VN "trồng" được PKMS lâu rồi!
PKMS nào chứ không phải súng máy đa năng kiểu ka la s nhi cô v hiện đại hoá. Tất cả các thử nghiệm gần đây đều có vấn đề, chương trình vẫn tiến hành. Phía bạn cung cấp đầy đủ thông tin thiết kế hình học, vật liệu và thiết kế gia công. Quân ta không làm được PK thì vẫn xài PK 40 năm nay, không thiếu.
Thật ra, nói ta không làm được PK cũng không hoàn toàn đúng, ở bảo tàng ta có viết mỗi chữ lên súng Thomson SMP là súng đó thành "Stel do Việt Nam sản xuất". Cũng như AK, PK là một súng tốt đúng nghĩa, và súng tốt đúng nghĩa bao gồm chức năng dễ làm, làm dễ mà tin cậy. Nhưng vấn đề là súng máy có chế độ làm việc khắc nghiệt, cần tuân thủ những quy trình nghiêm ngặt, mà từ trình độ công nhân cho đến máy móc, kỹ sư, kinh phí, nhà ta chỗ nào cũng bớt đi một chút, thậm chí là bớt đi phần lớn để lại súng chỉ còn một chút. Hầu hết các rắc rối đến từ việc gia công bớt xén, không đủ độ bóng, có khuyết tật, không đủ bền dai (chóng bở), và không đủ độ chính xác gia công cắt gọt.
Nhà ta thì có ngành quân khí đặc tầu khựa, với dầy đặc các kỹ sư thuần chủng kiểu trí thức "đại cách mạng văn hoá vô sản", kiểu những tiến sỹ viết ra cả núi luận văn chứng minh mỗi nhà dân một cái lò nấu gang thép sẽ tốt hơn là làm lò cao.
Bản thân PK cũng không phải triển thuận lợi ở nhiều nơi. Tầu đã được chuyển giao một phần, nhưng 196x đại cách mạng ăn hoá vô sản nổ ra, tầu không làm nổi rồi chuyển sang nhái Bren. Cùng dòng ZB, ZB 26 trước đó đã được tầu tưởng lên chương trình nhái.
Ở chính quốc, PK cũng chỉ thắng thầu cái quyền sản xuất vào năm 1961, đối đầu cuối cùng là súng máy đa năng của Nikitin. Nhưng sau đó PK được chuyển giao cho nhiều nước Đông Âu.
Chương trình súng máy đa năng bắt đầu ngay trong WW2, đại diện đầu tiên sau WW2 là DP-46, nhưng chưa thật sự thoả mãn tính "đa năng" . Súng máy đa năng học theo concept của súng Đức mà đại diện cuối là MG42. SÚng Đức có khả năng thay nòng nhanh, có giá 2 chân liền súng, lắp được trên giá 3 chân và giá cao xạ , nên lúc dùng 1 nòng là trung liên, cón hiều người hầu mang nòng phụ đổi liên tục là đại liên, cao xạ. Tầm bao quát của súng máy đa năng phải gang mức đại liên, cao xạ, là tầm chiến đấu của đại đội, trong khi đó đạn M43 chỉ đạt tầm bắn trung liên 600 mét. Vậy nên, từ đầu 195x, thì chương trình súng máy đa năng dùng đạn Mosin phát triển, yêu cầu cấp bách là thay thế các đại liên như Maxim (DS-39, SG-43) và DP để kéo dài tầm với của đại đội toàn đạn M43, DP không đủ chức năng đại liên trong khi đại liên quá to không hợp với đại đội.
Súng PN của Nikitin đã đến đoạn thử nghiệm lớn trong quân đội, nhưng liền đó Kalashnicov tiến một lèo AKM song song với RPK . RPK được chấp nhận cùng năm 1961 với PK và gần như cả bộ AKM, PK, B41, RPK được chấp nhận liền nhau 1959-1961. Trong đó, RPK khó bảo vệ nhất ví nó bớt đi tính trung liên điển hình để đổi lấy tỷ lệ lớn hơn tính súng trường xung phong, điều khá lạ lẫm lúc đó, rồi được bù bằng PK. RPK quá nhẹ, không đủ trữ nhiệt, nhanh nóng nòng, gần súng trường xung phong hơn là trung liên, thì tính trung liên tầm xa của PK cõng.
PK, PKS, PKT được chấp nhận trang bị 1961, PKM năm 1969. PK có khóa nòng kiểu AK, trích khí và kép băng như DP 46 hay RPD nhưng chỉ dùng băng dây, đơn giản vậy thôi. PK không có đệm kéo băng, tức càng đệm đàn hồi chống việc giật mạnh băng làm rung súng, cũng không cần người ngồi cạnh cầm băng mồi làm đệm, mà đơn giản là PK có cái hộp đựng băng treo ngay bên dưới, đoạn băng thả tự do ngắn, nhẹ, ít quán tính, không làm giật súng, khá thông minh (PN của Nikitin chưa có điểm này, trước đó nhiềuu úng máy đã có hộp đựng băng, nhưng chưa súng nào tính đúng chuyện dùng hộp đựng băng giảm giật bằng cách xếp băng, ví dụ RPD cuốn băng tròn trong trống).
Giá 3 chân là giá thay thế xe kéo của đại liên trước đây, súng nhẹ hơn thì không cần xe. Súng nhẹ hơn bằng nhiều cách, làm nòng thay nhanh không cần chỉnh (đã chỉnh sẵn đầu ruồi trên nòng và lắp nòng rất chính xác), nòng thay nhanh chia người ra mang và bớt khối lượng của các cánh làm nguội, bầu nước..., giảm tốc độ bắn còn 650 phát phút cũng làm nòng nhẹ đi. Thực tế thì PK bắn nhanh hơn nhiều con số danh định này do các hiệu chỉnh ở trích khí và cò. Vấn đề tốic độ bắn của PK cũng gây nhiều tranh cãi, DS-39 đạt 1200 phát/phút với hai nấc chỉnh 600 và 1200, nhưng sau đó Gorjunov SG-43 thay thế với tốc độ quay về 650, tốc độ này hợp lý với việc đem đại liên từ tiểu đoàn xuống đại đội, từ xe ngựa lên lưng lính.
PK bắn từ khóa nòng mở, nó mở thế nào thì nói sau.
Cả bộ vũ khí AKM, RPK, PK mới chính thức bắt đầu thời đại AK (cùng luôn B41). Trước đó, thì biên chế Liên Xô vẫn thiên về bộ SKS, RPD và các đại liên khác, mặc dù AK được chấp nhận năm 1949, nhưng vẫn như WW2, AK chỉ được dùng trong các đơn vị súng máy, tức tương tự như Sturm Troop Đức=bộ đội xung kích, bộ binh mạnh, như vị trí PPSh. Trơng thời gian đó, AK vẫn nằm trong nhóm súng tự động cá nhân Avtomat bao gồm cả PPSh, chứ Avtomat chưa dùng như nghĩa súng trường xung phong ngày nay, AK vẫn có tên là cạc bin liên thanh như MKb Đức, theo lý luận từ Stalingrad thì toàn PPSh hay MP Đức sẽ không hoàn chỉnh vì bị Mosin hạ từ xa, trong khi các MP/PP tầm ngắn. Khi B41 đủ tầm súng bộ binh thay cho B40 chỉ cắn trộm 150 mét, cũng như RPK có chức năng súng trường nòng dài như SKS, thêm quả PK viện trợ... thì AK mới chắc chân.
Dễ dàng kiểm chứng điều trên bằng cách đặt góc nhìn vào tâm lý bộ đội lúc đó, SKS nòng dài đúng là súng trường, còn AK bớt nòng, bớt tầm đi, mặc dù chả hao bao nhiêu sơ tốc đầu đạn, nhưng vẫn không gây thiện cảm. RPD bắn lâu nóng đúng là trung liên, chứ không như RPK như là tiểu liên. Ở Staslingrad trong chiến tranh đường phố, xung kích Đức bộc lộ từ xa, bị các DP và Mosin lạc hậu hơn chơi từ xa mà MP bó tay, DP có hiệu quả cao và Mosin đã có hiệu quả khá từ 600 mét, MP tối đa được 200 mét, MP Đức lúc đó chỉ 150 mét.
Vì vậy, PK yêu cầu kỹ thuật cao, khó làm, nhưng chính RPK mới là anh bảo vệ khó khăn nhất, cuối cùng thì PK qua năm 1961 cõng luôn RPK. Ban đầu, những lý luận quân sự này chưa là thành phần của học thuyết quân sự, mà chỉ giới hạn bằng cách gọi khiêm tốn "góc nhìn". Theo quan điểm mới, người ta hoàn toàn giải tán "hoả lực cấp trung đội", trung đội trưởng từ đây hầu như không còn quyền hành trong tác chiến, mà chỉ còn quyền "hành chính", và là một ông sỹ quan tập sự. Theo quan điểm mới này, hoả lực tập trung ở hai cấp đại đội và tiểu đội.
--Đại đội có 2-3 khẩu đội PK , 2-3 cối 60
--Mỗi tiểu đội có 1 RPK và 1 B41
Như vậy, hình thành một tổ hoả lực ở mỗi tiểu đội, bao gồm tiểu đội trưởng và B41, RPK. Toàn bộ hoả lực mạnh của đại đội và các hậu cần, kỹ thuật.... dồn lên đại đội. Trừ trực thuộc đại đội thì các trung đội dùng chung đạn. PK biên chế ở cấp đại đội, đủ nhân viên và đồ đạc để làm đại liên, cao xạ, nhưng khi được biên chế về các mũi nhọn vẫn làm được trung liên. Trong suốt kháng chiến chống Mỹ, pốt, tầu quân ta không thực hiện được biên chế này vì thiếu gold.
Có thể tóm tắt thay đổi như sau:
--các cá nhân từ súng phát một lên liên thanh, toàn quân dùng súng máy.
--trung liên từ trung đội xuống tiểu đội.
--tiểu đội thêm B41, B40 trước do chưa đủ yêu cầu súng bộ binh, chỉ để đánh trộm như một vũ khí phụ (về sau RPG-18 thay thế B40), vì tầm chỉ 150 mét.
--hoả lực trung đội bỏ, "bộ tư lệnh trung đội" chỉ còn 1 sỹ quan, thực chất là tập sự và cần vụ không chính thức.
--Đại liên từ tiểu đoàn xuống đại đội
PK nặng 9kg với giá 2 chân, PKM nặng 7,5. Khối lượng này suytrs bằng RPD và nhẹ hơn khối trung liên khác, nên PK là trung liên mạnh. Giá ba chân đời đầu 7,7 sau 4,5. Cả giá 3 chsaan PKM vẫn 12kg, nhẹ như trung liên phổ biến khác.
Tóm tắt biên chế đại đội bộ binh đi bộ:
Cấp đại đội gồm:
1 tiểu đội PK 2 khẩu
1 tiểu đội cối 60 2 khẩu
1 tiểu đội hậu cần kỹ thuật
1 đại trưởng, 2 phó, + cần vụ không chính thức
3 trung đội bộ binh, mỗi trung đội gồm 3 tiểu đội, một trung đội trưởng và cần vụ không chính thức
Mỗi tiểu đội bộ binh đi bộ gồm 9 người.
1 B41
1 RPK
7 AK
Cộng lại, không kể dao rìu kim chỉ, bật lửa đèn pin, cũng không kể bật lửa to như K59, đại đội bộ binh có:
90-100 AK và AKU
9 B41
9 RPK
2 PK
2 cối 60
http://world.guns.ru/machine/rus/kalashnikov-pk-pkm-e.htmlẢnh PN của Nikitin
Thực hiện một súng PK không khó, nhất là bạn rất nhiệt tình chuyển giao cho ta. Nhưng bên Tầu khựa cũng vậy, Tầu đã được chuyển giao một phần nhưng sau CMVH là chịu chết. Có gì đâu, toàn những lỗi lặt vặt của việc trên bảo dưới không nghe, trăm hoa đua nở, tuồng tầu.... của xã hội "cách mạng vô sản". Đơn giản nhất là không đủ nhiệt lúc rèn, phôi nguội rồi mà gia công áp lực, tạo ứng lực nứt mỏi, không thể đáp ứng va đập của loại súng máy mạnh. Có cái thằng kỹ sư nào kiểm tra nhiệt độ của từng phôi rèn của từng thợ, hậu quả của việc ăn cắp từ cái bằng bậc thợ, chỗ làm việc, cho chí các vị trí tiến sỹ, công trình sư, thằng thợ tuy bé nhưng là dây ông A, kỹ sư dây ông B.... là căn bệnh đặc chất tầu mà người Nga gọi là "kiểu tầu", "tuồng tầu", không ai bảo được ai vì từng tế bào nhỏ nhất của xã hội là các tổ thợ đều đã hỏng.
Đơn giản hơn mình có thể ví dụ, Suomi là súng máy tốt , nghèo hèn đến như Phần Lan cũng làm được, thế mà đến khi các nước khác nhái thì gặp đủ tật chủ yếu, trên bịt đáy nòng và ống vỏ máy, mà lý do đơn giản nhất là phôi kim loại đúc được dội nước vào để làm nguội nhanh, gây tôi ròn hỏng súng.
PK thay thế RPK
Hồi Chechen, quân Nga phát hiện ra đạn SAK 5,45 không đủ đáp ứng cho vai trò của RPK. Ở Afghan ít rừng, còn ở Chéc thì bắn xuyên rừng xuyên tường nhiều. Cũng may là lúc này quân Nga hầu như 100% bộ binh cơ giới, có anh không xe thì chỉ vì anh ấy được xe bỏ lại cảnh giới ở vị trí nào đấy. Bộ binh cơ giới thì khả thoải mái mang đồ đạc, nên PK mang theo nhiều. Nhưng vẫn đề là bác học lại đau đầu.
Người ta thiết kế lại PK sao cho nó thuận tiện hơn khi dùng 1 người, dùng cho đặc nhiệm, bắn như đại liên nhưng lại không phải thay nòng. Nòng được bọc một cái ao, bơm khí trong đó làm mát, thành PKP Pecheneg.
Môt số bộ phận của PK
Bệ khóa nòng và cần piston. Đây là đặt ngược để dễ xem, phía dưới là cái rút đạn ra khỏi băng khi lắm ở bên trên .
Thêm vài ảnh
Móc rút đạn từ băng và khe quay của khóa nòng, lỗ đút chuôi khóa nòng
điểm lắp piston
Đẩy về
Khóa nòng
Thay nòng và tháo khoá nòng