Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 07:23:46 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hitler Và Những Sứ Mạng Bí Mật Của Skorzeny  (Đọc 36920 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
alonely0209
Thành viên
*
Bài viết: 86


« Trả lời #70 vào lúc: 09 Tháng Mười, 2010, 12:34:56 am »

Tôi bèn đến Bộ Tham mưu Quân đoàn đóng trong một khách sạn dựng trên đỉnh của một trong vô số ngọn đồi tại Budapest. Tướng Wench tiếp tôi ngay, và chúng tôi nôn nóng pha lẫn tò mò chờ đợi các biến cố. Chúng tôi biết rằng trên đồi Mout du Château người Hung đã cho áp dụng một vài biện pháp quân sự. Trại binh đã được tăng cường, các con đường chính dẫn lên đồi hình như đã được ngăn chặn bằng mìn chôn dưới đất. Đến trưa, chúng tôi được toà Đại sứ toạ lạc trên đồi gọi điện thoại. Tuỳ viên quân sự của chúng tôi cho biết rằng toàn diện khu vực trên đồi chính thức bị đặt trong tình trạng giới nghiêm, và tất cả mọi sự di chuyển trên các lối dẫn lên đồi đều bị cấm chỉ. Cách vài phút trước, ông ta thử dùng xe xuống đồi nhưng đâu đâu cũng gặp các trạm gác và quân Hung yêu cầu ông trở lui ngay. Một lát sau, liên lạc điện thoại bị cắt đứt – chúng tôi đoán như vậy bởi vì chúng tôi không được gọi một lần nào nữa. Như vậy là các cơ sở Đức còn ở trên đồi thật sự đã bị cô lập.
Điều này rõ ràng là đã cấu thành “hành vi bất thân thiện” đầu tiên, như ngôn ngữ ngoại giao vẫn thường nói. Chúng tôi tự hỏi không biết còn hành động nào trầm trọng sắp xảy ra không. Không còn gì nghi ngờ nữa, tình hình hiện tại không thể kéo dài mãi, trong hai hay ba giờ nữa, quyết định sau cùng sẽ đến hoặc theo chiều hướng này hay chiều hướng kia. Hiện tại chúng tôi chỉ có thể chờ đợi, đối phương vẫn giữ thế chủ động. Vào lúc 14 giờ sự ngờ vực đã bị tàn bạo đánh tan bởi một bản tuyên bố của Horthy được đài phát thanh Hung loan đi.
“Hung-gia-lợi vừa ký kết hiệp ước hoà bình riêng rẽ với Nga sô!”
Lúc này, ngọn lao đã phóng đi. Tình hình đã rõ rệt, chúng tôi phải phát động các “phản biện pháp” đã dự liệu ngay. Ông Tướng lập tức ra lệnh bố trí các đơn vị theo kế hoạch báo động đã được chuẩn bị trước, trong thành phố Budapest.
Cùng lúc đó, ông yêu cầu tôi khởi động cuộc tấn công lên đồi Mont du Château. Tôi ước tính rằng, chưa phải lúc thuận tiện và khuyên ông chờ thêm vài ngày nữa. Để đối phó với quân Hung, tôi đề nghị vận dụng các đơn vị Đức, thiết lập một vòng đai bên ngoài bao quanh đồi. Sư đoàn 22 SS sẽ phụ trách công tác này. Việc chiếm các nhà ga và các công ốc quan trọng nhất đã được thực hiện êm đẹp mà không gây ra một hậu quả nào trong suốt buổi chiều.
Mặt khác, chúng tôi gởi gấp một tướng lãnh đến Bộ Tư lệnh Tối cao Hung-gia-lợi tại mặt trận Carpathes, nếu tình thế bắt buộc, ông ta có nhiệm vụ phải bắt giữ ông Tướng Hung, Tư lệnh đạo quân này. Nhưng, vị Tướng lãnh phái viên của chúng tôi đến quá chậm. Viên Tướng Hung, cùng với vài sĩ quan và thư ký đã chạy trốn qua hàng ngũ quân Nga sô. Chúng tôi rất ngạc nhiên thấy bản tuyên cáo thoả hiệp hoà bình riêng với Nga lẫn cuộc chạy trốn của viên Tư lệnh đã không tạo ảnh hưởng nào đối với thái độ của binh sĩ Hung-gia-lợi. Gần như khắp nơi, các đơn vị Hung vẫn giữ nguyên vị trí. Đại đa số các sĩ quan từ chối bắt chước Tư lệnh của họ. Ở lại bên cạnh binh sĩ, họ tiếp tục chiến đấu. Tuy nhiên, chúng tôi phải hành động thật nhanh để ngăn không cho Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Hung, trụ sở ở sát lâu đài, ban ra các mệnh lệnh đầu hàng mới nữa.
Trong một phiên họp vào buổi chiều, chúng tôi quyết định sẽ tấn công lên đồi vào sáng ngày hôm sau. Tôi định giờ H là 6 giờ, nghĩa là lúc rạng đông, vì tôi cho rằng đó là lúc thuận tiện nhất để tạo tình trạng bất ngờ toàn diện - một yếu tố chủ yếu, nếu tôi không muốn dàn trận đánh nhau. Suốt đêm tôi và Foelkersam nghiên cứu lại bản đồ khu đồi. Dần dần, kế hoạch của chúng tôi được chính xác hoá. Chúng tôi dự trù một cuộc tấn công tập trung, gồm nhiều đơn vị tham dự. Trong khi họ xung phong, tôi sẽ tìm cách chọc thẳng vào trung tâm, dọc theo đại lộ Vienne. Chính tại đó, tôi hy vọng tạo được sự bất ngờ vì tôi tin rằng sẽ chiếm được cổng thành Vienne mà không cần nổ súng, càng yên lặng càng tốt, để có thể đột ngột xuất hiện cùng với binh sĩ của tôi trước công viên của lâu đài.
Logged
alonely0209
Thành viên
*
Bài viết: 86


« Trả lời #71 vào lúc: 09 Tháng Mười, 2010, 12:35:24 am »

Sau đó là phải thu đạt được kết quả sau cùng thật nhanh. Chúng tôi phải xâm nhập tức khắc và lâu đài có lẽ sẽ là trung tâm đề kháng, hành động chỉ kéo dài nhiều lắm là vài phút, nhờ đó tránh cho phía Hung cũng như phía chúng tôi cuộc đổ máu vô ích.
Vì vậy, chúng tôi giao cho mỗi đơn vị một nhiệm vụ chính xác, chúng tôi lại vừa được tăng cường một đại đội chiến xa Panthère và một đại đội chiến xa Goliath. Loại sau là một chiến cụ mới, xe bọc thép, điều khiển từ xa, chạy bằng xích, rất thấp và dễ điều khiển và phía trước mũi có chứa một khối chất nổ cực mạnh vì thế nó còn có tên là thiết giáp lùn, chắc chúng tôi phải dùng loại này để phá các chướng ngại vật cản đường hay tung các cửa chắn lối tiến quân.
Tiểu đoàn sinh viên sĩ quan của Trường Chiến tranh sẽ tấn công khu vườn nằm trên sườn mạn nam. Nhiệm vụ khó khăn vì chúng tôi biết nơi sườn đồi rất dốc này, quân Hung thiết trí rất nhiều ổ đại liên. Nhiệm vụ của tiểu đoàn là vô hiệu hoá địch và chiếm phần phía Nam của Lâu Đài.
Một bộ phận thuộc đơn vị đặc biệt của tôi có một chiến xa yểm trợ, sẽ tấn công mặt tây của bức tường để chiếm một cánh cửa hông của Lâu Đài. Một đơn vị thuộc tiểu đoàn dù 600 SS, sẽ chui qua đường hầm đào dưới chân cầu treo thâm nhập vào trong lòng ngọn đồi. Đơn vị này phải chiếm các lối vào chằng chịt dưới đất và đột nhập vào các toà nhà dùng làm trụ sở của Bộ Chiến tranh và Bộ Nội vụ.
Phần còn lại của đơn vị đặc biệt, đa số tiểu đoàn dù SS, 4 chiến xa Panthère và các thiết giáp lùn Goliath, sẽ do tôi chỉ huy để đánh thốc vào cổng thành Vienne và Lâu Đài. Riêng tiểu đoàn dù của không quân, được giữ làm đơn vị trừ bị, đề phòng các diễn biến rắc rối bất khả dự trù.
Vào nửa đêm, khi ấn định các chi tiết cho mỗi một hành động, các đơn vị của tôi đã bố trí sẵn sàng sau vòng đai do sư đoàn 22 SS thiết lập.
Một lát sau, một sĩ quan cao cấp của Bộ Chiến tranh Hung-gia-lợi tìm đến Bộ Tham mưu của quân đoàn chúng tôi. Ông ta đi thẳng từ đồi Mont du Château bằng một con đường bí mật để nhân danh Bộ này mở cuộc thương thuyết với chúng tôi. Chúng tôi bảo rằng không có lý do gì để bắt đầu thương thuyết khi viên Nhiếp chính chưa huỷ bỏ tuyên cáo ký kết hoà bình riêng rẽ với Nga sô. Mặt khác chúng tôi nhấn mạnh rằng việc cô lập hoá, nếu không nói là việc giam giữ nhân viên toà Đại sứ rõ ràng là một hành vi bất thân thiện. Do khuyến cáo của tôi, phía chúng tôi quyết định dành cho Quốc hội Hung-gia-lợi một thời gian để lập lại tình trạng bình thường hơn. Với ngôn ngữ của một tối hậu thư, chúng tôi bắt buộc đến 6 giờ sáng là chậm nhất, tất cả mìn và cổng chặn ngăn cản lưu thông trên con đường Vienne - nơi tòa Đại sứ tọa lạc - phải được gỡ bỏ. Làm như vậy, chúng tôi có cơ hội bằng vàng để tấn công Lâu đài một cách chớp nhoáng với tổn thất tối thiểu.
Thái độ của ông khách hình như cũng phản ánh thái độ của đa số đồng sự trong Bộ Chiến tranh Hung, ông ta tỏ vẻ lo âu trước sự trở mặt phản phúc của Hung-gia-lợi đối với Đức quốc. Cuộc tiếp xúc giữa chúng tôi kéo dài chừng 2 giờ trong vòng thân mật, rồi ông ta xin cáo biệt.
Đến 3 giờ sáng, tôi đến vị trí tiến quân dưới chân đồi gần địa điểm điều quân. Cho tập họp các sĩ quan, tôi trải bản đồ, và dưới ánh sáng yếu ớt của các đèn bấm, vừa nhấm nháp ly cà phê mà người cận vệ mới đưa cho, tôi giải thích và xác định các chi tiết cuối cùng. Kế hoạch hành động đã sẵn sàng. Tôi sẽ cùng đơn vị, thử tiến lên đồi một cách êm lặng cho đến tận Lâu Đài, làm như “cuộc du ngoạn” này là chuyện tự nhiên nhaất trần đời. Các đơn vị phải ngồi nguyên trên xe, làm ra vẻ chỉ chuyển quân đi ngang qua các con đường một cách tình cờ. Tôi biết rằng hành động như vậy, tôi gặp phải nguy hiểm bởi vì nếu các xe bị đánh, binh sĩ không trở tay kịp. Nhưng tôi phải chấp nhận mối đe dọa đó nếu muốn đến Lâu Đài thật nhanh mà khỏi phải đánh nhau.
Tôi thông báo kế hoạch cho sĩ quan chỉ huy các cánh quân và dặn dò thật kỹ là cho lệnh khai hỏa khi tình hình nguy cấp đến mức chót. Họ cũng khôg được trả đũa các cuộc tấn công của những toán địch quân lẻ tẻ, mục đích là phải đưa được đoàn xe vào các vị trí chiến đấu đã được chỉ định mà không cần nổ súng. “Người Hung không phải là kẻ thù của ta”, đó là khẩu hiệu, ít ra cũng là trong lúc này.
Sau đó, tôi ấn định thứ tự di chuyển của cánh quân do tôi chỉ huy, đi đầu là chiếc xe nhỏ có tôi trên đó, liền sau xe tôi là bốn chiến xa, rồi đến toán xe Goliath, sau cùng là binh sĩ, mỗi tiểu đội ngồi trên một xe. Tất cả vũ khí cá nhân đều được khóa an toàn. Phần đông binh sĩ của tôi, những quân nhân già kinh nghiệm, không phải là lần đầu tham dự một chiến dịch kiểu này, đã lợi dụng cả những phút còn lại trước khi khởi hành để tiếp tục giấc ngủ. Ngay khi vượt qua cổng thành Vienne, đến khu bằng phẳng trên đỉnh đồi, cánh quân sẽ chia làm hai và xông thật nhanh đến Lâu Đài.
5 giờ 30 - 5 giờ 40, trong xe đầu tiên có năm quân nhân, bạn chiến đấu vong niên của tôi, năm Hạ sĩ quan từng tham dự vào vụ Gran Sasso. Mỗi người mang một súng lục và nhiều lựu đạn ở hông và cầm tay một khí giới chống chiến xa mới, khẩu “Bazooka”. Chúng tôi rất tò mò muốn thấy thái độ của quân Hung trên đồi sẽ như thế nào. Nếu cần chúng tôi sẽ bắt họ im lặng hoặc bằng các quả đạn từ các chiến xa, hoặc bằng các khẩu bazooka này.
Một lần nữa, tôi nhìn đồng hồ tay: 5 giờ 59. Cánh tay mặt tôi xoay vòng làm hiệu: nổ máy xe. Rồi đứng trên chiếc xe nhỏ, tôi đưa thẳng tay lên nhiều lần: Tiến! Chúng tôi lăn bánh từ từ, vì dốc đồi rất nghiêng. Miễn là không có chiếc nào cán phải mìn, con đường sẽ bị cản trở và như thế là làm cho kế hoạch của tôi đến phút chót, bị tan tành. Như do linh tính, tôi nghiêng tai lo âu nghe ngóng phía sau, tốt đẹp cả, không có tiếng nổ nào cắt đứt tiếng động cơ xe. Đây rồi, cổng thành Vienne. Giữa rào cản có một lối đi, vài binh sĩ Hung nhìn chúng tôi với vẻ tò mò thấy rõ. Một phút sau, chúng tôi đến khu vực bằng phẳng trên đỉnh đồi. Hạ thấp giọng, tôi ra lệnh cho tài xế từ từ nhấn mạnh ga.
Bên phải tôi là một trại binh Hung, trước cổng có hai đại liên đặt sau hai đống bao cát.
Logged
alonely0209
Thành viên
*
Bài viết: 86


« Trả lời #72 vào lúc: 09 Tháng Mười, 2010, 12:35:49 am »

- Bị bắn bên hông là chuyện không hay tí nào. - Foelkersam thì thầm bên tai tôi.
May thay, cả bên trong, lẫn trước trại binh chẳng ai động dụng gì cả, chỉ có tiếng chiến xa của chúng tôi là nghe rõ mồn một. Tôi đi vào lối bên phải, tức là phía tòa Đại sứ, hiện tại, đoàn xe di chuyển với tốc độ khá nhanh, sau tôi, một chiến xa xả tốc lực đến 40 cây số/giờ tạo nên tiếng động như sấm. Còn 1 cây số nữa là đến Lâu Đài. Phần đầu của kế hoạch đã thành công hoàn toàn, chúng tôi đã lên đến đỉnh đồi mà không một tiếng súng nổ. Bên trái tôi, tòa nhà vĩ đại của Bộ Chiến tranh đã xuất hiện. Xa xa, một, hai, ba tiếng nổ mạnh. Chắc chắn là cánh quân dưới hầm đã bít lối đi dưới hệ thống đường hầm chằng chịt. Giây phút quyết định sắp điểm. Chúng tôi vượt qua Bộ Chiến tranh, lúc này, công trường mênh mông của Lâu Đài trải rộng trước chúng tôi. Ba chiến xa lớn trấn giữ nơi đó, khi thấy chúng tôi xuất hiện, chúng hướng mũi súng lên trời tỏ dấu không chống cự. Trước cửa Lâu Đài, quân Hung xây một bức tường chắn bằng đá tảng cao nhiều thước. Xe tôi tránh tạt ngang và tôi ra hiệu bằng tay cho chiếc chiến xa đi kế ủi mạnh vào chướng ngại vật. Trong khi quái vật khổng lồ húc vào, chúng tôi nhảy xuống xe, bức tường chắn ngang không chịu nổi sức mạnh 30 tấn chạm vào nên đã đổ sụp, chiếc chiến xa tiến lên vượt qua đống đá, vào đến sân Lâu Đài - và đối diện với sáu súng chống chiến xa trước mặt.
Chạy bên phải và bên trái các chiến xa Panthère, chúng tôi vượt qua rào cản bị sụp và tiến vào vòm cổng chính. Một Đại Tá phòng vệ Lâu Đài, súng lục cầm tay, cố ngăn chúng tôi lại, nhưng Foelkersam đã dùng vai hích ông ta dội lui. Bên phải chúng tôi hình như là lối chính đi vào Lâu đài. Chúng tôi nhào đến bậc cấp đầu tiên. Vừa thấy một sĩ quan hấp tấp chạy về phía chúng tôi, tôi hét:
- Đưa tôi đến vị chỉ huy Lâu Đài ngay lập tức.
Ngoan ngoãn, anh ta đưa tôi lên cầu thang danh dự rộng thênh thang. Đến tầng thứ nhất, chúng tôi đi vào một hành lang. Tôi ra hiệu cho một binh sĩ đứng lại ở đầu cầu thang để khi cần, che chở chúng tôi. Viên sĩ quan chỉ cho tôi cánh cửa đi vào một phòng nhỏ. Trên một bàn giấy đặt gần cửa sổ mở rộng, một binh sĩ Hung đang nằm sau một trung liên và vừa nhắm bắn vào quân tôi đang đứng dưới sân. Hạ sĩ quan Holzer, một quân nhân đầu trọc và mập ù, tiến tới nhắc khẩu trung liên ném qua cửa sổ. Xạ thủ kinh hoàng rơi xuống bàn và lăn quay xuống nền.
Thấy bên phải có cánh cửa, tôi gõ mấy tiếng và bước vào. Một Trung Tướng tiến về phía tôi. Tôi không để cho ông ta kịp nói một lời nào.
- Ông là Chỉ huy trưởng Lâu Đài? Tôi yêu cầu ông đầu hàng tức khắc. Nếu ông từ chối buông khí giới, máu sẽ đổ một cách vô ích và ông phải chịu trách nhiệm. Xin ông quyết định ngay.
Tôi cần phải kết thúc nhanh, vì từ dưới công trường đã có tiếng súng và vài loạt đại liên. Tôi nhấn mạnh và cố gắng dùng giọng thuyết phục.
- Ông đã thấy, mọi sự chống đối lúc này là điên rồ. Binh sĩ của tôi đã chiếm cả lâu đài.
Đây không phải là một khẳng định vô bằng nhằm mục đích gây cho viên Tướng Hung sự kinh ngạc. Tôi tin chắc là đơn vị đặc biệt do Trung úy Hunke chỉ huy đã bình tĩnh chiếm giữ các điểm chiến lược trong tòa Lâu Đài mênh mông này. Thật vậy, viên Tướng Hung chưa kịp lấy lại bình tĩnh thì Hunke đã mở cửa phòng bước vào báo cáo rằng sân và các hành lang chính đã bị chiếm đóng mà không xảy ra giao tranh, và xin lệnh của tôi.
Hiện tại, viên tướng lãnh đã có quyết định, tất nhiên là chẳng vui vẻ gì.
- Tôi đầu hàng, - ông ta tuyên bố bằng một giọng nói long trọng. - Tôi sẽ ra lệnh cho binh sĩ thuộc quyền ngừng bắn ngay.
Chúng tôi xiết tay nhau và thỏa thuận thông báo tin tức cho các đơn vị đôi bên còn đánh nhau bằng một sĩ quan Hung và một sĩ quan thuộc cánh quân của tôi. Trong khi viên Tướng Hung sắp xếp việc đầu hàng, tôi bước ra hành lang và đi một vòng để thanh sát tình hình. Tôi yêu cầu và được hai sĩ quan Hung-gia-lợi tháp tùng và làm sĩ quan liên lạc. Tôi ngạc nhiên khi thấy các phòng dành cho viên Nhiếp chính trống rỗng. Tôi được biết ngay là ông ta đã rời khỏi Lâu Đài vài phút trước 6 giờ để xin tướng SS Pleffer - Wildenbruch bảo vệ, còn gia đình ông ta thì đến xin tị nạn tại nhà vị đại diện Tòa thánh La-Mã từ đêm qua. Dầu sao, sự hiện diện của Đô Đốc Horthy tại Lâu Đài cũng không làm thay đổi được gì cả, kế hoạch của tôi không nhắm vào đích thân ông ta mà là khu vực cơ quan chính quyền Hung-gia-lợi.
Khi ló đầu nhìn ra một cửa sổ, nhiều viên đạn rít bên tai tôi. Vội vàng tôi thối lui. Một lúc sau Hunke báo cáo là không thể nào mang lệnh ngưng bắn cho các đơn vị bố trí sau vườn của Lâu Đài hướng về bờ sông Danube. Tuy nhiên hai phát bazooka bắn đi từ trên Lâu Đài, đủ để cho quân Hung tại các nơi đó hiểu rằng tốt hơn là nên đầu hàng.
Tổng quát chiến dịch kéo dài chừng nửa giờ, và bây giờ yên tĩnh trở lại trên toàn diện khu đồi. Dân chúng ở khu lân cận có thể yên tâm tiếp tục ngủ. Bằng điện thoại, tôi báo cáo kết quả thành công cho Bộ Tư Lệnh Quân đoàn và tôi nghe tiếng thở dài khoan khoái của viên sĩ quan bên kia đầu dây. Chắc chắn là quí ông này chỉ tin tưởng phần nào thôi về kế hoạch tấn công chớp nhoáng của tôi mà nền tảng là sự bất ngờ.
Ít lâu sau, tôi nhận được báo cáo của hai toán quân chiếm Trụ sở của Bộ Tổng Tham Mưu Quân lực Hung - nơi đây có thể xẩy ra đụng độ ngắn - và Bộ Nội Vụ, cơ quan này đầu hàng tức khắc, và rồi báo cáo của các cánh quân khác. Tổn thất của chúng tôi rất nhẹ, bốn tử thương và mười hai bị thương. Trận đánh thật sự đã diễn ra trong vườn sau Lâu Đài. Phía Hung-gia-lợi tổn thất ba chết, mười lăm bị thương.
Tất cả quân Hung đồn trú trên đồi phải nộp vũ khí và chúng được chất đống trong sân. Ngược lại tôi cho phép sĩ quan giữ lại vũ khí cá nhân. Rồi tôi yêu cầu họ cho tập họp trong một phòng lớn ở tầng dưới đất để ứng khẩu một bài diễn văn mà nội dung đại khái như sau:
- Tôi cần lưu ý các anh là từ nhiều thế kỷ nay, không có cuộc xung đột nào làm sứt mẻ mối giao hảo tốt đẹp giữa Hung-gia-lợi và Đức-quốc, bao giờ hai dân tộc ta cũng chiến đấu cạnh nhau để chống kẻ thù chung. Ngay cả hôm nay nữa, chúng ta không có lý do gì để gây gổ nhau. Mục tiêu của cuộc chiến tranh hiện nay là để lập một Âu Châu mới, mà mục tiêu đó chỉ có thể đạt được nếu Đức-quốc thoát khỏi sự tàn phá do đối phương đe dọa.
Giọng Áo của tôi đã làm nổi bật tính cách hòa hoãn và thân hữu của lời tôi nói, vì không có sĩ quan nào từ chối bắt tay tôi. Vào đầu buổi chiều, họ cùng với binh sĩ rút về các trại quân tại Budapest. Sáng hôm sau, tất cả đều đến trình diện Bộ Chiến tranh để thề trung thành với chính quyền mới.
Theo lệnh, tôi và đơn vị vẫn chiếm Lâu Đài và cho canh giữ các điểm chính trên đồi. Thật ra, tôi không bao giờ tin rằng có một ngày nào đó tôi được bơm lên làm chủ nhân ông Biệt điện của Hoàng gia Hung-Gia-lợi. Người hầu phòng lớn tuổi của Nhiếp chính vương đã biểu diễn bộ mặt buồn rượi khiến cho Foelkersam không từ chối nổi ý định phải gọi một bữa ăn trưa đích đáng. Trong thực tế, chúng tôi đều đói meo. Bất mãn ra mặt, nhưng người hầu phòng già đời trong nghề sau cùng cũng dọn cho chúng tôi một bữa ăn chấp nhận được mặc dù rõ rệt là không ngon bổ bằng các lần hầu tiệc xa xưa trong Lâu Đài, vào thời đại Nữ hoàng Elisabeth của triều đình vương quốc Áo-Hung. Buổi tối, bữa ăn tập họp tất cả sĩ quan của tôi trong căn phòng ăn rộng lớn, chúng tôi cực kỳ vui vẻ và phấn khởi, nhất là các tin sau cùng từ mặt trận cho thấy tình hình có vẻ khá hơn. Vậy chúng tôi có thể vui vẻ ăn mừng chiến công của chúng tôi: nhờ chúng tôi mà tai họa thật sự đe dọa đạo quân Đức tại Hung đã tránh được vào phút chót.
Sáng hôm sau, tân Bộ Trưởng Chiến tranh, Bereghfy đã tuyên bố nhân danh tân chính phủ cám ơn tôi. Tôi trả lời là đã rất sung sướng đạt được mục tiêu sau một cuộc đụng độ rất ngắn và nhất là đã có thể ngăn cản không gây sự thiệt hại nào cho tòa lâu đài đẹp đẽ. Thật vậy, tôi thật lo sợ khi nghĩ đến các đổ vỡ không sửa chữa được nếu như khẩu súng cối 65 ly của ông Tướng cục súc Bach-Zelewski được đem ra sử dụng. Chúng tôi cũng thỏa thuận làm lễ an táng chung cho các quân nhân Hung và Đức. Chính phủ Magyare đích thân đứng ra tổ chức với nghi lễ chính thức, như vậy vết tích sau cùng của một cuộc trả thù có thể xẩy ra chắc chắn đã được xóa sổ.
Buổi tối, một mệnh lệnh từ Tổng Hành Dinh của Fuhrer giao cho tôi nhiệm vụ đưa Nhiếp chính vương Hung-gia-lợi đến lâu đài Hirshberg tại Haute-Bavière. Đô đốc Horthy phải được coi là khách của Fuhrer nên được sử dụng chiếc xe hỏa đặc biệt dành riêng. Lẽ tất nhiên tôi phải chịu trách nhiệm về sự an toàn của ông ta trong suốt lộ trình. Đến đây là chấm dứt cuộc sống vương giả của chúng tôi.
Sáng hôm sau, Tướng Pleffer-Wildenbruch giới thiệu tôi một cách hết sức long trọng với Đô đốc Horthy. Sau vài phút nói chuyện mưa nắng, chúng tôi lên xe đến nhà ga. Các con đường vắng ngắt, những bộ hành hiếm hoi không thèm chú ý đến chúng tôi. Trước nhà ga, tuy vậy cũng có một đám đông tụ họp, nhưng chỉ có ít người trong số họ đưa tay phác một cử chỉ từ biệt sau cùng.
Thật là một cuộc ra đi buồn thảm đối với ông già mà trong bao năm qua cầm vận mạng của Hung-gia-lợi.
Logged
alonely0209
Thành viên
*
Bài viết: 86


« Trả lời #73 vào lúc: 09 Tháng Mười, 2010, 12:38:49 am »

Chương XX

Tổng phản công tại Ardennes

Ngày 20 tháng 10 năm 1944, tôi trở lại Tổng Hành Dinh của Fuhrer, hiện đang ở gần mặt trận kinh khủng bởi vì quân Nga đã vào thật sâu trong vùng Đông Phổ. Lần này Hitler chỉ tiếp có mình tôi. Như thường lệ, ông tỏ ra rất dễ thương; vả lại tôi có cảm giác ông có vẻ tươi hơn, khỏe hơn là trong lần gặp gỡ trước. Sau khi cho biết là ông đã ân thưởng cho tôi huy chương Thập Tự Vàng, ông yêu cầu tôi kể chi tiết cuộc bắt người con trai của Horthy và cuộc tấn công lên đồi Mont du Château. Khi chấm dứt báo cáo, tôi đứng dậy, tưởng rằng cuộc tiếp xúc đã chấm dứt, Fuhrer giữ tôi lại.
- Ở lại đó đã, Skorzeny. Tôi sắp giao nhiệm vụ mới cho anh đây - Có lẽ là nhiệm vụ quan trọng nhất đời anh. Cho đến nay, rất ít người được biết rằng chúng ta đang chuẩn bị trong vòng tối mật, một chiến dịch trong đó anh sẽ đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Trong tháng 12, quân lực Đức sẽ phát động cuộc Tổng phản công có tầm quan trọng quyết định vận mạng của xứ sở.
Và rồi thì Fuhrer trình bày với tôi thật lâu quan niệm chiến lượt của đợt Tổng phản công về phía Tây, mà các sử gia sau này gọi là cuộc “Tổng phản công tại Ardennes”(1) hay “the Battle of the Bulge” nói theo ngôn ngữ Anh Mỹ. Trong nhiều tháng qua Bộ Tổng Tư lệnh Đức đã rất vừa ý vì đẩy lui và cầm chân được quân địch. Đó là thời kỳ tình thế đổi thay liên tục, tại mặt trận phía Đông cũng như phía Tây, nhiều khu vực lần lượt rơi vào tay địch. Vả chăng, hệ thống tuyên truyền của Đồng minh đã coi Đức quốc như một thây ma mà việc chôn cất vĩnh viễn chỉ còn là vấn đề thời gian; căn cứ theo các diễn văn được các đài phát thanh Anh-Mỹ truyền đi, Đồng minh có thể chọn giờ để mai táng theo ý muốn.
-         Họ không thấy rằng Đức quốc chiến đấu là vì Âu châu, hy sinh vì Âu châu, để ngăn chặn Á châu tiến trên con đường đến phương Tây, - Hitler nhận định một cách chua chát.
Theo ông, dân Anh cũng như dân Mỹ đều không muốn tiếp tục chiến tranh nữa. Do đó, nếu “thây ma Đức quốc” đứng dậy và dáng một đòn nặng về phía Tây, thì dưới áp lực của công luận giận dữ cho rằng họ bị lừa phỉnh, Đồng minh sẽ phải chuẩn bị ký kết đình chiến với xác chết còn rất mạnh khỏe này. Lúc đó, chúng ta sẽ có thể tung tất cả các Sư đoàn, tất cả quân lực vào mặt trận Miền Đông và thanh toán trong vài tháng mối đe dọa khủng khiếp đang đè nặng trên Âu châu. Vả chăng, từ cả ngàn năm nay, Đức quốc đã chứng tỏ là kẻ chăn dắt bầy người ô hợp Á châu và không bao giờ Quốc gia này lại thất bại trong sứ mạng thiêng liêng đó.
Từ nhiều tuần qua, vài nhân vật của Bộ Tổng Tham mưu đã soạn thảo một kế hoạch Tổng phản công. Chúng tôi phải lấy lại thế chủ động mà địch quân nắm giữ bấy lâu nay. Ngay từ khi cuộc đổ bộ ở Normandie bắt đầu cho đến khi quân Đồng minh tiến tới biên thùy Quốc xã, Hitler đã suy nghĩ về một trận Tổng phản công mạnh mẽ. Tuy nhiên tình hình các đạo quân nguy kịch đến nỗi không thể nào thi hành được kế hoạch đó.
Vậy mà từ ba tuần nay, quân Đồng minh không tiến nữa. Một mặt, đường giao thông đã kéo dài quá xa, mặt khác, tiếp liệu cho đạo quân cơ giới đã cạn sạch sau bốn tháng chiến đấu không ngừng. Nhờ hai yếu tố đó, mặt trận phía Tây của chúng tôi có lúc tưởng đã tan vỡ, lại được ổn định.
Theo ý Fuhrer, sở dĩ Đồng minh thắng được tại Pháp và Bỉ, đó là nhờ ưu thế không quân. Nhưng có thể hy vọng rằng thời tiết xấu trong những tháng cuối năm sẽ làm giảm thiểu, dù là tạm thời, hoạt động của Không quân Anh Mỹ. Hơn nữa, không quân Đức sẽ có thể mang ra sử dụng 2000 phản lực cơ chiến đấu mới vẫn để dành riêng cho chiến dịch.
Sau cùng, một cuộc Tổng phản công chớp nhoáng sẽ ngăn không cho Pháp tổ chức quân lực mạnh. Hiện tại Đồng minh có 70 đại đơn vị, số này không đủ cho cả một mặt trận dài 700 cây số. Do đó, rất có thể tập trung quân Đức để chọc thủng một điểm phòng vệ yếu, trước khi Đồng minh kịp củng cố phòng tuyến bằng các Sư đoàn mới do Pháp thành lập.
-         Riêng phần chọn lựa địa điểm, - Fuhrer nói tiếp, - chúng tôi đã thảo luận mấy tuần liền. Có năm kế hoạch được đem ra bàn cãi: Tổng phản công tại Hòa-Lan khởi đầu từ vùng Venloo hướng về phía Tây, phía hải cảng Anvers; - Một cuộc Tổng phản công khởi đi từ phía bắc Lục-Xâm-Bảo, hướng về phía tây bắc trước rồi hướng về bắc, được hậu thuẫn bởi cánh quân khởi đi từ phía bắc Aix-la-Chapelle; - Một cuộc phản công bằng hai cánh: một từ trung tâm Lục-Xâm-Bảo, cánh kia từ Metz và hẹn gặp tại Longwy: song song với hành động đó, hai cánh quân khác khởi đi từ Metz và từ Baccarat, điểm tái ngộ là Nancy; - và sau cùng, chiến dịch “Alsace” với hai cánh quân, một tiến từ Epinal, cánh kia từ Montbéliard và sẽ gặp nhau tại Vesoul.
“Sau khi cân nhắc thật lâu ưu và khuyết điểm của mỗi kế hoạch, chúng tôi loại bỏ ba kế hoạch đầu. Chiến dịch “Hollande” có vẻ hay nhưng nhiều nguy hiểm quá. Sau cùng, chúng tôi đã quyết định lập kế hoạch phản công từ bắc Lục-Xâm-Bảo và được hậu thuẫn bởi cánh quân xuất phát từ Aix-la-Chapelle. Đấy cũng chính là vùng mà trong lần tấn công nước Pháp đầu tiên, hồi năm 1940, chúng ta đã chọc thủng được phòng tuyến địch.
“Phần anh và các đơn vị thuộc quyền, chúng tôi giao cho một trong những nhiệm vụ quan yếu nhất trong khung cảnh cuộc Tổng phản công. Trong vai trò đơn vị tiền đạo, anh phải chiếm một hay nhiều cây cầu trên sông Meuse giữa Liège và Namur. Anh sẽ thi hành nhiệm vụ nhờ mưu kế này: binh sĩ của anh sẽ mặc quân phục Anh-Mỹ. Nhờ mưu kế này địch đã cho ta nhiều vố nặng, trong các cuộc hành quân cảm tử. Ví dụ cách đây mấy hôm khi tiến chiếm Aix-la-Chapelle, một bộ phận quân Mỹ mặc quân phục Đức đã xâm nhập vào phòng tuyến của ta. Ngoài ra, những toán nhỏ được hóa trang như vậy, đằng sau phòng tuyến địch, có thể ra lệnh giả, phá rối hệ thống truyền tin, và nói tổng quát, có thể gieo rắc hỗn loạn trong hàng ngũ Đồng minh. Công cuộc chuẩn bị của anh phải hoàn tất trước ngày 1 tháng 12. Về phần chi tiết anh hãy đến gặp Đại Tướng Jodl.
“Tôi biết rằng thời hạn này quá ngắn, tuy nhiên tôi tin anh có thể làm chuyện thiên nan vạn nan. Lẽ tất nhiên, anh cũng sẽ ở ngoài tiền tuyến khi binh sĩ thuộc quyền bắt đầu hành động. Nhưng tôi cấm anh mạo hiểm đi qua phòng tuyến địch; chúng tôi không được phép để mất anh”.
Vài giờ sau, Đại Tướng Jodl tiếp tôi và nhờ một bản đồ, ông giải thích cho tôi vài chi tiết của chiến dịch. Cuộc tổng phản công sẽ bắt đầu từ vùng nằm giữa Aix-la-Chapelle và Lục-Xâm-Bảo, hướng về phía hải cảng Anvers và làm như vậy là cắt ngang đạo quân thứ hai của Anh và các thành phần quân đội Mỹ chiến đấu trong vùng Aix. Cùng lúc đó, Bộ Tổng Tư lệnh Tối cao dự liệu một tuyến che chở ở phía Nam (Lục-Xâm-Bảo – Namur-Louvain) và một tuyến ở phía Bắc (Eupen – Liege – Longeren – Hasselt cho đến kinh Albert).
Trong các điều kiện tối hảo, Anvers sẽ bị tái chiếm trong vòng 7 hôm. Mục tiêu tối hậu của chiến dịch là tiêu diệt lực lượng địch phía Bắc phòng tuyến Anvers – Bỉ, và trong vùng Bastogne.
Logged
alonely0209
Thành viên
*
Bài viết: 86


« Trả lời #74 vào lúc: 09 Tháng Mười, 2010, 12:39:21 am »

Toàn bộ các đơn vị tham dự cuộc Tổng phản công, mang danh hiệu Đạo quân B, được đặt dưới quyền Thống chế Model. Đạo quân gồm có quân đoàn 6 thiết kỵ (Tướng Waffen SS Dietrich), quân đoàn 5 Thiết kỵ (Tướng Von Manteuffel) và quân đoàn 7, được sắp xếp như vậy từ Bắc xuống Nam. Sau một đợt pháo kích dữ dội, nhưng ngắn thôi (tôi nghĩ đến 6.000 khẩu mà Fuhrer vừa nói với tôi) các cánh quân phải chọc thủng phòng tuyến địch tại nhiều điểm chọn lựa theo quan niệm chiến thuật.
-         Phần anh, Skorzeny, anh sẽ hành động trong khu vực trách nhiệm của Quân đoàn 6 Thiết kỵ. Đây là một bảng nghiên cứu có thể làm anh thích: nó trình bày tình hình sẽ diễn biến 24 giờ sau khi cuộc Tổng phản công bắt đầu.
Trên tấm bảng đồ mà Đại Tướng Jodl trải ra trước mặt, chúng tôi thấy Bộ Tổng Tư Lệnh Tối cao tin có thể tấn công, vào lúc đó, trên phòng tuyến Eupen-Verviers-Liege, và nghĩ rằng có thể thành công trong việc thiết lập ở trung tâm, hai đầu cầu bên kia bờ sông Meuse. Mặt khác, người ta đã tiên liệu các cuộc tấn công dữ dội, do các đơn vị trừ bị của Đồng minh, vào mạn sườn phía Bắc của hướng Tổng phản công của chúng tôi.
Trước khi cho tôi rút lui, Đại Tướng Jodl yêu cầu tôi trình ông trong thời hạn ngắn nhất bảng liệt kê nhân sự và vật liệu cần thiết. Ông cũng cho tôi biết là Bộ Tổng Tham mưu đã ra lệnh cho tất cả các đơn vị biệt phái cho tôi tất cả quân nhân nào biết nói tiếng Anh. Lệnh này về sau tượng trưng cho lầm lỗi điển hình của việc tiết lộ tin tức hành quân – một lầm lẫn do chính cơ cấu lãnh đạo tối cao của quân lực Đức phạm phải.
Vài ngày sau tôi nhận được bảng sao của mệnh lệnh này. Đọc xong mệnh lệnh, tôi đã thấy cuộc tấn công thất bại. Lệnh do một ông lớn ký, đóng dấu “mật” có nội dung tương tự như sau:
“Lệnh cho tất cả các đơn vị Lục quân: báo cáo chậm nhất là ngày… tháng 10 năm 1944, các sĩ quan và binh sĩ nói tiếng Anh, tình nguyện tham dự một sứ mạng đặc biệt… Lên đường đến Friedenthal, gần Bá-linh để gia nhập các đơn vị cảm tử của Trung tá Skorzeny”.
Tôi đùng đùng nổi giận. Các cơ quan tình báo Đồng minh đánh hơi được vụ này rồi, không còn chối cãi được nữa. Sau chiến tranh, tôi được biết rằng chưa đầy 8 ngày sau đó, người Mỹ đã có trong tay bảng văn mệnh lệnh đó. Tôi không hiểu tại sao họ không rút ra được kết luận nào và áp dụng các biện pháp đề phòng.
Theo ý tôi, kế hoạch hành quân đã bị chôn vùi trước khi thấy ánh mặt trời. Tôi gởi về Tổng Hành Dinh lời phản kháng mạnh mẽ và “lễ phép” xin hủy bỏ sứ mạng của tôi. Lẽ tất nhiên, đơn của tôi được chuyển theo hệ thống. Vì thế Tướng SS Fegelein, anh em bạn rể của Fuhrer đã trả lời tôi như thế này: Vụ đó thật khó tin và khó hiểu, nhưng đó lại là một lý do nữa để đừng nói gì với Fuhrer. Do đó việc hủy bỏ nhiệm vụ không thể được.
Cũng trong thời kỳ đó, tôi được dịp tiếp xúc thích thú với một sĩ quan tham mưu của Tướng Winter. Viên sĩ quan này đã trình bày với tôi khía cạnh pháp lý của công tác. Theo ông, các cảm tử quân sẽ bị bắt, khi bị bắt, đối xử như các gián điệp và chịu hậu quả nặng. Riêng đối với toàn thể đơn vị của tôi, luật quốc tế nghiêm cấm một quân nhân sử dụng vũ khí của mình trong khi trên người khoác bộ quân phục của địch. Ông ta khuyến cáo tôi như sau: binh sĩ của tôi sẽ mặc bên trong bộ quân phục địch, bộ đồng phục Đức. Đến khi bước qua giai đoạn tấn công thật sự, họ sẽ cởi bỏ quân phục Anh hoặc Mỹ. Tất nhiên là tôi nghe theo khuyến cáo này.
Logged
alonely0209
Thành viên
*
Bài viết: 86


« Trả lời #75 vào lúc: 09 Tháng Mười, 2010, 12:39:41 am »

Hiện tại, chúng tôi đã có thể bắt tay vào công cuộc chuẩn bị. Các đơn vị của tôi sẽ họp thành Lữ đoàn 150 Thiết kỵ. Căn bản kế hoạch của tôi rõ ràng là thời biểu do Bộ Tổng Tư Lệnh Tối cao ấn định cho toàn thể cuộc Tổng phản công. Theo thời biểu này, đạo quân của chúng tôi phải chọc thủng phòng tuyến địch ngay trong ngày đầu tiên. Ngày thứ hai, chúng tôi phải tới và vướt qua sông Meuse. Vậy chúng tôi có quyền ước tính rằng đến cuối ngày thứ nhất, các mảnh vụn của các lực lượng Đồng minh sẽ tháo chạy lui.
Trong giả định đó, chúng tôi biết rằng phải ứng biến để tự xoay trở lấy. Vì cuộc Tổng phản công được ấn định vào đầu tháng 12, chúng tôi chỉ còn có một tháng mấy ngày – Thời hạn rõ rệt không đủ để tổ chức và huấn luyện cả một đơn vị tân lập, nhất là đơn vị này lại được giao phó cho một sứ mạng đặc biệt. Đó gần như một chuyện không thể thực hiện được, chúng tôi ý thức rõ rệt điều đó. Nhưng vì Fuhrer đã lưu ý đến sự thiếu sót này, nên tôi cũng an tâm.
Để nắm vững tất cả những gì bất ngờ có thể xảy ra, chúng tôi ấn định ba mục tiêu chính yếu: các cây cầu bắt ngang sông Meuse tại Engis, Amay và Huy. Do đó chúng tôi sẽ cắt khu vực trách nhiệm của Quân đoàn VI Thiết kỵ ra thành ba dãy đất mỗi phần bắt đầu từ các cây cầu kể trên. Theo kế hoạch này, chúng tôi tổ chức ba đơn vị chiến đấu mang các danh hiệu nên thơ là X, Y và Z.
Trên nguyên tắc chúng tôi được xem là Lữ đoàn Thiết kỵ. Tuy nhiên sự chỉ danh đại ngôn này chỉ là một trò bịp. Chúng tôi đã sớm biết điều này. Ngay lúc thiết lập danh sách dụng cụ đầu tiên, chúng tôi được trả lời là không thể nào cung cấp các chiến xa bắt được của địch cho nguyên cả một Trung đoàn. Có lẽ người ta chỉ cung cấp cho chúng tôi một số chiến xa Anh, Mỹ đủ cho một Tiểu đoàn, và còn… Thật là một khởi điểm xấu!
Tuy nhiên, yêu cầu của chúng tôi rất khiêm nhường. Để tiết kiệm nhân lực, chúng tôi không tổ chức các cơ quan phụ, theo đó, Lữ đoàn của chúng tôi gồm có, theo đề nghị của tôi:
2 Đại đội thiết kỵ, mỗi đại đội 10 chiến xa.
3 Đại đội thám sát, mội đại đội có 10 thiết vận xa.
3 tiểu đoàn bộ binh cơ giới.
1 liên đội phòng không D.C.A. nhẹ.
2 liên đội “săn chiến xa”.
1 trung đội phóng lựu.
1 liên đội truyền tin.
1 bộ tham mưu, rất hạn chế, cho Lữ đoàn.
3 ban tham mưu, cũng rất hạn chế, cho 3 Tiểu đoàn.
1 đại đội chỉ huy.
Tổng quát, vào khoản 3.300 người.
Nhưng thêm vào đó, còn có các bảng liệt kê vô tận, liên quan đến vũ khí, đạn dược, xe cộ, quân phục, vật dụng trang bị. Chính chúng tôi cũng bắt đầu sợ hãi khi nghĩ đến việc phải có từng ấy thứ trong vòng có vài tuần. Bởi vì, từ chiến xa hạng nặng cho đến đồng phục, mọi thứ đều phát xuất từ chiến lợi phẩm bắt được của địch. Thế mà, kho dự trữ dụng cụ bắt được của Đồng minh hiện nay của chúng tôi, không quan trọng lắm. Trong những tháng gần đây, quân Đức chỉ có thối lưi, không tổ chức được cuộc tấn công quan trọng nào; cho nên chúng tôi không thể chiếm đoạt thêm một món nào cả.
Ngày 26 tháng 10 năm 1944, khi tôi trình lên Đại Tướng Jodl kế hoạch thành lập “Lữ đoàn thiết kỵ” của tôi cũng như bảng liệt kê nhu cầu vật liệu, một lần nữa được lưu ý là vì thiếu thì giờ, chúng tôi phải tự ứng biến. Ngoài ra, tôi nói với ông rằng theo ý tôi chiến dịch – mang tên chiến dịch Con Rồng – chỉ có thể thành công với điều kiện được phát động trong đêm kế sau khi cuộc Tổng phản công bắt đầu, nhờ đó chúng tôi có thể lợi dụng yếu tố bất ngờ và sự hỗn loạn trong hàng ngũ đối phương. Để được như vậy, các Sư đoàn của tuyến đầu phải đạt các mục tiêu ngay trong đêm đầu tiên, nghĩa là trong khu vực liên hệ đến chúng tôi, các sư đoàn ấy phải vượt qua đỉnh một ngọn núi có tên là Haut Venn. Nếu tình hình xảy ra khác đi, tôi bắt buộc phải từ chối sứ mạng giao phó. Hơn nữa tôi yêu cầu cung cấp các không ảnh về ba cây cầu mà các đơn vị tôi phải chiếm giữ.
Tôi nhận được sự chấp thuận thành lập Lữ đoàn một cách dễ dàng, cũng như Bộ Tổng Tư lệnh đã hứa hậu thuẫn hết mình cho tôi trong việc xin cung cấp vật liệu. Tôi liền lợi dụng ngay sự dễ dãi để yêu cầu bổ nhiệm ba Tiểu đoàn trưởng dày kinh nghiệm và sự biệt phái, ngoài số quân tình nguyện, các đơn vị thuần nhứt của Lục quân, các đơn vị này sẽ là khung sườn của Lữ đoàn được thành lập vội vã. Quả nhiên, người ta bổ nhiệm ba Trung Tá giàu khả năng, và ít lâu sau, hai Tiểu đoàn dù của Không quân, hai Đại đội thiết kỵ của Lục quân và một Đại đội truyền tin. Các toán quân này sẽ tăng cường cho hai Đại đội thuộc “đơn vị đặc biệt” và Tiểu đoàn dù của tôi.
Logged
alonely0209
Thành viên
*
Bài viết: 86


« Trả lời #76 vào lúc: 09 Tháng Mười, 2010, 12:40:00 am »

Chỉ còn lại vấn đề các quân nhân tình nguyện “biết nói tiếng Anh”. Tám ngày sau khi phổ biến – danh từ còn nhẹ quá – “mệnh lệnh mật” trứ danh, khi 100 quân nhân tình nguyện đầu tiên đến Friedenthal, tôi bị một cơn phiền muộn thật sự hành hạ. Tôi muốn đem bắn bỏ luôn cả đám. Nhiều giáo sư cố gắng phân họ ra làm ba loại. Loại thứ nhất gồm các quân nhân nói lưu loát, dùng giọng Anh hay giọng đặc biệt Mỹ, số quân nhân này tuyệt đối không tăng thêm chút nào. Trong khi tôi cần hàng trăm, chúng tôi chỉ thấy có một hai người xứng đáng được liệt vào loại này.
Vả chăng, phải thú nhận rằng chính tôi cũng đang còn yếu Anh văn. Tội nghiệp thay, tôi cứ lợi dụng các giờ học Anh ngữ để “quấy rầy” vị giáo sư đáng thương của chúng tôi! Nhưng tôi đang cố gắng bắt kịp thời gian bị mất và đôi khi đặt được một câu thật khá. Một hôm, tôi làm quen với một sĩ quan phi công tự cho là thuộc loại thứ nhất. Tôi bèn hỏi anh ta một cách tự nhiên:
- Give me your story about last your duty, please (2).
Cậu ta bối rối, ngập ngừng, và rồi nói đại:
- Yes, Herr Oberstleutnant, I “became” my last order “before” five month… (3) - lại do dự nữa, và rồi hấp tấp nói thêm bằng tiếng Đức: - Nếu Trung Tá cho phép, tôi sẽ trình bày chuyện đó bằng tiếng mẹ đẻ…
Thế đó! Và tôi phải bằng lòng chấp nhận vậy. Người ta không thể làm nhục một quân nhân tình nguyện có vẻ rất hăng say. Nhưng với thành tích như vậy, anh ta chắc chắn sẽ không lừa được một người Mỹ nào. Có hoạ là anh Mỹ này điếc!
Sau hai tuần, khi sự lựa chọn những người tình nguyện chấm dứt, chúng tôi đứng trước một kết quả đáng sợ: loại thứ nhất gồm tất cả là 12 người đa số là các cựu thuỷ thủ; loại hai, gồm những người nói khá trôi chảy, tổng cộng chừng 30, 40 người, phần lớn cũng là cựu thủy thủ. Loại thứ ba, chừng 150 người biết cách ứng phó bằng Anh ngữ. Loại thứ tư, các binh sĩ không hẳn đã quên hết các bài học ở trường - gồm chừng 200. Phần còn lại, chỉ biết nói độc có “Yes” và “No”. Thế cho nên tôi bắt buộc phải lập một Lữ đoàn câm điếc, vì sau khi bổ nhiệm 120 quân nhân trong số các “nhà ngôn ngữ” xuất sắc nhứt cho Đại đội chỉ huy, tôi chẳng còn ai nữa cả. Vậy thì chúng tôi sẽ tìm nhập vào các cánh quân Mỹ đang chém vè, cùng chạy trốn với họ, răng nghiến chặt, làm như tai hoạ rộng lớn đã khiến chúng tôi bị á khẩu. Để làm cho tình trạng thê thảm ấy khá hơn, chúng tôi gởi các quân nhân loại hai vào một trường thông dịch viên và đến một trại tù binh Mỹ. Tuy nhiên vì các khoá huấn luyện này chỉ kéo dài có tám ngày nên kết quả không đáng kể.
Đối với đa số quân nhân của đơn vị - những người không biết một tiếng Anh nào – chúng tôi chỉ nhét vào họ một vài tiếng chửi thề thông dụng của các chú G.I (lính Mỹ), cũng như ý nghĩa của vài tiếng “yes, no, O.K”. Ngoài ra chúng tôi lập đi lập lại với họ suốt ngày các ước hiệu chỉ huy chính yếu đang được sử dụng trong quân đội Mỹ. Và đấy là tất cả những gì chúng tôi làm được về phương diện ngôn ngữ để ngụy trang cả Lữ đoàn.
Nhưng tất cả các sự tệ hại đó cũng còn chưa thấm gì. Tình trạng trang bị cho đơn vị mới thật là tai hại vô cùng tận. Chúng tôi phải nhìn nhận ngay là chẳng bao giờ chúng tôi có đủ chiến xa kiểu Mỹ. Sau cùng, đến ngày dự liệu khởi sự tổng phản công, chúng tôi sung sướng nhận được hai chiến xa Sherman. Tôi xin nói lại: hai chiến xa mà một chiếc tuyên bố bỏ cuộc ngay sau khi chạy được vài cây số. Để thay vào chỗ chiến xa Mỹ bị thiếu, đơn vị thanh tra thiết kỵ cấp cho chúng tôi 12 chiếc Panther của Đức. Chúng tôi ra sức nguỵ trang chúng bằng cách lấy tôle bọc các khẩu súng và pháo tháp để ít ra là tạo được hình thù giống như chiếc Sherman. Kết quả không mấy khả quan, chiến xa của chúng tôi không lừa được ai ngoại trừ mấy chú tân binh - vả lại còn phải thêm điều kiện là cho xuất hiện từ xa, lúc hoàng hôn mới được.
Mặt khác chúng tôi nhận được mười xe bọc sắt của Anh và Mỹ. Chúng tôi moi óc tìm cách sử dụng kiểu xe của Anh, điều này thật nan giải, vì chúng tôi phải chiến đấu trong khu vực thuộc trách nhiệm của các đơn vị Mỹ. Sau cùng các chiến xa này không còn làm chúng tôi lo âu nữa, bởi vì, ngay trong các lần thực tập đầu tiên, chúng đã bị hư hỏng hoàn toàn không sửa chữa được. Chỉ còn lại bốn chiếc kiểu Mỹ và như vậy là chúng tôi phải bổ túc bằng cách sử dụng các xe bọc sắt của Đức.
Cơ quan tiếp liệu còn gởi cho chúng tôi chừng ba mươi chiếc Jeep. Nhưng mà tôi vẫn hy vọng các đơn vị bạn ở mặt trận Miền Tây có được một số đáng kể loại xe này. Khốn thay các sở hữu chủ loại xe thích hợp cho mọi thế đất đó lại tỏ ra khó khăn không muốn chia xẻ chúng cho chúng tôi. Do đó họ quyết định làm như không biết lệnh cung cấp các xe này cho đơn vị của tôi. Sau cùng, chúng tôi tự an ủi bằng cách hy vọng sẽ tự kiếm được vài chiếc ngoài mặt trận khi cuộc tổng phản công khởi sự. Chính niềm hy vọng mơ hồ và lừa phỉnh này đã ảnh hưởng đến Bộ Tổng Tư lệnh tối cao khi hoạch định cuộc Tổng phản công: Trên đó người ta tin rằng địch quân sẽ bị bắt buộc bỏ lại rất nhiều xăng. Lại một ảo tưởng nguy hiểm và thảm hại nữa!
Riêng phần xe chuyển vận, họ cấp cho chúng tôi mười lăm chiếc kiểu Mỹ và các xe Ford sản xuất tại Đức được sơn lại màu xanh. Còn vũ khí thì quá tệ hại. Chúng tôi có đúng 50% súng Mỹ cần thiết và vài khẩu súng chống chiến xa, tuy nhiên lại không có một viên đạn nào! Một hôm, chúng tôi nhận được nhiều toa xe chở đạn Mỹ, nhưng hôm sau đó, chúng lại bị nổ tung. Ngoại trừ Đại đội chỉ huy, tất cả các đơn vị khác của chúng tôi phải sử dụng vũ khí Đức.
Logged
alonely0209
Thành viên
*
Bài viết: 86


« Trả lời #77 vào lúc: 09 Tháng Mười, 2010, 12:40:19 am »

Nhưng điều cốt yếu là quân phục. Đó là điều kiện không có không được, vì nếu quân phục không đúng qui tắc sẽ lôi kéo lập tức sự chú ý của M.P. (quân cảnh) Mỹ. Một hôm, họ gửi cho chúng tôi một khối lượng quân phục khổng lồ để hàng đống lộn xộn - Khốn thay, đó lại là quân phục Anh. Tiếp theo đó, người ta lại chở đến cả một toa xe lửa toàn là loại áo mưa có nón trùm đầu – nhưng chúng lại mang hình tam giác, dấu hiệu của tù binh chiến tranh! Phần tôi, Tư Lệnh Lữ đoàn, người ta kiếm đâu ra được một chiếc áo pull-over Mỹ. Một chiếc pull-over thôi, ngoài ra không còn gì nữa. Sau cùng nhờ mưu mẹo, chúng tôi cũng lo cho binh sĩ ăn mặc thích hợp, nhất là Đại đội chỉ huy. Cái gì còn thiếu sẽ bổ túc sau, trong khi tiến quân, nhờ các kho quần áo mà lúc trốn chạy, địch quân phải để lại cho chúng tôi.
Trong khi phải vật lộn với các khó khăn kể trên, Trung Tá Hardieck đã bắt đầu lo huấn luyện binh sĩ. Để giữ bí mật, khu vực huấn luyện bị cấm lai vãng, chúng tôi còn cấm cả thư từ đi lại. Lẽ tất nhiên, những tin đồn khó tin nhất về mục tiêu của công cuộc chuẩn bị bí mật được loan truyền trong đơn vị. Các binh sĩ biết rằng tôi sẽ chỉ huy Lữ đoàn, nên họ chờ đợi một hoạt động đồng loại với việc giải cứu Mussolini. Tóm tắt, Trung Tá Hardieck không ngăn chặn được sự tò mò của mọi người, mặc dù ông đã cho áp dụng các biện pháp nghiêm khắc để cắt ngang các luồng dư luận điên rồ đó. Lập tức người ta bàn luận thật nhiều trong các doanh trại rằng ông ta lo sợ vì sự bí mật của chiến dịch. Ông ta đành phải báo cáo tình hình với tôi.
Trong văn phòng tại Friedenthal, tôi dựng tóc gáy khi biết các câu chuyện tưởng tượng mà binh sĩ của đơn vị đồn đãi. Dầu sao họ cũng không thiếu trí tưởng tượng! Một số cho rằng, do nguồn tin chắc chắn, Lữ đoàn sẽ đi ngang qua nước Pháp để giải phóng một đồn binh còn bị kẹt tại Brest. Các tác giả cho rằng sẽ có việc giải thoát những quân nhân Đức đang trấn giữ thị trấn Lorient. Họ đã thấy tận mắt kế hoạch giúp chúng tôi tiến vào pháo đài. Và còn có cả tá giả thuyết nữa. Điều này không làm trở ngại gì cho chúng tôi, nếu chúng tôi không sợ các tin đồn ấy thì phản gián địch cũng sẽ không thèm chú ý mấy đến công cuộc chuẩn bị của chúng tôi. Làm sao có thể dập tắt được cơn bịnh truyền nhiễm đấu láo được? Theo ý tôi, phương pháp đơn giản nhất lại hữu hiệu nhất: từ nay chúng tôi sẽ không cải chính bất cứ tin đồn nào nữa và thêm vào đó vừa giả vờ ngạc nhiên khi thấy binh sĩ thạo tin quá! Làm như vậy, chúng tôi hy vọng gieo được sự rối trí cho các cơ quan tình báo Đồng minh.
Cùng với thời gian trôi qua - thời gian trôi nhanh quá – chúng tôi đẩy mạnh công cuộc huấn luyện. Chúng tôi lập đi lập lại dưới nhiều hình thức chủ đề huấn luyện chính: Vùng đầu cầu. Trong một lãnh vực khác, chúng tôi cố làm cho binh sĩ từ bỏ tác phong quá cứng nhắc, kết quả của việc đào tạo quân nhân của Đức với các biện pháp kỷ luật quá đáng và vô ích. Cuối cùng, họ được tập quen cả việc nhai kẹo cao su và cách mở bao thuốc lá đặc biệt kiểu Mỹ.
Thật ra, đơn vị duy nhất của Lữ đoàn được nguỵ trang hoàn hảo nhất là đại đội chỉ huy. Do đó chúng tôi quyết định sẽ rất hà tiện người thuộc đại đội này. Vả lại chúng tôi cũng không thể chỉ thị trước cho họ các mục tiêu chính xác. Công cuộc huấn luyện được hướng theo chiều để cho binh sĩ quyền tự do rộng rãi trong khi hành động. Vì họ là các tiền sát viên  mặt trận, họ sẽ cung cấp các dịch vụ vô giá cho toàn thể Binh đoàn. Họ cũng phải góp phần tạo thêm sự hỗn loạn trong hàng ngũ địch bằng cách loan truyền các tin tức giả, phóng đại kết quả đầu tiên của các Sư đoàn Đức, thay đổi các bảng chỉ đường, ra các mệnh lệnh tưởng tượng, cắt đường dây điện thoại, và phá huỷ các kho dự trữ đạn dược.
Một hôm, tôi đến thanh tra đơn vị, một sĩ quan của đại đội chỉ huy xin gặp riêng tôi. Hết sức long trọng, anh ta nói với tôi:
- Thưa Đại Tá, bây giờ em biết mục tiêu của chiến dịch mà chúng ta đang chuẩn bị rồi.
Trong thoáng chốc, tôi lộ vẻ bối rối. Phải chăng Foelkersam hay Hardieck - những người duy nhất hiểu nhiệm vụ bí mật – đã vô tình tiết lộ bí mật của chiến dịch rồi? Nhưng rõ ràng là rất bằng lòng về những lời nói giáo đầu của mình, viên sĩ quan thì thầm tiếp:
- Lữ đoàn sẽ đến thẳng Ba-lê để bắt Bộ Tham Mưu Đồng minh.
Thật quá sá! Tôi phải kiềm chế để khỏi cười phá lên. Tôi chỉ phát biểu mấy tiếng: hừm… hừm… không có gì biểu đồng tình lắm.
Nhưng như thế cũng đủ để kéo dài thêm niềm phấn khởi của anh ta:
- Vì biết rõ Ba-lê như túi áo, xin Đại tá cho phép em được hợp tác.
Tất nhiên là tôi im lặng.
Khi tôi hỏi anh ta đề nghị gì, anh ta trình bày với tôi cả một kế hoạch chi tiết. Một toán tù binh giả được bao bọc bởi các quân nhân nói tiếng Anh giỏi sẽ đi thẳng đến Ba-lê. Ngay cả các chiến xa Đức cũng có thể tham dự cuộc hành trình như là chiến lợi phẩm đem về trình Tổng Hành Dinh Đồng Minh.
Tôi ngăn dòng suối chữ do anh ta tuôn ra, một cách khó nhọc. Sau cùng, tôi cho anh ta lui và bảo ráng nghiên cứu kế hoạch thật chi tiết rồi đến gặp tôi sau… và nhất là phải im lặng. Sau đó tôi biết là anh ta không để tâm đến điểm lưu ý sau cùng. Trong nhiều tuần lễ liền, phản gián địch đã canh chừng quán café de la Paix, mà tôi có đề cập đến trong câu chuyện với anh ta.
Logged
alonely0209
Thành viên
*
Bài viết: 86


« Trả lời #78 vào lúc: 09 Tháng Mười, 2010, 12:40:38 am »

Vào khoảng giữa tháng 11, Bộ Tổng Tư Lệnh dời ngày khởi sự Tổng phản công, thay vì ngày 1 tháng 12, nay được định là ngày 10, rồi ngày 16 tháng 12. Công việc sắp xếp các đơn vị chưa hoàn tất, trang cụ còn thiếu sót. Việc dời ngày liên tiếp đó cho thấy rằng chính lực lượng nhân sự và phương tiện trừ bị sau cùng được tung ra trong đợt Tổng phản công này.
Điều này cũng đã gây tranh luận hàng ngày tại Tổng Hành Dinh của Fuhrer, tôi được gọi tham dự ba lần vào các cuộc bàn cãi đó. Mỗi lần, tôi đều nghe Sư đoàn này thiếu chiến xa, Sư đoàn kia thiếu súng, thiếu xe vận tải. Tôi được biết rằng Tướng Guderian Tư lệnh mặt trận Miền Đông (4) từ chối từng chiếc chiến xa, từng Tiểu đoàn mà người ta muốn rút để tăng cường cho mặt trận Miền Tây. Tổng quát khả năng hiện tại của chúng tôi cũng tương tự như một tấm “ra” quá nhỏ đối với chiếc giường quá lớn. Khi muốn che đằng chân, nghĩa là Miền Tây, bắt buộc phải để hở đằng đầu, nghĩa là Miền Đông.
Một hôm, phúc trình của Không quân cho thấy rằng ngay cả sự can đảm vô bờ của phi công Đức cũng không thể nào bù trừ được với ưu thế về số lượng của Đồng minh. Đột nhiên, tôi nghe kể một con số: “250 phản lực cơ sẽ tham dự cuộc Tổng phản công tại Ardennes”. Tôi không tin ở tai mình nữa. Đấy có phải là tất cả những gì còn lại của số 2.000 phản lực cơ mà Fuhrer đã nói với tôi hôm 22 tháng 10 không? Nhưng Hitler hình như cũng chẳng thèm nghe nữa. Rõ ràng là ông đã từ khước sự thất bại của Không lực.
Cuối cuộc bàn cãi, Fuhrer nhắc tôi một lần nữa lệnh cấm tôi đi qua phòng tuyến địch. Tôi phải chấp nhận điều binh bằng radio vậy. Lệnh cấm này, được ban hành bằng giọng nghiêm khắc, làm cho tôi hết sức khổ tâm vì tôi hy vọng rằng Fuhrer không còn nghĩ tới nó nữa. Liệu tôi có bị lên án là đã ở lại phía sau, trong khi các bằng hữu xông pha trong trận chiến tuyệt vọng không? Đó là lần đầu tiên có chuyện như vậy! Tôi quyết định sẽ cho các Tiểu đoàn trưởng biết lệnh này - một công việc không lấy gì làm thoải mái cho tôi – và thêm rằng tôi sẽ đến với họ khi tình hình nguy cấp. Dầu sao, tôi cũng không chịu ngồi bó chân trong văn phòng Bộ Tham mưu, tôi sẽ tìm đến một chỗ nào đó gần tiền tuyến.
Hình như cho đến nay, công cuộc chuẩn bị của chúng tôi thoát khỏi sự rình rập của Đồng Minh. Phòng tuyến địch vẫn êm lặng và không có thêm lực lượng tăng cường nào. Quân Mỹ dường như chờ đợi một thời gian nghỉ ngơi dài. Tôi tin rằng họ sẽ không được hưởng thụ lâu nữa.
Logged
alonely0209
Thành viên
*
Bài viết: 86


« Trả lời #79 vào lúc: 09 Tháng Mười, 2010, 12:40:59 am »

Trong các đêm 13, 14 tháng 12, chúng tôi sẵn sàng vào vị trí khởi hành. Ngày 14, tôi chính thức nắm quyền chỉ huy Lữ đoàn thiết kỵ. Trong một căn nhà gỗ của người giữ rừng, tôi ra các chỉ thị cuối cùng cho các Tiểu đoàn trưởng. Trước hết phải giữ liên lạc thường xuyên. Sau đó, tôi nhấn mạnh phải tránh nổ súng bằng mọi giá. Một tiếng súng nổ có thể làm hỏng cả chiến dịch, các đơn vị phải tiến, tiến mãi và đừng để bất cứ chuyện gì ảnh hưởng đến. Phải xem tận chỗ để biết phải chiếm các cây cầu bằng cách nào. Trong tất cả mọi trường hợp, không được tham dự vào một trận đánh thật sự vì lực lượng yếu quá. Vả chăng kế hoạch chỉ có thể thành công với hai điều kiện: phòng tuyến địch phải tan vỡ, và đơn vị phải đi sâu vào phòng tuyến địch ngay trong ngày đầu tiền.
Trong đêm 15 rạng ngày 16 tháng 12, không ai chợp mắt được. Chúng tôi chờ lên đường vài giờ sau khi cuộc Tổng phản công bắt đầu. Ba bộ phận truyền tin của tôi được đặt ở ven rừng. Chúng tôi chuyển các mệnh lệnh đầu tiên của tôi cho ba Tiểu đoàn chiến đấu: các Tiểu đoàn phải bố trí sau đơn vị thiết kỵ. Họ phải chờ lệnh tôi để mặc quân phục, ngụy trang vào và tiến theo các chỗ hở của phòng tuyến địch. Hiện tại, tất cả chúng tôi đều chờ đợi trong một trạng thái tinh thần căng thẳng tột độ. Rất chậm, thật chậm, bình minh ngày 16 tháng 12 năm 1944 ló dạng.
Đồng loạt, hàng ngàn đại bác nổ vang, phóng một màn lưới đạn vào vị trí địch. Lập tức dàn đại pháo tiến lên, tầm bắn nới rộng dần, pháo binh của Đức đã khởi sự tấn công. Không thể ngồi tại chỗ, tôi tìm đến Bộ Tham mưu Quân đoàn.
Đến 7 giờ sáng, các báo cáo đầu tiên được gởi về. Không có gì sáng sủa lắm, nhưng ngày còn dài. Hỏa lực pháo binh cực mạnh của Đức, hình như không làm các đơn vị Mỹ gần Loosheim nao núng. Địch quân chống trả với sự táo bạo không ngờ, cuộc tấn công của chúng tôi dậm chân tại chỗ. Chúng tôi chờ đợi, răng nghiến chặt. Đến trưa, báo cáo cho biết đã đụng độ ác liệt, chiếm được vài phần đất – nhưng chắc chắn đó không phải là chọc thủng phòng tuyến như dự trù.
Tôi tự hỏi tại sao Bộ Tư lệnh chưa tung chiến xa ra. Chúng đã tiến được vài cây số - đúng phần đất vừa chiếm được – và hiện tại chúng tạo thành tuyến hỏa lực của pháo binh. Các đơn vị chiến đấu của tôi vẫn ở sau các đơn vị chiến xa.
Một lát sau, radio báo cáo cho tôi cái chết của Trung tá Hardieck. Đại úy Foelkersam lên nắm quyền chỉ huy Tiểu đoàn.
Ngày 16 trôi qua và Quân đoàn 6 thiết kỵ chưa thu đạt được kết quả quyết định. Ngay từ đầu buổi chiều, ai cũng biết là phải gọi chiến xa, nếu vẫn còn muốn chọc thủng phòng tuyến địch. Để có thể có một cái nhìn tổng quát, tôi thử lái xe đến tận Loosheim. Trên đường đủ mọi loại xe tạo thành cảnh kẹt cứng. Để tới được thành phố nhỏ bé kia, tôi phải xuống xe không ngừng la hét, chửi thề, ra lệnh cho tài xế các xe vận tải làm kẹt đường và như vậy là tôi đã đi bộ 10 cây số. Tại Loosheim, người ta có thể nghe rất rõ tiếng súng. Trong các cánh rừng bao quanh thành phố, quân dù ra mặt trận từ sáng đang khó nhọc tiến lên, xế về phía Nam, tình hình có vẻ khá hơn.
Tại Loosheim tôi gặp một bộ phận thuộc Đại đội chỉ huy của tôi, nghĩa là đơn vị mà tôi giữ lại để đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp. Tức khắc tôi phải lấy một quyết định cực kỳ quan trọng: rõ ràng là các đơn vị của tôi hôm nay không đến được các mục tiêu phải chiếm nội trong ngày đầu. Theo lý mà nói, tôi phải hủy bỏ “chiến dịch con Rồng” – chiến dịch do tôi trách nhiệm thực hiện, và được soạn thảo công phu biết bao! Tuy nhiên tôi không phải là người bỏ cuộc dễ dàng. Vả chăng tôi vẫn còn một hy vọng nếu các chiến xa tấn công đêm nay, cuộc Tổng phản công vẫn còn có thể thành công. Vậy tôi sẽ đợi 24 giờ nữa. Nếu ngày mai chúng tôi vượt qua được đỉnh núi Haut Venn, quân lực chúng tôi có hy vọng đến được sông Meuse, lúc đó việc chiếm giữ trước các cây cầu bởi các đơn vị thuộc Lữ đoàn của tôi, sẽ quyết định số phận của trận chiến.
Với những quân nhân hăng say nhất của Đại đội chỉ huy, tôi tổ chức ba toán phụ trách gây rối loạn sau hậu tuyến địch. Tôi ra lệnh cho họ tìm cách xâm nhập vào sau phòng tuyến địch xa về phía Nam, để cố sức thi hành các nhiệm vụ phức tạp được giao phó. Tôi yêu cầu họ đặc biệt nhắm khai thác ba con đường mà ba Tiểu đoàn chiến đấu bạn sẽ đi qua nếu tình hình diễn tiến tốt đẹp.
Sau đó tôi trở lại Bộ Tư lệnh Quân đoàn. Vào nửa đêm, chiến xa khởi sự tấn công. Những tin tức đầu tiên về cuộc tiến quân của chiến xa đến với chúng tôi có lẽ vào lúc hừng đông. Sau 36 giờ không nghỉ ngơi, tôi hoàn toàn mệt mỏi, tôi nằm dài trên một tấm đệm và đắm chìm tức khắc vào một giấc ngủ mê mệt.
Ít lâu sau tôi được đánh thức và được báo cho biết toán quân thứ nhất đã trở lại. Các tin tức được mang về chắc sẽ làm Bộ Tổng Tư lệnh hài lòng. Đến 5 giờ sáng, Bộ Tham mưu nhận được điện văn đầu tiên của Đơn vị chiến xa: “vừa chiếm được làng Honsfeld, địch quân chống trả mạnh mẽ”. Có thể là cuộc Tổng phản công tiến triển được, chúng tôi nghĩ thầm. Ngay sau đó, đơn vị chiến xa xung trận ở phía Nam cũng loan báo tiến chiếm được đất đai đáng kể.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM