động cơ diesel nhưng nó có thể chạy nhiều nhiên liệu khác như: xăng, dầu hỏa, nhiên liệu động cơ phản lực hoặc nhiên liệu hỗn hợp với tỉ lệ cân đối.

Type 96 có trọng lượng khoảng 42,8 tấn và khả năng đạt vận tốc lên đến 70km/h trên đường nhưạ. Tầm hoạt động tối đa của xe là 400km nhưng có thể tăng lên đến 600km nhờ 2 bình nhiên liệu phụ 200 lít gắn sau đuôi xe. Type 96 có sáu bánh truyền động và ba con lăn hỗ trợ, bánh truyền động bao gồm hai đĩa lót cao su ở ngoài. Xe sử dụng hệ thống treo là thanh xoắn. Type 96 có thể gắn ống thở dùng cho việc lội nước qua nơi sâu, việc chuẩn bị lội nước mất khoảng 20 phút. Type 90-I sử dụng động cơ Perkins Shrewsbury CV-12 TCA 1200 mã lực của Anh (được sử dụng trong các xe tăng Challenger 2) và hộp số tự động SESM ESM 500 với 5 số tiến và 1 số lùi do Pháp sản xuất (được trang bị cho xe tăng Leclerc).

2 bình nhiên liệu phụ trợ của Type 96

Hệ thống vũ khí

Type 96 được trang bị vũ khí, đạn và hệ thống điều khiển hoả lực hiện đại. Vũ khí chính của nó là pháo nòng trơn 125 ly được trang bị hệ thống tầm nhiệt. Lượng dự trữ đạn trong xe có 42 viên, trong đó 28 viên nằm trong thiết bị nạp đạn tự động, pháo chính của xe có thể bắn đạn xuyên giáp APFSDS, phóng đạn nổ HEAT và đạn ghém HE-FRAG cũng như bom phóng hẹn giờ và tên lửa chống tăng ATGM loại 9M119 Refleks  (loại Trung Quốc sản xuất với công nghệ mua của Nga). Refleks 9M119 là tên lửa có hệ thống dẫn đường bán tự động bằng laser với một đầu nổ lõm (hollow-charge) có khả năng chống lại cả các mục tiêu có vỏ thép bảo vệ dày tới 950 ly và các loại máy bay trực thăng tầm thấp. Tên lửa có tầm bắn hiệu quả vào khoảng 100m tới 5-6 cây số và có thể di chuyển tới vị trí xa nhất trong vòng 17,5 giây (trong khi đó hiệu quả của các loại pháo tăng thông thường đã bắt đầu sụt giảm ở khoảng cách 2500m) tạo cho Type 96 khả năng tấn công và tiêu diệt các loại xe cơ giới khác và máy bay trực thăng trước khi những thứ này kịp tấn công nó. Hệ thống nạp đạn tự động gắn ở sau tháp pháo làm giảm số lượng tổ lái còn 3 người. Mặc dù các chuyên gia quốc phòng Trung Quốc công bố Type 96 được trang bị thiết bị nạp đạn tự động loại hiện đại cho phép nó có thể bắn trong khi di chuyển (cross-country fire-on-the-move) để chống lại các mục tiêu di động, nhưng các chuyên gia Nga cho rằng điều đó là không thể bởi cả Type 96 lẫn Type 99 vốn đều được sao chép từ T-72 của Liên Xô nên hai xe này không thoát khỏi quy luật chiến đấu của xe tăng thế hệ cũ là chạy - dừng - bắn. Xe cũng được trang bị hệ thống ngắm điện tử. Trang bị vũ khí thứ hai gồm một đại liên đồng trục 7,62 ly và một đại liên 12,7 ly để đối phó với các mục tiêu trên không và trên bộ. Đại liên phòng không 12,7 ly có tốc độ bắn 650-750 viên/phút, tầm bắn 2 cây số. Trên xe tăng có trang bị chừng 300 viên đạn cho khẩu 12,7 ly. Đại liên đồng trục có khối lượng 10,5 kg, còn số đạn dược của nó nặng chừng 9,5 kg. Ngoài ra xe còn được trang bị súng tiểu liên, súng ngắn và một số quả lựu đạn cho tổ lái .

Hệ thống bắn điện tử và quan sát

Hệ thống bắn điện tử cho phép xạ thủ hoặc chỉ huy có thể chọn 6 mục tiêu khác nhau để tham chiến chỉ trong vòng 30 giây. Hệ thống vi tính điện tử cho phép xử lý thông tin từ kính ngắm và hệ thống cảm biến. Chỉ huy có 8 kính tiềm vọng và hệ thống ngắm toàn cảnh. Hệ thống ngắm toàn cảnh bao gồm laser định vị, hệ thống ban ngày và hệ thống khuếch đại hình ảnh 2 bậc Tầm nhận diện mục tiêu là 4km và tầm định vị là 2.5 km. Chỉ huy có thể được xem qua ống ngắm nhiệt của xạ thủ. Type 96 còn được lắp đặt hệ thống cảnh báo các thiết bị dẫn đường bằng laser hay hồng ngoại khóa bắn và hệ thống phòng vệ bằng laser cho phép phá hủy các thiết bị ngắm quan học của vũ khí đối phương. Xe được lắp đặt hệ thống định vị dựa trên hệ thống GLONASS (Nga). Nó cho phép trưởng xe biết vị trí xe mình cũng như đơn vị bạn đặc biệt trong điều kiện thời tiết bất lợi (ban đêm, sương mù…).

 
Type 96G hành quân

Các loại khí tài điện tử được trang bị trên Type 96

Giáp và hệ thống bảo vệ

Giáp trụ của Type 96 thay đổi tùy theo phiên bản. Nhưng nói chung, Type 96 có hệ thống giáp bảo vệ tốt nhờ sử dụng giáp dày, chất lượng cao. Type 96 dùng giáp thép hàn, giáp composite và trang bị thêm váy bảo vệ hông. Các phiên bản Type 90 dùng cho xuất khẩu được trang bị thêm giáp phản ứng nổ ERA. Mặt trước thân và tháp pháo Type 96 trang bị giáp phản ứng nổ đời đầu thế hệ ba giúp bảo vệ xe trước đạn diệt tăng (đạn HEAT hoặc APFSDS) hay tên lửa chống tăng. Các tấm giáp phản ứng nổ còn lắp ở hai mặt trước thân cung cấp việc bảo vệ khoang lái xe. Hệ thống giáp của Type 96 được thiết kế theo kiểu mô đun cho phép gỡ bỏ thay thế dễ dàng hoặc nâng cấp. Giáp chính và giáp phản ứng đảm bảo sự sống tối đa cho xe tăng và tổ lái trước vũ khí xuyên giáp hiện đại.

Giáp phản ứng nổ được nắp đặt trên Type-96 của Trung Quốc làm việc theo nguyên lý phản ứng lại với sự thay đổi cơ học không khí bên ngoài bề mặt vỏ giáp như giáp "Relikt" của Nga và "Nozh" của Ukraina. Thực ra giáp phản ứng nổ bố trí trên Type-96 của Trung Quốc chỉ là giáp phản ứng nổ đời đầu của thế hệ 3 thôi, còn thế hệ giáp phản ứng nổ 3+ (Nga) hiện nay được bố trí trong các Block sử dụng thuốc nổ 4S24. Đấu những năm 1980, thông qua một số đồng minh ở Trung Đông, Trung Quốc đã có được một mẫu tăng T-72 tiên tiến của Liên Xô với đầy đủ các trang bị mới của thời đó như giáp phản ứng nổ thế hệ thứ hai "Kontakt-5" sử dụng vật liệu nổ 4S22, pháo chính được trang bị máy nạp đạn tự động. Trên cơ sở giáp phản ứng nổ thế hệ 2 "kontakt-5", Trung Quốc đã phát triển thành giáp phản ứng nổ thế hệ 3 đời đầu, hay nói chính xác hơn là 2+, trang bị cho Type-96. Thế hệ xe tăng thứ ba của Trung Quốc như Type 99 và phiên bản Type 96G đều được trang bị giáp phản ứng nổ thế hệ 3. Năm 1990, thử nghiệm của Khối NATO chỉ ra rằng, giáp phản ứng nổ Kontakt-5 là bất khả sâm phạm. Vào thời điểm đó, đạn chống tăng của khối NATO đứng đầu là Mỹ có M-829 với lõi Uranium nghèo là mạnh nhất, nhưng nó lại bị vô hiệu hóa trước Kontakt-5.

Giáp phản ứng nổ thế hệ 2 "Kontakt-5": (http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,19031.60.html) Phức hợp phản ứng nổ "Kontakt-5" bảo vệ các loại xe tăng, xe bọc thép trước các loại đạn chống tăng chủng xuyên lõm, đạn chống tăng xuyên động năng. Mặt vỏ giáp phản ứng nổ "Kontakt-5" được chế tạo từ tấm thép dày , chịu cường độ lực  cao. Khi vỏ giáp bị tác động bởi đạn xuyên động năng sẽ sinh ra luồng mảnh cao tốc làm nổ vật liệu phản ứng nổ. Tác dụng di chuyển của mặt vỏ giáp và mặt ngăn chứa vật liệu phản ứng nổ đủ để làm giảm tính năng xuyên giáp của chủng đạn xuyên động năng hoặc chủng đạn có luồng xuyên lõm.


Giáp phản ứng nổ "Konhtakt-5" không bị phát nổ khi đạn 6,72mm, 12,7mm thậm trí là đạn 30mm bắt trúng. "Konhtakt-5" có sức đề kháng cao hơn "Kontakt-1" trước các loại bom đạn có chủng nổ phân mảnh. Nhưng giáp phản ứng nổ "Kontakt-5" sẽ bị vô hiệu hóa trước sức nóng của hỗn hợp cháy "Napalm".



Giáp phản ứng nổ lắp đặt trên VT1A (phiên bản xuất khẩu của Type 96)

Hiện nay, Trung Quốc đang tiến hành nâng cấp giáp bảo vệ cho phiên bản Type 96G theo tiêu chuẩn của Type 99. Giáp trước Type 96G bằng thép cán dày khoảng 1000 - 1200 mm và được bọc thêm một lớp giáp phản ứng nổ hình chữ V có thế tháo ráp dễ dàng để thay thế. Lớp thép chống đạn KE dày 600 - 650mm, lớp thép chống đạn nổ lõm dày từ 600 - 750mm, đáy xe được bọc thêm hai lớp giáp DA.

Type 96 còn được trang bị hệ thống bảo vệ NBC (bảo vệ trước vũ khí hạt nhân, sinh học và hóa học). Hệ thống tạo màn khói gồm 12 ống phóng lựu đạn khói Type 84 được lắp ở hai bên hông tháp pháo. Việc bắn lựu đạn khói có thể hoàn toàn tự đông (trong trường hợp nhận được tín hiệu từ cảnh báo laze về mối đe dọa) hoặc thủ công (từ vị trí trưởng xe hoặc pháo thủ). Màn khói có thể vô hiệu hóa thiết bị quan sát đêm của đối phương hoặc tia hồng ngoại. Trong xe còn có hệ thống cứu hỏa có thể tự động phát hiện và dập lửa một cách nhanh chóng. Ở phiên bản Al Khalid được trang bị một hệ thống thiết bị tiêu chuẩn bao gồm một rada bắt bám mục tiêu tự động, một hệ thống dò tìm và phát hiện hạt nhân, sinh học và hóa học, một gói vỏ giáp liên hợp và phản ứng nổ đã được tăng cường. Nó có hệ thống cảnh báo laser tiên tiến.

Type 96 cũng được trang bị hệ thống điều hòa nhiệt độ để điều chỉnh nhiệt độ trong xe ở mức 15-20 độ C. Việc làm mát khoang lái là rất quan trọng vừa đảm bảo cho thiết bị điện vừa cải thiện hiệu suất làm việc tổ lái.

Hiện nay theo một số nguồn Trung Quốc đang tích cực hoàn hiện một phiên bản nội địa phỏng theo hệ thống Shtora-1 của Nga để có thể trang bị hàng loạt cho các loại tăng Type 96 và Type 99 đang có trong biên chế. Một số chuyên gia cho rằng Trung Quốc đã có trong tay hệ thống Shtora-1 thông qua Ukraina, thông tin này hiện vẫn chưa được kiểm chứng và các thông số về hệ thống bảo vệ thụ động tương tự Shotra-1 của Trung Quốc đến nay vẫn còn là bí mật. Shtora-1 là một thiết bị làm nhiễu âm điện quang (electro-optical) làm nhiễu quyền điều khiển đường ngắm (SACLOS) bán tự động tên lửa có điều khiển chống tăng, máy dò laser và máy chỉ thị mục tiêu của kẻ địch. Shtora-1 là một hệ thống tiêu diệt mềm, hay hệ thống trả đũa. Nó hiệu quả nhất khi được sử dụng cùng với một hệ thống tiêu diệt cứng như Arena. Hệ thống Shtora-1 bao gồm bốn thành phần chủ yếu, trạm giao diện điện quang, gồm một đài làm nhiễu âm, một thiết bị điều biến, và thanh điều khiển; một bảng làm nổ lựu đạn ở mỗi bên tháp pháo có thể gây nổ lựu đạn bằng cách phun ra một lớp màn sương; một hệ thống cảnh báo laser với các đầu chính xác và thô (with precision and coarse heads); một hệ thống kiểm soát gồm thanh kiểm soát, thiết bị vi xử lý và thanh điều khiển bằng tay. Thiết bị này xử lý thông tin từ các cảm biến và kích hoạt hệ thống phun màn sương. Hai đèn hồng ngoại, mỗi cái ở một bên của súng chính, sẽ liên tục tục phát ra xung hồng ngoại theo quy tắc để làm nhiễu khi phát hiện có ATGM đang bay tới. Shtora-1 có trường quan sát tới 360 độ theo chiều ngang và từ -5 đến +25 độ theo chiều dọc. Nó có mười hai máy phóng màn sương cân nặng 400 kg. Màn sương chỉ chưa cần tới 3 giây đã có thể hình thành và kéo dài khoảng 20 giây. Phạm vi triển khai của màn sương từ 50—70 mét.

Độ an toàn

Kết cấu bên trong của xe vẫn chịu ảnh hưởng từ các thiết kế xe tăng Liên Xô/Nga. Ẩn sau khối giáp nổ hình chữ V phía trước và lớp giáp nổ có thể tháo rời phía sau, tháp pháo chính của Type 96 vẫn mang dáng vẻ tròn, dẹt truyền thống theo kiểu xe tăng Liên Xô/Nga. Do bố cục cực kỳ phức tạp của bộ phận động cơ-truyền động, nên chỗ dành cho các khoang nhiên liệu trong đó đã không còn, chúng phải chuyển phần nào sang buồng tác chiến và một phần vào phần trước của khối này - nơi xác suất bị trúng đạn của đối phương là cao hơn đáng kể. Sự bố trí khối đạn dược của xe (hòm đạn), cũng nằm trong bộ phận tác chiến và cũng không được cách ly với tổ lái.Vì vậy, khi khoang chính bị trúng đạn làm hòm đạn có bị nổ tung thì các mảnh đạn sẽ văng vào tổ lái gây thương vong, có khi hòm đạn nổ làm cả tháp pháo bị hất tung lên không trung, Type 96 cầm chắc bị tiêu diệt hoàn toàn.
« Sửa lần cuối: 13 Tháng Tám, 2011, 04:19:55 pm gửi bởi Bộ đội Cụ Hồ » Logged
Bộ đội Cụ Hồ
Thành viên
*
Bài viết: 158



« Trả lời #63 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2011, 03:18:11 pm »

M1 ABRAMS

(Nguồn : vndefence.info)

LỊCH SỬ


Từ giữa thập niên 70, giới lãnh đạo quân đội Mĩ bắt đầu thúc đẩy việc hiện đại hoá quân đội để hạn chế nguy cơ thất bại trên chiến trường. Công nghệ kĩ thuật của Mĩ vào lúc đó vẫn chưa thể hiện tương xứng trên chiến trường Việt Nam. Môi trường khắc nghiệt và chi phí leo thang của cuộc chiến ngăn cản ý định hiện đại hoá quân đội cho tới khi cuộc chiến VN đã hoàn toàn kết thúc. Cuộc chiến chống du kích trong rừng đã kết thúc, thế trận lúc này được tập trung vào những cuộc chiến siêu quy mô ở chiến trường châu Âu-Liên Xô. Cùng với đó là cuộc chiến giữa Israel và các nước Hồi giáo Trung Đông với những cuộc đấu tăng lớn kèm theo nhiều kinh nghiệm chiến trường từ đồng minh Israel khiến cho việc hiện đại hoá tập trung vào lĩnh vực tăng-thiết giáp.

Từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 đến tận những năm 1980, lực lượng tăng của Mĩ chủ yếu dựa trên sự phát triển của cái rễ M26 Persing thành các ngọn M46, M47, M48, M60. Những nổ lực thay thế đột phá như MBT-70, T-95(không phải xe tăng T-95 của Nga về sau) đều thất bại vì chi phí cao và quá phức tạp. M1 đã ra đời vào đúng thời điểm lí tưởng với các công nghệ vừa mới ra lò: giáp composite, thiết bị quan sát đêm bằng hồng ngoại, thiết bị xác định khoảng cách bằng laser, máy tính đạn đạo và động cơ turbine. Những công nghệ này sau đó đã được trang bị cho xe tăng M1. Rút kinh nghiệm thất bại từ MBT-70, người Mĩ quyết định thiết kế Abrams theo một hướng mới: thay vì cố gắng chế tạo loại xe tăng tốt nhất thế giới, họ chế tạo loại xe tăng tốt nhất và có chi phí vừa phải. So với Leopard 2 của Đức và Challenger của Anh, Abrams có giá rẻ hơn nhưng vẫn là một địch thủ mạnh không hề thua kém.

MBT-70

M1 là đỉnh cao của chương trình thay thế M60 bắt đầu từ những năm 1960. Một trong những cố gắn đầu tiên trong chương trình là MBT-70 của liên minh Mĩ-Đức, tuy nhiên dự án MBT-70 đã thất bại với sự rút lui của Đức vì quá phức tạp và tốn kém. Phiên bản ít phức tạp hơn của MBT-70 là XM803 được nghiên cứu tuy nhiên vẫn bị huỷ vào cuối năm 1971. Tháng 2 năm 1972, nhóm nghiên cứu xe tăng chủ lực(MBT) mới được thành lập tại Fort Knox dưới quyền của thiếu tướng William Desobry để nghiên cứu yêu cầu cho loại MBT mới. Những yêu cầu cho loại MBT mới đượt đặt theo thứ tự ưu tiên: Sự an toàn của tổ lái, khả năng giám sát và phát hiện mục tiêu, tỉ lệ trúng của phát đạn đầu và các phát sau, thời gian phát hiện và bắn mục tiêu thấp, độ di động trên địa hình mở, tích hợp vũ khi đầy đủ, sự an toàn cho thiết bị, môi trường cho tổ lái, sự lộ diện của xe, tăng tốc và giảm tốc, sắp xếp đạn, yếu tố con người, khả năng sản xuất, tầm hoạt động, tốc độ, hậu cần, khả năng phát triển, thiết bị hổ trợ và khả năng chuyên chở(bằng máy bay, xe...). Việc sản xuất phiên bản thử nghiệm xe tăng XM815 sau đó được trao cho hai nhà thầu Chrysler(sản xuất M60) và GM(chế tạo MBT-70) vào tháng 6 năm 1973.

Sự lựa chọn vũ khí tập trung vào 3 loại pháo chính: M68 105mm có sẳn, pháo nòng xoắn 110mm của Anh và pháo Rheinmentall 120mm nòng trơn của Đức. Người Mĩ sau đó quyết định chọn pháo 105mm vì những tiến bộ trong chế tạo đạn APFSDS DU cho khả năng xuyên giáp cao (đạn M833 nâng cấp có khả năng xuyên phá 420mm RHA ở khoảng cách 2.000m, 60 độ) so với nhiều loại đạn APFSDS lõi tungsten khác(đạn 120mm APFSDS của Anh có khả năng xuyên 400mm và 125mm của LX có thể xuyên 450mm) mà vẫn giữ được tiêu chuẩn cho quân đội. Hơn nữa khi nghiên cứu pháo 120mm của Đức, người Mĩ kết luận rằng nó quá phức tạp và mắc tiền đối với tiêu chuẩn của Mĩ. Phiên bản được đơn giản hoá rẻ tiền hơn là M256 sau đó được cho ra đời cùng vài điều chỉnh trong hệ thống điều khiển hoả lực. Phiên bản M256 không ra đời kịp lúc cho sản xuất hàng loạt với xe tăng Abrams.

Ngoài ra cũng có một số ý tưởng phát triển độc đáo: tên lửa chống tăng phóng từ pháo chính như loại tên lửa Shillelagh 152mm của xe tăng M551 Sheridan, M60A2 Paton và MBT-70 phiên bản của Mĩ nhưng bị huỷ bỏ vì nhiều tiến bộ trong hệ thống điều khiển hoả lực(FCS) chính xác cao cũng như thực tế là đạn pháo thường có giá bằng 5% giá tên lửa. Một ý tưởng khác là lắp 1 pháo 25mm Bushmaster đồng trục với pháo chính để tiêu diệt các thiết giáp nhẹ nhằm giảm tiêu thụ đạn cho pháo chính(bị huỷ vì quyết định chế tạo dòng IFV Bradley).

Một quan ngại khác là về sự an toàn của chiếc MBT mới. Trong lịch sử, nguyên nhân chính của việc mất mát xe tăng chạy bằng động cơ diesel là do đạn bốc cháy. Để khắc phục đêìu này, khoang chứa đạn của XM815 được thiết kế để đặt sau tháp pháo để tránh bị bắt lửa khi vỏ xe bị xuyên phá.

Cách thức phát triển công đoạn nghiên cứu, chế tạo MBT mới của quân đội Mĩ cũng khá khác lạ. Đó là đặt hàng phiên phiên bản mẫu từ hai hãng Chrysler Defense và GM. Người của quân đội Mĩ không dính líu sâu vào việc nghiên cứu chế tạo MBT mới mà chủ yếu là quản lí ở cấp cao của chương trình và thực hiện những cuộc kiểm tra sau này. Tuy nhiên cách thức này giúp cho thế hệ MBT mới tốt hơn và có giá rẽ hơn. Hai nhà thầu đã đồng ý phát triển XM815 vào tháng 6 năm 1973. GM thiết kế 1 mẫu xe sử dụng động cơ diesel, Chrysler thì sử dụng động cơ turbine. Ngoài những yêu cầu kĩ thuật cho loại MBT mới thì yêu cầu về giá cả không vượt quá 507.790 USD/ chiếc(thời giá 1972) cũng được đặt ra.

Tháng 7 năm 1973, một nhóm nghiên cứu của Mĩ đến thăm cơ sở nghiên cứu ở Chobham, Anh để tìm hiểu về loại giáp đặc biệt đang được phát triển. Loại giáp mới này có tên Burlington đặt bởi quân đội Mĩ hay tên thông dụng hơn là Chobham. Loại giáp mới này cho khả năng kháng cự "ngoại hạng" đối với đạn nổ lỏm so với giáp thép.

Cuối năm 1973, chương trình XM815 được đổi tên thành XM1.

Việc quyết định áp dụng giáp Chobham lên M1 cũng buộc hai nhà thầu thiết kế lại lớp ngoài của giáp cho phù hợp.
Hai mẫu thử nghiệm của hai nhà thầu sau đó được đưa tới bãi thử Aberdeen và các cuộc thử nghiệm bắt đầu từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1976.

Cùng lúc đó, Mĩ cũng đang hối thúc các đồng minh châu Âu trong NATO tiêu chuẩn hoá các loại vũ khí của mình. Chính quyền Đức lúc đó đề nghị Mĩ nên xem xét việc dùng Leopard 2 làm MBT mới của Mĩ để khởi động cho kế hoạch tiêu chuẩn hoá NATO. Dù làm khó chịu nhiều nhà lãnh đạo quân đội, bộ quốc phòng Mĩ vẫn quyết định đồng ý xem xét Leopard 2. Một phiên bản của Leopard 2 là Leopard 2 AV sau đó được đưa tới Mĩ vào mùa thu năm 1976 để nghiên cứu. Leopard 2 được đánh giá là có hệ thống điều khiển hoả lực tốt hơn, nhưng lại yếu hơn về giáp, cách chứa đạn, xoay tầm hướng của tháp pháo và yếu tố quyết định: Leopard 2 mắc hơn 25% so với XM1. Tháng 1 năm 1977, cảc hai nước quyết định chỉ nên tiêu chuẩn hoá vài phần của xe tăng thay vì là nguyên cả xe. Mĩ quan tâm tới việc trang bị pháo Rheinmentall 120mm cho xe tăng M1 tương lai còn Đức thì cân nhắc việc dùng động cơ turbine AGT-1500 cho xe tăng Leopard.

Ban đầu, quân đội Mĩ tỏ vẻ muốn giao hợp đồng cho GM vì thích thiết kế của GM hơn, tuy nhiên quân đội vẫn muốn GM thay đổi lại thiết kế cho động cơ turbine AGT-1500. Ý định dùng động cơ turbine của quân đội cũng là vì những kết quả tốt từ động cơ turbine trực thăng trong những năm 1960. Quân đội Mĩ phát hiện rằng động cơ turbine có thời gian hoạt động cao hơn trước khi cần đại cần tu giúp xe giảm nhiều chi phí hoạt động. Người ta thường quên rằng chi phí hoạt động và bảo dưỡng của 1 xe tăng thường ngang với giá của chính nó. Văn phòng bộ trưởng quốc phòng(ODS) chống lại ý định của quân đội và đề nghị tiến hành việc giao thầu sau những thủ nghiệm kiểm tra cuối cùng sau khi 2 nhà thầu đã hoàn tất mẩu thử với việc thay động cơ và chỉnh lại tháp pháo cho khẩu 120mm trong tương lai. Chrysler quyết định thay đổi thực sự thiết kế của phiên bản XM1 để giảm giá thành, vốn là yếu tố quan trong mà ODS đề ra. Nhóm nghiên cứu của Chrysler dưới sự lãnh đạo của Dr Philip Lett Jun thiết kế lại lớp ngoài của loại giáp đặc biệt ở tháp pháo để tăng ưu thế về công nghệ. Thiết bị quan sát của xạ thủ cũng được đặt xa ra khỏi vị trí của xa trưởng để tránh cản tầm nhìn của xa trưởng. Nhiều cải tiến và đơn giản hoá được thêm vào nắp vòm của xa trưởng và hệ thống xát định khoảng cách bằng laser.

Ngày 12 tháng 11 năm 1976, mẫu xe của Chrysler được chọn thực hiện hợp đồng phát triển kĩ thuật mức độ lớn(FSED). Giai đọan FSED đòi hỏi Chrysler sản xuất 11 xe tăng thí điểm cho kiểm tra. Chiếc đầu tiên được giao vào tháng 2 năm 1978. Kiểm tra sau đó phát hiện sự cố do dộng cơ turbine bị nhiễm cát và bùn bị dính vào bánh răng trên xích. Để giải quyết, người ta cải tiến các bộ lọc không khí và các tấm chắn bùn đơn giản. Những xe tăng này sau đó được đưa vào kiểm tra sự an toàn với nhiều loại đạn khác nhau trong khi xe chở đầy đủ nhiên liệu và đạn dược. Cuộc thử nghiệm đã thành công và làm ấn tượng nhiều quan chức quân đội về sự vượt trội của M1 so với M60. Giai đoạn sản xuất qui mô nhỏ ban đầu được cho phép vào ngày 7 tháng 5 năm 1979. Có 110 chiếc được sản xuất trong giai đoạn này sau đó được đưa đikiểm tra khả năng hoạt động ở các bang Texas, Yuma, Arizona, điều kiện cực ở Alaska, điều kiện nhiệt đới ở Florida và điều kiện điện từ và phóng xạ ở bãi thử tên lửa White Sand.

XM1 được đưa vào sản xuất hàng loạt vào tháng 2 năm 1981 và được xếp loại tuyệt mật. Ban đầu người ta định đặt tên của tướng Geogre C. Marshall, tuy nhiên vì liên hệ đến tăng nên người ta chọn tên của tướng Creighton Abrams, chỉ huy tiểu đoàn tăng của sư đoàn thiết giáp số 4 và là chỉ huy quân đội quân đội Mĩ tại Việt Nam sau này.
Xe tăng M1 Abrams cuối cùng được sản xuất ở hai nhà máy sản xuất tăng ở Lima(Ohio) và Detroit(Michigan). Trong giai đoạn này thì Chrysler Defense, phân nhánh quân sự của tập đoàn Chrysler bị bán cho General Dynamic Land Systems(GDLS).
« Sửa lần cuối: 20 Tháng Tám, 2011, 03:34:25 pm gửi bởi Bộ đội Cụ Hồ » Logged
Bộ đội Cụ Hồ
Thành viên
*
Bài viết: 158



« Trả lời #64 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2011, 03:22:22 pm »

CÁC PHIÊN BẢN


+ XM815, XM1: nguyên mẫu thử nghiệm.

+ M1
Sản xuất:1980-1985. Là phiên bản sản xuất đầu tiên. Có các tính năng:
- Giáp Chobham
- Hệ thống treo tiên tiến(thanh xoắn và thiết bị giảm xốc xoay)
- Hệ thống ổn định pháo, pháo bằng thuỷ lực
- Máy tính đạn đạo điện tử
- Thiết bị xác định khoảng cách bằng laser
- Thiết bị hồng ngoại quan sát đêm

+IPM1
Sản xuất: 1984-1986. Là phiên bản nâng cấp khả năng thể hiện của M1(improved perfomance M1/IPM1). Các nâng cấp bao gồm: nâng cấp giáp, chổ chứa hàng bên ngoài, nâng cấp hệ thống treo.

+M1A1
Sản xuất:1985-1993. Có các nâng cấp:
- Pháo 120mm
- Giáp nâng cấp
- Hệ thống chống NBC bằng áp suất, hệ thống báo động sóng radio, thiết bị phát hiện háo chất, tổ lái được bảo vệ riêng với áo và mắc nạ đạc biệt.
- Thiết bị quan sát hồng ngoại độc lập cho xa trưởng(CITV/ commander independent thermal viewer)
- Hệ thống phát hiện sự cố
- Thiết bị lội nước sâu(DWFK/Deep water fording kit) cho phép xe lội nước sâu 2m(xe tăng của USMC)
- Tăng khả năng cố định trên tàu thuyền(xe tăng của USMC)
- Hệ thống báo cáo vị trí(PLRS/Position location reporting system)
- Bộ điều khiển điện tử(DECU/Digital electronic control unit)(giúp giảm tiêu thụ nhiên liệu)
- Hệ thống liên lạc radio địa/ không 1 kênh(SINGCARS/ single channel ground/ air radio systerm)

+M1A1 HA/ HC
Sản xuất: 1988-1991. Phiên bản heavy armor/ heavy common được tăng cường thêm giáp uranium nghèo(DU) trước tháp pháo. Giáp tháp pháo của M1A1 HA mạnh gần 2 lần giáp của M1 nguyên bản.

+M1A1 D
Sản xuất: 1999-2001. Là phiên bản nâng cấp digital của M1A1 giúp tăng cường khả năng cảnh giác tình huống và chỉ định mục tiêu từ xa. Các nânng cấp của M1A1 D bao gồm:
- Gói nâng cấp chỉ huy và điều khiển rời:
* A-kit: Nâng cấp bảng điều khiển của xa trưởng(UTCP/ upgraded tank commander's panel) với các phần cứng ngoại vi. (8.000 $/ 2009)
* B-kit: Màn hình và bàn phím rời.(34.000 $/ 2005)
* C kit: Cung cấp khả năng chỉ định mục tiêu từ xa nhờ module North Finding và bộ giao diện điện tử để xử lí thông tin thô đến các card rời. (52.000 $/ 2005).

+M1A1 AIM
Sản xuất: 1999-2006. Chương trình Abrams Intergrated Managerment cho thế kỉ XXI(AIM XXI) thực hiện khi quân đội Mĩ đại tu các lực lượng tăng của mình để giảm chi phí hoạt động và bảo dưỡng. M1A1 AIM không phải là tăng sản xuất mới mà là các xe tăng M1 cũ nâng cấp thành. Có các nâng cấp:
- Tình trạng như mới
- Nâng cấp động cơ
- Nâng cấp giáp
- Thiết kế tạo điều kiện cho việc nâng cấp lên M1A1 D trong tương lai
M1A1 AIM được trang bị chủ yếu cho các lữ đoàn Vệ Binh Quốc Gia Mĩ.

+M1A1SA
Ra đời khoảng năm 2006, M1A1SA-"Situational Awareness" là phiên bản được nâng cấp từ M1A1AIM với gói nâng cấp "SA" để phù hợp với chiến trường hiện đại.
Các tính năng:
- Hệ thống chỉ huy chiến trường FBCB2
- Thiết bị quan sát hồng ngoại trực diện(FLIR) thế hệ 2
- Thiết bị đánh dấu mục tiêu từ xa
- Thiết bị tìm tầm bằng laser an toàn cho mắt người
- Thiết bị quan sát hồng ngoại cho khẩu M2 của xa trưởng
- Tăng cường quan sát cho lái xe. Có thể bao gồm camera hồng ngoại quan sát phía sau xe
- Thiết bị phân bố điện mạnh hơn
- Thiết bị phát điện phụ trợ bên ngoài giáp(AAPU)
- Điện thoại liên lạc bộ binh-tăng

+M1A2
Sản xuất: 1992-1999.
- Thiết bị ngắm được ổn định hoàn toàn
- Hệ thống phát hiện sự cố
- Hệ thống liên lạc radio địa/ không 1 kênh(SINGCARS/ ingle channel ground/ air radio systerm)
- Bộ điều khiển điện tử(DECU/Digital electronic control unit)(giúp giảm tiêu thụ nhiên liệu)
- Hệ thống thông tin trong- ngoài xe
- Thiết bị quan sát hồng ngoại cho lái xe
- Thiết bị quan sát hồng ngoại độc lập cho xa trưởng(CITV/ commander independent thermal viewer)
- Màn hình tích hợp cho xa trưởng
- Màn hình tích hợp cho lái xe
- Khẩu M2 của xa trưởng không có điều khiển từ trong xe

+M1A2 SEPv1
Sản xuất: 1999-?. quân đội Mĩ đã quyết định dừng việc sản xuất xe tăng M1A2 SEP kể từ năm 2004. Thay vào đó là nâng cấp các xe tăng M1 cũ lên chuẩn của M1A2 SEP. Các nâng cấp của SEP:
- Thiết bị quan sát hồng ngoại trực diện(FLIR/ forward looking infrared) thế hệ 2. FLIR 2 giúp việc phát hiện mục tiêu tốt hơn 70%, tốc độ bắn nhanh hơn 45% và chính xác hơn. Tổng cộng, FLIR 2 giúp tăng khoảng cách phát hiện và nhận dạng tăng thêm 30%. FLIR 2 được trang bị cho thiết bị hồng ngoại của xạ thủ và thiết bị quan sát hồng ngoại độc lập của xa trưởng.
- Thiết bị phát điện phụ trợ trong xe(UAAPU/ under armor auxiliary power unit)
- Bộ xử lí máy tính nâng cấp
- Màn hình màu có độ phân giải cao
- Tăng dung lượng bộ nhớ
- Giao diện người- máy tốt hơn
- Hệ thống được thế kế mở cho phát triển tương lai
- Hệ thống kiểm soát nhiệt độ giúp giảm nhiệt độ cho tổ lái xuống còn 35 độ C và 51,6 độ C cho máy móc trong điều khiện khắc ngiệt.
- Hệ thống chỉ huy chiến trường FBCB2

+M1A2 SEPv2
240 chiếc M1A2 SEPv1 đã được kí hợp đồng nâng cấp lên version 2 vào tháng 11 năm 2007. Dự kiến tháng 11 năm 2009 sẽ hoàn tất. Một hợp đồng khác nâng cấp 435 xe tăng M1A1 cũng được kí vào tháng 2 năm 2008. System Enhancement package version 2 sẽ nâng cấp khả năng quan sát, hiển thị và trang bị điện thoại liên lạc giữ lính và xe tăng.

+M1 Grizzly
Là loại xe dùng để dọn mìn hay mở đường. Grizzly được trang bị 1 lưỡi cày mìn dài 4,2m và 1 cần cẩu có tầm với 9m và dung tích 1,2 m2.

+M1 Panther II
Sản xuất :2000-2001. Là loại xe dọn mìn điều khiển từ xa được thiết kế cho chiến trường Bosnia và được dùng ở Iraq. Panther nặng 43 tấn được trang bị 1 lưỡi cày mìn hay 1 trục lăn. Ngoài chế độ điều khiển từ xa, Panther còn có thể được lái bằng tổ lái 2 người.

+M104 Wolverine
Là loại xe dựng cầu tiến công. M104 có thể dựng 1 cây cầu dài 26m trong 5 phút. M104 có thể chịu đươc 5.000 lần qua lại của các phương tiện cơ giới nặng 70 tấn.

+M1A3
Quân đội Mĩ hiện đang nhắm tới việc sản xuất phiên bản M1A3 đầu tiên vào năm 2014 và đưa vào trang bị vào năm 2017.
Chiếc M1A3 mới này sẽ có trọng lượng khoảng 60 tấn, được trang bị nhiều thiết bị điện tử hơn và bền hơn so với các loại xe tăng Abrams cũ.
« Sửa lần cuối: 20 Tháng Tám, 2011, 03:35:34 pm gửi bởi Bộ đội Cụ Hồ » Logged
Bộ đội Cụ Hồ
Thành viên
*
Bài viết: 158



« Trả lời #65 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2011, 03:25:20 pm »

Logged
Bộ đội Cụ Hồ
Thành viên
*
Bài viết: 158



« Trả lời #66 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2011, 03:32:18 pm »

TÍNH DI ĐỘNG


Động cơ của xe tăng Abrams là động cơ AGT-1500 đa nhiên liệu kiểu turbine khí. Động cơ turbine khí nhỏ hơn và có ít bộ phận hơn và ít ồn hơn so với động cơ piston có cùng công suất. Tuy nhiên động cơ turbine khí tốn nhiều nhiên liệu hơn và toả nhiều nhiệt hơn so với động cơ piston. Động cơ AGT-1500 có trọng lượng khoảng 3,855kg. Có thể thay thế các phần riêng rẽ của hệ thống động cơ-truyền động mà không cần phải lấy nguyên tòan bộ hệ thống ra. Thời gian để lấy toàn bộ động cơ và hệ thống truyền động tự động chỉ mất 1h(đối với M60 là 4h). Để khởi động, M1 ngốn 34 lít xăng JP-8. M1 có thể tăng tốc từ 0 lên 32 km/h trong 7s. Nguyên lý hoạt động của động cơ turbine khí là hút không khí vào trong một máy nén có áp suất cao. Tại đây, không khí được trộn với nhiên liệu và đốt cháy. Luồng hơi nóng có áp suất cao từ máy nén thổi tiếp vào trong làm xoay cánh quạt turbine, vận hành động cơ. Sau đó luồng hơi được thải 1 phần, một phần luồng hơi được đưa vào bộ thu hồi khí để sử dụng lại. Hệ thống bánh răng truyền động truyền lực xoay của cánh quạt vào 2 bánh xe chủ động ở sau xe. Cuối cùng, động cơ của M1 là loại không khói.
Hệ thống treo của M1 bao gồm 7 thanh đòn nối với bánh xe đi đường ở mỗi bên thân xe. Các thanh đòn này có trục ở giữa để gắn hai bánh xe đi đường lại với nhau thành một bánh đôi. 14 thanh đòn này được nối với nhau bằng các thanh xoắn làm từ thép có độ cứng cao. Các thanh xoắn này chạy ngang thân xe, nối 2 thanh đòn ở hai bên sườn lại với nhau. hệ thống truyền động của M1 cho phép bánh xe đi đường có thể di chuyển lên xuống 38cm. Để ổn định các thanh xoắn, 6 thiết bị giảm sốc ở các cặp bánh số 1,2 và 7. Các thiết bị giảm sốc giúp xe không bị đung đưa trên các thanh xoắn khi di chuyển. Bởi vì các bánh đi đường ở đầu thường chịu ảnh hưởng lớn của địa hình nên cặp bánh 1, 2 được trang bị thiết bị giảm sốc. Bánh xe cuối được trang bị thiết bị giảm sốc để ổn định xích xe trước khi đi vào bánh răng của bánh truyền động. Hệ thống truyền động của M1 bao gồm 4 số tiến và 2 số lùi.
Xích T-158 được bọc cao su rộng 61cm, phần tiếp xúc với mặt đất dài khoảng 7,6m. Các mắt xích bị hỏng có thể được thay thế.
Bình xăng bao gồm 4 khoang chứa 1.909 lít của M1 có thể giúp xe lái được trong khoảng 8 tiếng đồng hồ tuỳ theo điều khiện khác nhau. Trong điều kiện lí tưởng, một xe tăng cần 10 phút để nạp nhiên liệu, một trung đội(4 xe tăng) cần 30 phút. Mức tiêu thụ nhiên liệu trung bình:
+ 0,6 dặm(0,96km) cần 1 gallon(3,785l) nhiên liệu.
+ Hơn 30 gallon(227l) đi được 1h trên địa hình lí tưởng.
+ 60 gallon(454l) khi di chuyển trên địa hình ghồ ghề.
+ Lưỡi cày mìn tăng 25% tiêu thụ nhiên liệu.
Cần lưu ý rằng phiên bản M1A2 SEP chỉ có bình xăng 3 khoang dung tích 1.680 lít nên tầm hoạt động ngắn hơn(350 km) so với các phiên bản khác.
Tốc độ di chuyển cao nhất trên địa hình gồ ghề cùa M1 là 48km/h, cao gấp đôi so với M60A3. M1 có thể tăng tốc từ 0 lên 32km/h chỉ trong 7s trên đường. Tốc độ di chuyển cao nhất trên đường trung bình khoảng 67 km/h cho phiên bản mang pháo 120mm. Tốc độ tối đa của M1 có thể cao hơn nếu không có thiết bị điều chỉnh vận tốc của động cơ. Trọng lượng lớn(M1A1 nặng 57 tấn, trong khi xe tăng T-90 của Nga chỉ nặng 46,5 tấn) của xe khiến cho tốc độ di chuyển trên địa hình ẩm ướt và đất mềm cũng như khả năng vượt hào bị hạn chế nhiều, tuy nhiên nó giúp cho xe an toàn hơn khi lái trên địa hình ghồ ghề. M1 không có hiện tượng bay lên khỏi mặt đất sau khi vượt qua chướng ngại vật như các xe tăng có trọng lượng dưới 50 tấn, thay vào đó, nó lướt qua chướng ngại, xích xe vẫn áp sát mặt đường. Khi tiếp đất với kiểu bay, tổ lái nếu không mang đai an toàn có thể bị thương nặng ở đầu và cổ, nhưng với M1 thì không sao, điều này cho phép tổ lái của xe M1 linh họat và thoải mái hơn. Trọng lượng nặng và hệ thống treo thuỷ lực của M1 giúp cho nó di chuyển một cách đặc biệt êm ái trên địa hình ghồ ghề. Động cơ turbine khí giúp M1 di chuyển ít ồn và tuổi thọ động cơ cao hơn so với động cơ diesel của M60. Tuy nhiên, M1 vẫn có 1 điểm yếu là nó không có khả năng lặn sâu so với nhiều loại xe tăng khác. Thiết bị lặn của M1 chỉ cho phép xe vượt qua chổ nước sâu không quá nóc xe.
Nhờ có hệ thống lọc không khí trước khi đưa vào động cơ nên M1 không chịu nhiều ảnh hưởng do cát bụi và thời tiết. Tuy nhiên, vì tiêu thụ quá nhiều nhiên liệu nên thường chỉ có những xe bồn cỡ lớn mới có thể giải khát cho một lực lượng M1, và những xe bồn này có khả năng di chuyển địa hình cũng như chịu đựng thời tiết kém hơn so với xe tăng nên việc tiếp tế thường tốn nhiều thời gian.
Logged
Bộ đội Cụ Hồ
Thành viên
*
Bài viết: 158



« Trả lời #67 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2011, 03:49:47 pm »

THIẾT KẾ TRONG-NGOÀI










Vị trí của xa trưởng: được trang bị sáu kính quan sát có thể quan sát tòan bộ 360 độ quanh xe. Thiết bị quan sát hồng ngoại độc lập(ITV/independent thermal viewer) của hãng Texas Instruments cung cấp khả năng quan sát ngày và đêm độc lập (với xạ thủ) được ổn định, có thể quan sát 360 độ, tự động quét khu vực, tự động chuyển thông tin về mục tiêu cho xạ thủ và một hệ thống điều khiển hỏa lực dự phòng cho phép xa trưởng sử dụng pháo chính. Khẩu M2 của xa trưởng cũng được trang bị một kính nhắm 3X.

Vị trí của xạ thủ: được trang bị GPS(gunner’s primary sight/(thiết bị) ngắm chính của xạ thủ) từ Electro-Optical Systems Division của công ty Hughes Aircraft. Hệ thống tạo ảnh hồng ngoại(thermal imaging systerm/TIS) cũng của công ty Hughes tạo ra một hình ảnh dựa trên sự khác biệ về nhiệt độ của các vật thể trong khu vực nhìn thấy. Hình ảnh tạo ra được hiển thị trong một thị kính cùng với thông số về khỏang cách có sai số dưới 10m từ thiết bị xác định khỏang cách bằng laser của Hughes. Cùng với đó là một máy tính đạn đạo. Dữ liệu về khỏang cách được truyền trực tiếp vào máy tính đạn đạo, sau đó được tự động tính tóan. Dữ liệu bao gồm: 1) Góc bắn đón, 2) Góc nâng hạ của pháo chính được tính bằng cảm ứng đầu nòng đặt trên pháo chính, 3) Dữ liệu về gió đo bằng cảm biến gió trên nóc tháp pháo, 4) dữ liệu từ con quay hồi chuyển đặt tại trung tâm của nóc tháp pháo. Cuối cùng, người xa trưởng hay xạ thủ sau đó đưa thông tin về loại đạn, nhiệt độ và áp suất khí áp vào. GPS được trang bị hai kính quan sát đôi 3X và 10x ban ngày cũng như 3X và 10X ban đêm. Ngoài GPS, còn có một kính nhắm phụ trợ 8X khác.

Vị trí của người nạp đạn: không được trang bị các thiết bị điều khiển hỏa lực đặc biệt nào. Tuy nhiên, từ vị trí của mình, người nạp đạn có thể quan sát tòan bộ bên trong xe, điều này rất quan trọng nên hầu hết xa trưởng đều chọn người có kinh nghiệm nhiều thứ hai vào vị trí của người nạp đạn. Phía sau lưng người nạp đạn là khoang chứa đạn của pháo chính được ngăn cách bằng một lớp cửa thép. Để lấy đạn từ khoang, người nạp đạn phải nhấn giữ một nút để mở cửa trượt ngăn cách. Khi buôn nút, của tự động đóng lại. trên nắp ra vào của người nạp đạn cũng có một kính quan sát 1X có thể xoay 360 độ.

Vị trí của lái xe: Lái xe có một ghế ngồi tự ngã về sau khi hách ra vào đóng lại cũng như khi xe đang trong trạng thái hoạt động. Vị trí của lái xe cũng được thiết kế để thích hợp với 95% nam giới Mĩ, cho phép người lái dù mập hay ốm cũng có thể điều khiển xe. Bên cạnh lái xe có trang bị các thiết bị đo đạc và màn hình tiêu chuẩn thể hiện tình trạng nhiên liệu, điện năng của các pin, các thiết bị điện tử. Thiết bị quan sát của lái xe bao gồm ba kính quan sát cung cấp tầm nhìn 120 độ. Kính quan sát ở chính giữ có thể được gắn một thiết bị hồng ngoại để quan sát ban đêm hay trong điều kiện khói bụi.
« Sửa lần cuối: 20 Tháng Tám, 2011, 04:03:16 pm gửi bởi Bộ đội Cụ Hồ » Logged
Bộ đội Cụ Hồ
Thành viên
*
Bài viết: 158



« Trả lời #68 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2011, 07:37:02 pm »

KHẢ NĂNG BẢO VỆ


Với ưu tiên thiết kế hàng đầu là bảo vệ tố lái, M1 Abrams là một trong những loại xe tăng an toàn nhất thế giới ngay cả khi giáp xe không cản nổi đạn của đối phương.
Như hầu hết các loại xe tăng được thiết kế vào thời chiến tranh lạnh, giáp xe tăng Abrams được tập trung dày nhất ở 60 độ trước xe. Giáp của Abrams là loại giáp Burlington theo tên gọi của Mĩ hay Chobham theo tên gọi của Anh. Giáp Chobham có khả năng chống đạn cao hơn nhiều lần so với thép thường. Đến những năm 1987, giáp xe tăng Abrams phiên bản M1A1HA được tăng cường thêm Uranium nghèo(DU) ở giữa hai lớp giáp của tháp pháo giúp tăng thêm khả năng chống đạn xuyên giáp bằng động năng. Về sau, lớp giáp này được tiếp tục nâng cấp. M1A2 và M1A1HC được cho rằng dùng giáp DU thế hệ 2 và M1A2 SEP dùng giáp DU thế hệ 3. Cũng như nhiều xe tăng kiểu phương Tây khác, giáp chính ở phía trước xe tăng Abrams là 100% giáp thô, không lệ thuộc vào ERA. Điều này khiến cho xe có trọng lượng lớn, nhưng bù lại giáp có độ bền cao hơn nhiều.
Thiết bị nhắm chính của xạ thủ(GPS) được trang bị cửa đóng mở để bảo vệ trước các loại miểng pháo và đạn súng cá nhân. Phía trước tháp pháo của M1 cũng được thiết kế khá vuông vức, các khí tài quan sát được đặt lùi về sau so với mặt trước của tháp pháo giúp tăng độ an toàn cho khí tài khi mặt trước tháp pháo bị tấn công bằng đạn HE hoặc HEAT. Hai bên và phía sau tháp pháo được gắn những khung chứa hàng đôi khi cũng giúp giảm hiệu quả sát thương của các loại đạn HEAT. Đến đời M1A1 về sau, khung chứa hàng được gia cố thêm bằng thùng chứa hàng. Hai bên sườn thân xe cũng được trang bị giáp skirt armor khá dày cũng nhằm mục đích giảm hiệu quả của đạn HEAT. Tuy nhiên những biện pháp này không thể bảo vệ xe hoàn toàn trước các loại đạn, nhất là những loại đạn HEAT hiện đại, kèm thêm một thực tế là phần động cơ phía sau thân xe hoàn toàn không thể chịu được bất kì loại đạn nào mang nhãn chống tăng. Nhằm khắc phục nhược điểm này, gói nâng cấp TUSK đã ra đời. Nâng cấp chính bao gồm giáp ERA lắp hai bên sườn thân xe và giáp lồng ở phía sau xe.
Đằng sau lớp giáp cứng là một lớp chống miểng làm bằng Kevlar giúp chống lại mảnh vở của giáp khi giáp bị xuyên phá.
Ở bên trong xe, đạn pháo chính được đặt trong các khoang tách biệt với tổ lái và có ván blow-off. Khi đạn trong khoan phát nổ, sức nổ của chúng sẽ thổi bay các tấm ván blow-off, giải phóng sức nổ ra ngoài xe mà không gây thiệt hại cho tổ lái. Thiết kế an toàn này là điểm độc đáo mà hầu như không loại xe tăng nào khác có(Xe tăng Leopard 2 của Đức cũng có tính năng này cho một phần đạn pháo chính(17 viên) đặt ở tháp pháo, tuy nhiên phần lớn còn lại(35 viên) trong thân xe được đặt hở với tổ lái và không có ván blow-off).
Phần thân dưới phía trước có hai bình nhiên liệu lớn. Tuy nhiên, chúng lại giúp tăng khả năng bảo vệ chống đạn từ phía trước cho xe. Thực vậy! Chất lỏng cũng có khả năng chống đạn. Ví dụ như nước có khả năng chống đạn CE bằng 45% RHA, KE bằng 15%. Ethanol có khả năng chống đạn CE bằng 63% RHA, KE bằng 15%. Ngoài ra, hai bình nhiên liệu này có vỏ làm bằng các lớp nhôm có lỗ giống tổ ong kẹp giữa các tấm nhôm mỏng. Thiết kế này có khả năng chống đạn bằng 70% RHA nhưng có chi phí thấp và trọng lượng nhẹ.
Ngoài ra, Abrams còn được trang bị hệ thống chữa cháy tiên tiến bằng khí halon có khả năng phát hiện hoả hoạn chỉ trong 2 phần nghìn giây và dập tắt chúng trong vòng 1/4 giây. Cả khoang lái lẫn khoang động cơ đều có hệ thống chữa cháy bằng khi halon. Tuy nhiên, với dung tích bình xăng hơn 1900 lít, thì các hệ thống chữa cháy này chỉ có thể dập tắc các đám cháy nhỏ-vừa và cầm chân các đám cháy lớn cho tổ lái có thời gian thoát thân. Trong trường hợp hệ thống tự động bị trục trặc, tổ lái có thể kích hoạt hệ thống chữa cháy bằng tay từ bên trong(đối với hệ thống dập lửa khoang lái) hoặc bên ngoài(đối với khoang động cơ).
Cuối cùng, xa trưởng và người nạp đạn của xe còn được trang bị bộ trang phục chống đạn bao gồm mũ và áo khoác đặc biệt dành cho tổ lái có khả năng chống đạn 7,62mm.
Trong tương lai, M1 sẽ được bảo vệ thêm bởi hệ thống phòng thủ tích cực Quick-Kill có khả năng đánh chặn hầu hết các loại đạn từ mọi hướng xung quanh xe. Hệ thống Quick-Kill sẽ được đưa vào trang bị thử nghiệm trong năm 2009 cho lực lượng Mĩ. Trong thời gian chờ loại APS “hard kill” này, quân đội Mĩ đã trang bị các thiết bị hình hộp AN VLQ-8A “soft kill” có khả năng gây nhiễu các loại tên lửa chống tăng SACLOS đời đầu.
Logged
Bộ đội Cụ Hồ
Thành viên
*
Bài viết: 158



« Trả lời #69 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2011, 07:42:55 pm »

Thiết bị phản ứng chống tên lửa(MCD) AN VLQ-8A


Thiết bị phản ứng chống tên lửa AN VLQ-8A của hãng Sander(thuộc công ty Lockheed Martin) cung cấp khả năng bảo vệ tức thời chống lại một số lớn tên lửa chống tăng có điều khiển(ATGM) cho các loại xe thiết giáp. Hơn 1.000 hệ thống đã được giao cho quân đội Mĩ. Hiện vẫn chưa có thông tin về việc xuất khẩ hệ thống này.
Thiết bị AN VLQ-8A này có thể làm nhiễu các loại tên lửa SACLOS, qua đó ngăn chặn chúng tới được mục tiêu.
Thời gian trung bình trước khi gặp sự cố của thiết bị này vào khoảng 400 h, được cho là rất đáng tin cậy và không cần bảo trì ở cấp độ lớn. Tất cả những gì cần làm cho một thành viên tổ lái là bật tắt hệ thống, lau chùi bụi đất để cho hệ thống hoạt động trong thời gian dài.
Hệ thống này thường được đặt trên nóc tháp pháo xe tăng Abrams. Nhiều hệ thống cũng có thể được trang bị cho một xe tăng nếu cần vùng bảo vệ lớn hơn.
Tuy nhiên, hệ thống MCD này tỏa ra một lượng lớn tia hồng ngoại có thể đốt cháy mắt và da người đứng trước nó. Vì vậy, binh sĩ được khuyến cáo không nên nhìn vào thiết bị này trong tầm 4m.

TUSK(Tank Urban Survability Kit)

Bao gồm:
- Giáp ERA cho tăng Abrams(ARAT) 2 bên sườn xe
- Giáp lồng phía sau xe
- RWS cho súng máy .50 của xa trưởng
- Tấm chắn đạn cho súng máy 7,62mm của người nạp đạn
- Súng máy .50 đồng trúc với pháo chính
- Điện thoại liên lạc giữa tăng-bộ binh
- Mũ nhắm bắn hồng ngoại khẩu M240 cho người nạp đạn


Người nạp đạn có thể bắn súng máy M240 mà không cần phải lộ đầu của mình lên cao(hình thứ 2, bên phải, trên xuống).


Có thể thấy được lớp giáp gia cố chống mìn dưới gầm xe trong hình trên.

Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM