Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 05:27:55 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đông Dương hấp hối  (Đọc 67740 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #60 vào lúc: 14 Tháng Mười, 2010, 07:00:12 pm »


Lộ trình thành lập binh đoàn cơ động này được dự kiến như sau:

- Đợt đầu tiên phải sẵn sàng được sử dụng vào ngày 1 tháng 4 năm 1954: bốn đơn vị cấp sư đoàn - 18 binh đội cơ động (trong đó có 6 binh đội cơ động Việt Nam) và binh đội không vận.

- Đợt thứ hai được dự kiến hình thành vào 1 tháng 9 năm 1954: một đơn vị không vận cấp sư đoàn - ba binh đội cơ động Việt Nam và một binh đội không vận Việt Nam.

- Đợt thứ ba được dự kiến sẵn sàng vào sáu tháng đầu năm 1955: 2 lực lượng cấp sư đoàn Việt Nam và ba binh đội cơ động Việt Nam.

Đợt đầu tiên đã được tiến hành đúng theo thời gian được dự tính, nhưng từ đầu năm 1954, khó khăn nghiêm trọng bắt đầu xuất hiện, do sự chậm lại của việc thành lập các đơn vị và việc huấn luyện các đơn vị Việt Nam dùng để thay thế các đơn vị được chuyển vào binh đoàn cơ động.

Vào cuối tháng hai những khó khăn này càng trở nên nghiêm trọng, do việc ngưng việc tuyển mộ binh lính tiếp theo sau thông báo việc nhóm họp hội nghị Genève.

Được hình thành bằng các đơn vị tổ chức theo lối cổ điển, được trang bị bằng các loại vũ khí nặng và thường là không phù hợp, các lực lượng của ta thiếu hẳn tính linh hoạt và sự cơ động.

Muốn tạo cho các lực lượng này có được những tính năng nói trên là một công việc lâu dài. Phải có trang thiết bị mới, nhưng thường là chuyện này không thể làm được, phải tổ chức lại hoàn toàn các đơn vị, thậm chí thay đổi cách huấn luyện cùng tinh thần của các khung chỉ huy và quân lính. Việc này chỉ có thể thực hiện khi tình hình quân sự được ổn định trong vòng ít nhất vài tháng. Một số giải pháp cục bộ được dự kiến trong thời gian trước mắt. Chúng được nghiên cứu kỹ và thực hiện ngay khi có thể.

Tỷ lệ các lực lượng bộ binh bên trong Binh đoàn Tác chiến được tăng thêm so với những gì tướng Salan trù hoạch.

Đã có những yêu cầu Paris và Washington tăng cường số lượng súng liên thanh nhẹ trong các tiểu đoàn bộ binh. Những yêu cầu này vẫn chưa được đáp ứng khi tôi rời nhiệm vụ.

Phải lập ra những căn cứ huấn luyện để các đơn vị có thể luân phiên nhau đến đấy tập luyện thích ứng với loại chiến tranh mà chúng ta tiến hành. Cuối cùng, một “Bộ Chỉ huy biệt động” đã hình thành và được giao nhiệm vụ thành lập một số lượng quan trọng các đơn vị nhẹ, được huấn luyện kỹ và trang bị tốt, để thi thành những nhiệm vụ mà các lực lượng cổ điển không thể làm được. Việc này cũng không thể nào làm trong ngày một ngày hai1.
_____________________________________
1. Các đơn vị biệt động - trong đó có một số rất thiện chiến - đã có mặt tại Đông Dương từ lâu, nhưng việc sử dụng họ gần như được giao hoàn toàn cho các tư lệnh vùng lãnh thổ. Khả năng của họ không đồng đều (hầu hết chỉ mang tên biệt động trên danh nghĩa thôi), và không có một học thuyết quân sự để sử dụng loại binh chủng này trên chiến trường Đông Dương.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #61 vào lúc: 14 Tháng Mười, 2010, 07:00:53 pm »


***

Như thế là, dù không có một yêu cầu nào về đường lối chính trị mà tôi cho là tối cần thiết được đáp ứng, và cho dù các yêu cầu về quân sự được đáp ứng một cách hết sức hạn chế, các lực lượng của chúng ta được tổ chức lại và một Binh đoàn Tác chiến quan trọng đã được thành lập. Từ 6 binh đội cơ động, 8 tiểu đoàn nhảy dù khi tôi mới đến nhận nhiệm vụ, binh đoàn cơ động đã có được 18 binh đội cơ động, 10 tiểu đoàn nhảy dù vào thời điểm 1 tháng 4 năm 1954.

Nhưng những đơn vị mới, vào thời điểm đó vẫn chưa có khả năng chiến đấu tốt1, nhất là viễn cảnh về sau thì thật là đen tối.

Ngay từ đầu năm 1954, tôi nhận thấy - và tôi đã báo động với Chính phủ rằng việc chậm trễ hình thành quân đội Việt Nam và không cung ứng đầy đủ các lực lượng chi viện từ Chính quốc, sẽ tạo ra rất nhiều khó khăn trong giai đoạn hai của việc thành lập Binh đoàn Tác chiến.

Sự tiên liệu này còn trầm trọng hơn do việc ngưng tuyển mộ binh lính, việc đào ngũ hàng loạt trong quân đội Việt Nam, cũng như do sự thiệt hại phải chịu đựng nặng nề hơn những năm trước sẩy ra bởi sự lan rộng, kéo dài và tính khốc liệt của các trận đánh - mà những thiệt hại của lực lượng đồn trú tại Điện Biên Phủ là một thí dụ điển hình.

Cho dù chúng ta không bị thất bại lớn trong thời kỳ đỉnh cao sự nguy hiểm của chiến dịch Đông Xuân năm 1953-1954, chúng ta vẫn không có đủ phương tiện cần thiết vào thời điểm mùa thu năm 1954 để tiến hành tấn công theo kế hoạch của tôi.

Dù thế nào đi nữa, do những kết quả kể trên, Chính phủ buộc phải đi đến một quyết định có tính chất rất nghiêm trọng trong mùa hè năm 1954: hoặc là kết thúc cuộc chiến bằng một giải pháp chính trị, cho dù kết quả không tốt chút nào; hoặc là yêu cầu nước Pháp để bù lại sự thiếu trách nhiệm của phía Chính phủ Việt Nam cùng những sự thiệt hại, cần có một nỗ lực mới, trên thực tế chúng ta không có khả năng sẵn sàng về trang thiết bị và tinh thần; hoặc đưa cuộc chiến vào con đường quốc tế hóa.
_____________________________________
1. 6 binh đội cơ động và 2 tiểu đoàn nhảy dù vẫn chưa thích ứng được với những cuộc hành quân khó khăn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #62 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2010, 09:37:45 pm »


CHƯƠNG VI
CÁC CUỘC HÀNH QUÂN TRUỚC CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ


Tại chương III, tôi có nói đến việc dự kiến một chiến lược hành quân có tính cách phòng thủ phía bắc vĩ tuyến thứ 18 và tiến công ở phía nam cho chiến dịch năm 1953-1954.

Để thực hiện việc này, một số giai đoạn được dự kiến.

Trong thời gian đầu kéo dài từ mùa hè đến đầu mùa thu năm 1953, là các hoạt động nhằm mục đích vừa tạo cho các đơn vị chúng ta có được một sự cơ động chiến thuật, vượt trội hơn đối phương; vừa đảm bảo vững chắc cho việc tiến hành công tác bình định ở những vùng chúng ta kiểm soát được tạo điều kiện thuận lợi để giành chiến thắng ở một số mặt trận phụ. Kế hoạch dự kiến các hoạt động tảo thanh trong vùng đồng bằng, miền Trung và Nam Việt Nam, cũng như những cuộc hành quân địa phương tại xứ Thái và Lào, uy hiếp địch từ phía sau lưng, tạo sự thông thoáng cho vùng Luang Prabang, cánh đồng Chum.

Trong giai đoạn thứ hai, kéo dài suốt mùa khô năm 1953-1954, là tổ chức những cuộc hành quân quan trọng. Một số nhằm mục đích đối phó những cuộc tiến công của quân địch dự kiến sẽ triển khai từ tháng 10 hoặc tháng 11; một số khác nhằm chiếm đóng các vùng lãnh thổ của Việt Minh ở phía nam đèo Ngang. Giai đoạn này phải được thực hiện thông qua hai bước.

Bước đầu tiên (Thu - Đông 1953-1954), chúng ta phải:

- Một mặt, tập họp tại Bắc Bộ, bắt đầu từ giữa tháng 9 một số những sự chuyển quân nhằm mục đích đối phó với cuộc tiến công của đối phương, mà theo những sự biểu hiện của Việt Minh sẽ được tiến hành hoặc trong vùng châu thổ hoặc ở bên ngoài;

- Mặt khác, ta phải cảnh giác ở vùng Trung Bộ Đông Dương, đặc biệt là các hoạt động của Việt Minh từ Liên khu V nhắm vào vùng Tây Nguyên, về phía sông Mêkông (Hạ Lào và Campuchia).

Bước thứ hai (Xuân - Hè 1954), ta dự kiến sẽ nỗ lực tiêu diệt các lực lượng của Việt Minh ở phía nam vĩ tuyến 18, do điều kiện của khí hậu các cuộc hành quân có thể kéo dài đến tháng 9.

Những nỗ lực đặc biệt phải chú ý đến:

- Đánh chiếm vùng Liên khu V

- Chiếm đóng vùng bên kia sông Bassac (Nam Bộ)

- Bình định hoàn toàn vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam.

Trên đây là kế hoạch chung. Chương này sẽ thuật lại diễn biến của nó cho đến khi chiến dịch Điện Biên Phủ nổ ra.

Các cuộc hành quân sẽ được trình bày theo yêu cầu đặt chúng vào khung cảnh của chiến dịch Điện Biên Phủ để làm rõ thêm những nguyên do phải chấp nhận chiến này, và cũng để làm sáng tỏ thêm những điều kiện tổng thể mà chiến dịch này đã diễn ra.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #63 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2010, 09:42:44 pm »


CÁC CUỘC HÀNH QUÂN MÙA HÈ NĂM 1953

Ngay từ tháng 6, nhưng cuộc hành quân tiến công có tính địa phương được phát động trên toàn lãnh thổ Đông Dương. Chúng được tiến hành với những đơn vị cơ động sẽ rút đi sau khi đã tái lập được sự ổn định của các lực lượng chúng ta bị xáo trộn vì chiến dịch 1952-1953.

Trong vùng châu thổ, mục đích chính của các cuộc hành quân này là:

- Ổn định vùng Bùi Chu, một vùng ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ, đã quyết định chuyển cho nhà cầm quyền Việt Nam. Để làm việc này, trước hết phải giải phóng nó khỏi tay những đơn vị chính quy và địa phương của Việt Minh.

- Giải tỏa vùng Hải Phòng bằng cách tiêu diệt tổng thể những căn cứ địa đối phương nằm trong các vùng lận cận.

- Hành quân tảo thanh vùng phía tây.

Tại miền Trung, tiến chiếm “Phố không vui”, một vùng địch ngay trong lòng lãnh thổ chúng ta giáp phía bắc thành phố Huế, và mở rộng vùng lãnh thổ của ta chung quanh Phan Thiết.

Phía sau lưng Việt Minh trong vùng cao Bắc Bộ:

- Vào tháng 7, một đơn vị không vận thành công trong việc tiêu diệt các kho dự trữ của đối phương trong vùng Lạng Sơn. Cuộc hành quân này đã gây được một tiếng vang lớn đối với quân đội đối phương.

- Vào tháng 10, ta tiến hành một cuộc hành quân không vận rất dũng cảm vào Lào Cai với sự hỗ trợ của lực lượng du kích địa phương.

Song song với những hoạt động thuần túy quân sự, ta tiến hành chính sách thành lập các đơn vị du kích được tuyển từ những nhóm dân cư người Thái và nhất là người Mèo1. Đây là chính sách chỉ sau một thời gian ngắn đã gây ra sự lo lắng cho đối phương, qua đó chúng ta tái chiếm một số vùng lãnh thổ.

Hơn nữa, từ ngày 8 đến 13 tháng 8, chúng ta phải di tản bằng đường không căn cứ Nà Sản, một cứ điểm mà ta biết được từ các nguồn tin chắc chắn, sẽ bị đối phương tiến công vào cuối mùa hè. Cuộc hành quân di tản đã tiến hành một cách rất bất ngờ và thành công.

Tướng Cogny đã đặt yêu cầu với tôi về việc di tản khỏi Nà Sản, ngay sau khi ông nắm quyền chỉ huy ở Bắc Bộ. Việc di tản này tạo một yếu tố thuận lợi là: một mặt nó tước đi của Việt Minh một mục tiêu nhiều rủi ro cho chúng ta; nếu ta quyết giữ, nó sẽ tạo ra những gánh nặng quá sức chịu đựng của chúng ta trong những điều kiện lúc bấy giờ. Mặt khác, việc di tản này giúp cho chúng ta thu hồi được khoảng sáu tiểu đoàn dùng vào việc bảo vệ cứ điểm này. Tuy nhiên việc rút bỏ Nà Sản cũng tạo ra một điểm bất lợi rất nghiêm trọng. Nó mở ngỏ vùng Lai Châu và tạo điều kiện cho Việt Minh có một giao lộ, đi ngang Tuần Giáo, Điện Biên Phủ và thung lũng Nậm U dẫn đến Luang Prabang. Vì vậy, tướng Cogny đã nhấn mạnh rằng để bù lại việc này chúng ta phải chiếm giữ Điện Biên Phủ. Tôi đã chấp nhận quan điểm này.
_____________________________________
1. Là một dân tộc trên những vùng cao của xứ Thái, thô lỗ và hiếu chiến hơn người Thái.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #64 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2010, 10:42:56 pm »


Tại Thượng Lào, vào tháng 9 ta tiến hành việc tảo thanh tạo sự thông thoáng cho căn cứ đóng sâu trong vùng cánh đồng Chum, và mở một cuộc hành quân quan trọng để giải vây cho vùng Đông Bắc Luang Prabang cùng những thung lũng vùng Nậm U và Nậm Sương. Cuộc hành quân này nhằm mục đích chuẩn bị cho một hành động tiến chiếm Điện Biên Phủ sau này là một quyết định đã được nhất trí sau khi chúng ta rút khỏi Nà Sản1.

Tất cả các cuộc hành quân nói trên cùng với một loạt những cuộc hành quân nhỏ, giúp chúng ta có được những thuận lợi về mặt tinh thần rất quan trọng. Chúng tạo cho quân đội ta có được sự tự tin, khi rất nhiều các đơn vị bị xuống tinh thần; giúp cho lãnh đạo các Quốc gia Liên kết lấy lại tinh thần và tạo ra nhiều lo lắng cho Việt Minh.

Nhưng các kết quả đạt được dừng lại ở đây. Trong các công văn chính thức, trong các thư riêng gửi các nhân vật chính trị và quân sự cao cấp, trong các cuộc họp báo, trong các cuộc nói chuyện của tôi với các vị khách quan trọng Pháp và nước ngoài, tôi không ngừng khẳng định, với những lời lẽ hơi thô một chút, là “chúng ta chỉ mới ăn những món khai vị thôi, nhưng phần còn lại của bữa ăn chính trong trận chiến này thì chúng ta chưa đụng đến”.

Và bữa ăn chính đó ngày càng trở nên khó tiêu hơn. Tất cả những tin tức tình báo phù hợp với nhau trên thực tế cho thấy rằng Việt Minh đang chuẩn bị rất kỹ cho chiến dịch mùa đông với một tầm cỡ chưa bao giờ có. Binh đoàn Tác chiến của họ, cho dù bị thiệt hại nhẹ trong chiến dịch năm 1952-1953, vẫn hoàn toàn được rút ra khỏi các cuộc hành quân một cách chủ động, bắt đầu từ đầu tháng 7 được đưa về huấn luyện thật ráo riết. Tất cả những thông tin này dự báo cho biết là Binh đoàn sẽ sớm ra tay, một sự ra tay rất là khủng khiếp.

Không may là, kết quả tốt của những cuộc hành quân vào mùa hè, cho dù chúng ta đã có sự cẩn thận, vẫn bị báo chí thổi phồng quá đáng. Những sự thổi phồng đã tạo ra một cảm giác sảng khoái đáng lo ngại trong các giới chức Chính phủ. Ở paris, người ta đã kêu gọi tôi là “không nên tìm cách thắng cuộc chiến tranh”, chỉ chứng tỏ cho đối phương thấy họ không thể thắng được cuộc chiến thôi - và người ta đã dựa vào đấy mà từ chối cung cấp các phương tiện cho tôi. Thực tế cay đắng của mấy tháng sắp tới đã bị bỏ quên. Cuộc bừng tỉnh do đó càng vô cùng tồi tệ.
________________________________________
1. Một hành động được dự kiến vào tháng 12 hay tháng giêng, khi ta tập hợp đủ lực lượng ở Lào.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #65 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2010, 10:45:41 pm »


CUỘC CHIẾN MÙA THU NĂM 1953

Vào thời điểm khoảng 20 tháng 9, tình hình tổng quát có thể được tóm tắt như sau.

Vào cuối tháng 8 các lực lượng đối phương trải rộng khắp Bắc Bộ, giãn ra đôi chút chung quanh vùng đồng bằng và tập trung ở hai cụm chính. Một cụm gồm hai sư đoàn (308 và 312) và hai trung đoàn chính quy độc lập, được sự yểm trợ của sư đoàn nặng 351 trấn đóng ở mặt bắc. Cụm thứ hai gồm sư 316 (thiếu một trung đoàn), các sư 304 và 320 và một trung đoàn độc lập, được tập trung ở mặt Tây Nam.

Trong vùng châu thổ còn có sự tăng cường của các lực lượng dân quân và địa phương. Hai trung đoàn chính quy độc lập xâm nhập vào các nơi nào đó trong vùng sông Hồng, phía đông Hà Nội, trong khi ba trung đoàn khác di chuyển trong vùng Hưng Yên, Thái Bình và Bùi Chu.

Ngoài ra còn có sự hiện diện ba binh đoàn thứ yếu. Một binh đoàn (gồm trung đoàn độc lập 148 và một trung đoàn của sư đoàn 316) hoạt động trong vùng Thái Nguyên và vùng Bắc Lào chống lại các lực lượng biệt kích của chúng ta và duy trì một vòng vây uy hiếp căn cứ tiền tiêu Lai Châu của chúng ta. Binh đoàn thứ hai (sư 325) đang được hình thành trong vùng Vinh (Bắc Trung Bộ Việt Nam). Binh đoàn thứ ba bao gồm những lực lượng của Liên khu V.

Các nguồn tin đáng tin cậy cho thấy đối phương đang chuẩn bị một cuộc tiến công tổng lực vào vùng châu thổ qua hai giai đoạn. Trước hết, sư đoàn 320 xâm nhập vào trục Phủ Lý - Hưng Yên - Hải Dương. Vài tuần sau đó, là hai cuộc tiến công: một ở phía bắc, do hai sư 308 và 312 dẫn đầu với sự hỗ trợ của sư đoàn nặng, đánh vào trục Vĩnh Yên - Phúc Yên - Bắc Ninh; một ở phía nam với sư 304 và có thể là một phần của sư 316, vào vùng Phát Diệm và Bùi Chu. Mục đích là cô lập Hà Nội với Hải Phòng. Họ cũng dự kiến đánh chiếm các thành phố quan trọng trong vùng châu thổ.

Để đối phó với một cuộc tiến công như vậy, tướng Cogny, người chỉ huy mặt trận Bắc Bộ, mong muốn có được trong tay tất cả những lực lượng trù bị ở Đông Dương. Tuy nhiên ông cũng không che đậy ý muốn là sẽ rút về cố thủ bên trong vùng châu thổ, tránh mọi cuộc giao tranh với những đơn vị địch ở bên ngoài1.

Một sự uy hiếp rất nghiêm trọng đè nặng lên vùng châu thổ. Trong một công văn, tôi trình bày không che giấu với Chính phủ rằng: “Tận dụng thời gian khoảng bảy tháng trước khi mùa mưa đến, cùng với sự mệt mỏi về mặt tinh thần và thể chất của các đơn vị ta, Việt Minh có thể mong đợi đạt được những kết quả quan trọng và quyết định cho cuộc chiến”.

Để đối phó với sự uy hiếp này, nhiều biện pháp quan trọng được thực hiện.
___________________________________
1. Trong thư đề ngày 19 tháng 8.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #66 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2010, 10:48:36 pm »


Tất cả những lực lượng cơ động cần thiết đã được tập trung trong vùng châu thổ: một tập đoàn gồm 8 binh đội cơ động, hai binh đội thiết giáp, hai binh đội thủy bộ và những phương tiện tổng trù bị quan trọng đã được tập hợp giữa ngày 10 tháng 9 và 15 tháng 10.

Chúng ta mở nhiều cuộc hành quân lớn càn quét các căn cứ1 được các trung đoàn địch xây dựng khi xâm nhập vào đồng bằng, để chuẩn bị đón những đơn vị lớn hơn từ bên ngoài tiến vào. Đặc biệt là cuộc hành quân “Brochet” kéo dài từ ngày 20 tháng 9 đến 10 tháng 10 tại Thái Bình và Ninh Bình đã thành công trong việc phá hủy một phần những cứ điểm mà trung đoàn 42 - một trung đoàn năng nổ và nguy hiểm nhất trong các trung đoàn xâm nhập vào - đã tổ chức, cho dù không hoàn toàn loại ra khỏi vòng chiến trung đoàn này.

Cuối cùng và quan trọng nhất là cuộc hành quân lớn được chuẩn bị chống lại sư đoàn 320, nhằm mục đích loại sư đoàn này khỏi vòng chiến trước khi nó tiến vào vùng châu thổ, hoặc là ít nhất là phá huỷ những cứ điểm tiến công mà nó đã xây dựng được trong vùng Phủ Nho Quan.

Cuộc tiến công này, được đặt tên là cuộc “hành quân Mouette”, mở ra ngày 15 tháng 10, cùng ngày - theo những nguồn tin chắc chắn - với cuộc tiến công của Việt Minh. Nó tiếp nối với cuộc “hành quân nghi binh” 2, nhằm mục đích cầm chân sư 304 bằng một động tác giả đổ bộ vào vùng Thanh Hóa3. Vì không phối hợp chặt chẽ việc phòng thủ, nên đối phương phải chịu nhiều thiệt hại nặng nề vì hỏa lực của không quân và pháo binh của ta.

Sau hai mươi ngày cố gắng bất thành, sư đoàn 320, do bị loài khỏi vòng chiến khoảng 3000 người trong đó có hơn 1200 chết, từ bỏ các cuộc phản công và chúng ta đã làm chủ chiến trường. Những thông tin tình báo đáng tin cậy cho biết Bộ Chỉ huy Việt Minh đánh giá là bất cứ một cuộc tiến công nào trong thời gian hai tháng trước mắt là không phù hợp. Ta bẻ gãy được cuộc tiến công ngay ở bước chuẩn bị của nó. Chúng ta có được một chiến thắng không thể tranh cãi4.

Tuy vậy, các trận đánh cho thấy rất rõ sự cải thiện một cách đáng kể về khả năng chiến đấu của bộ binh Việt Minh. Đây là lo lắng rất lớn khi một ngày nào đó, chúng ta phải đối mặt không phải chỉ với một sư đoàn, mà là cả Binh đoàn Tác chiến của Việt Minh với quân số lớn hơn rất nhiều trong khi Binh đoàn của chúng ta có quân số kém hơn hẳn.
___________________________________
1. Các căn cứ này được xây dựng bằng những làng hoặc những cụm làng được gia cố, bên trong có kho chứa trang thiết bị, đạn được và lương thực đủ loại...
2. Đây là cách gọi một cuộc hành quân giả nhằm đánh lạc hướng địch quân.
3. Báo chí, do không được biết gì sự bí mật của cuộc hành quân này, đã kết luận là chúng ta không thành công trong cuộc tiến công ở vùng Thanh Hóa.
4. Việc rút quân về vùng châu thổ của những đơn vị đã tham dự vào cuộc hành quân “Mouette” là hoàn tất nhiệm vụ quy định, chứ không vì một cuộc thất bại như báo chí đã loan tải.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #67 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2010, 10:54:39 pm »


SỰ THAY ĐỔI KẾ HOẠCH CỦA VIỆT MINH

Bất ngờ, từ cuối tháng 10, một loạt các nguồn tin chúng ta nhận được cho thấy là Bộ Chỉ huy Việt Minh đã thay đổi hoàn toàn kế hoạch hành động của họ.

Cuộc tiến công vào vùng châu thổ đã - ít nhất là tạm thời bị huỷ và chúng tôi thấy có hai hướng hành động khác nhau; một hướng, có vẻ quan trọng hơn, là tiến về vùng Thượng du Bắc Bộ và Bắc Lào; hướng kia là đi về vùng trung tâm Đông Dương, khi có các dấu hiệu cho thấy các lực lượng của Liên khu V có những sự chuẩn bị để tiến công vào vùng Tây Nguyên.

Đâu là nguyên nhân của sự thay đổi nói trên?

Việc củng cố lực lượng của chúng ta trong vùng châu thổ và những thiệt hại ta tạo ra cho sư 320 là một trong những nguyên nhân rõ ràng, nhưng chưa đủ để giải thích được một cách hoàn toàn.

Cũng có nhiều khả năng Việt Minh đã chịu một áp lực nào đó của Trung Quốc, và thậm chí là của Liên Xô để chuyển các nỗ lực của họ vào vùng sông Cửu Long, hơn là nhắm vào vùng châu thổ Bắc Bộ. Việc thay đổi này phù hợp với hướng phát triển của Chủ nghĩa Cộng sản nhắm vào các nước Miến Điện và Ấn Độ thông qua các Quốc gia có sắc dân Thái (vùng Thượng du Bắc Bộ, Lào, Xiêm).

Nhưng nguyên nhân chính cho sự thay đổi kế hoạch của Việt Minh mang tính chính trị. Chìa khóa của sự thay đổi này là những lời tuyên bố của ông Hồ Chí Minh với tờ nhật báo Thụy Điển Expressen. Đây là những lời tuyên bố đã được suy nghĩ rất lâu, thể hiện quyết định của Việt Minh tìm kiếm một giải pháp nhanh chóng cho cuộc xung đột bằng đường lối chính trị.

Sự hiểu biết chính xác của ông về suy nghĩ của các giới chính trị và kế hoạch của ta (xem chương 4) khiến ông đi tới nhận định rằng một giải pháp chính trị có thể chấp nhận được và khả thi trong khoảng thời gian không lâu. Sở dĩ ông cho giải pháp chính trị là chấp nhận được vì ông lo sự phát triển Binh đoàn Tác chiến của ta và của các Quân đội Liên hiệp chỉ trong vài tháng sẽ làm mất đi ưu thế hiện tại của Việt Minh. Và khả thi vì ông đánh giá tinh thần của người Pháp đã bị bào mòn, cho phép ông hy vọng vào sự thành công của một giải pháp chính trị.

Chính vì vậy Bộ Chỉ huy Việt Minh có các kế hoạch hành quân hướng đến việc có thể tạo điều kiện thương thuyết một giải pháp chính trị. Cái họ cần là chiến thắng quân sự vang dội. Cái Bộ Chỉ huy nhắm đến là những mục tiêu chính trị, mà thành công của nó sẽ tạo ra một tiếng vang sâu sắc trong dư luận Pháp, và đặt chúng ta vào một tình thế rất khó xử, không những đối với các Quốc gia Liên kết, mà còn đối với Mỹ và thậm chí là Anh quốc. Từ đây trở đi việc tìm kiếm “lá bài quân sự” là cơ sở cho tất cả mọi quyết định của họ. Về điểm này, chúng ta có được những thông tin chắc chắn.

Để có được lá bài quân sự nói trên một cách thuận lợi nhất, đối phương rất khó có thể tìm kiếm nó bằng cách đánh thẳng vào vùng châu thổ, trừ khi phải chấp nhận ngay những thiệt hại khổng lồ cho một chiến thắng quyết định như chiếm được Hà Nội hoặc Hải Phòng. Ngược lại, việc này có thể thực hiện được bằng đánh chiếm những vùng rộng lớn thưa thớt mà chúng ta rất khó bảo vệ, như vùng Thượng du Bắc Bộ, nước Lào hay là những vùng núi cao.

Đặc biệt nước Lào là một mục tiêu lý tưởng. Trong ba Quốc gia Liên kết, nước Lào là nước trung thành với chúng ta nhất. Chúng ta vừa ký với nước Lào một thỏa hiệp, theo đó ta bắt buộc phải bảo vệ họ. Thế nhưng, Việt Minh đã biết rõ thông qua những sơ hở của báo chí - hoặc nếu không là thông qua những sự “rò rỉ” tin tức khác - về buổi trao đổi xung quanh việc bảo vệ nước Lào tại Ủy ban Quốc phòng ngày 24 tháng 7. Nội dung buổi trao đổi này cho thấy bảo vệ nước Lào là vấn đề gai góc nhất của chúng ta, và ta vẫn chưa tìm được cách giải quyết (xem chương 1). Chính vì vậy, Việt Minh đã chọn mục tiêu là nước Lào cho nỗ lực chiến tranh của họ. Nỗ lực này nhắm vào cả hai vùng Bắc Lào và Trung Lào.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #68 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2010, 10:58:18 pm »


Bằng cách chiếm vùng Bắc Lào và kinh đô Luang Prabang, Việt Minh sẽ gây ra cho chúng ta một thất bại lớn về mặt tinh thần mà ta rất khó có thể phục hồi lại được. Họ sẽ uy hiếp nước Xiêm và đưa vấn đề Đông Dương lên tầm cỡ quốc tế, một việc họ không làm được trong năm trước đó.

Khi chiếm đóng vùng Trung Lào, họ sẽ tạo điều kiện giúp các lực lượng của Liên khu V tiến công vào vùng Tây Nguyên, uy hiếp biên giới Campuchia và vùng Nam Bộ. Toàn bộ vùng Nam Đông Dương, một vùng mà việc phòng thủ đã trở nên rất yếu kể từ khi Bắc Bộ trở thành vùng tối quan trọng trong chiến lược của chúng ta, nay sẽ lâm vào tình trạng nguy hiểm.

Khi tiến hành những cuộc tiến công này, quân địch tìm cách giữ chân tối đa các lực lượng của chúng ta trong vùng châu thổ bằng các lực lượng địa phương và một lực lượng tối thiểu quân chính quy.

Trên đây là một sự phác thảo kế hoạch của Việt Minh - ta chỉ có thể nhận biết dần dần. Sách lược quân sự của Việt Minh bao giờ cũng được lồng vào sách lược chính trị. Sách lược chính trị này vừa nhắm vào dư luận Pháp, mà sự mong mỏi “kết thúc” cuộc chiến tranh sẽ được kích động bằng tất cả những phương tiện tuyên truyền và xúi giục phản bội họ có thể có được, vừa nhắm vào dư luận Việt Nam, cũng sẽ bị giao động và mất tin tưởng vào chúng ta vì nghi ngờ ta muốn từ bỏ cuộc chiến.

Chính vì không khí chính trị chưa bao giờ bị huỷ hoại nặng nề như thế, nên Việt Minh sẽ tiến hành những cuộc hành quân quân sự.

Đứng về mặt chiến lược, nếu sự thay đổi kế hoạch của Việt Minh đã loại bỏ nguy cơ cuộc tiến công vào vùng châu thổ, thì nó cũng đặt ra cho chúng ta một vấn đề không kém phần cam go.

Chúng ta phải đối phó với hai hướng hoạt động khác nhau. Một xuất phát từ vùng Phú Thọ, Yên Bái, Thái Nguyên, trước hết hướng về vùng Lai Châu và Điện Biên Phủ, trước khi tiến vào vùng Thượng Lào. Một xuất phát từ vùng Vinh, tiến về phía nam và Tây Nam, để tiến về hoặc là phía đông hay là phía tây của dãy Trường Sơn, để giáp công một hướng hoạt động khác xuất phát từ Liên khu V.

Để đối phó với những hoạt động của Việt Minh, chúng ta có thể sử dụng hai giải pháp - nếu một chiến lược có đủ phương tiện sẽ tiến hành cả hai cùng một lúc.

Giải pháp đầu tiên - là sự phòng thủ trực tiếp - bao gồm việc chặn đánh tại tất cả các hướng đang bị uy hiếp bằng các lực lượng đủ để ngăn chặn và đánh bật quân địch. Việc này đòi hỏi sự chia nhỏ các lực lượng của ta, tương tự như cách làm của đối phương. Nhưng đây là sự chia nhỏ có tính cách hình thức hơn thực tế, nhờ vào khả năng cơ động chiến lược nhanh bằng đường không, giúp ta có được phương cách chuyển quân mà đối phương không thể có được.

Giải pháp thứ hai - là phòng thủ gián tiếp - bao gồm việc giữ lực lượng của chúng ta ở vùng châu thổ, và hành động phía sau lưng quân địch.

Giải pháp thứ hai này, thoạt xem qua có vẻ hấp dẫn hơn giải pháp thứ nhất. Nó có thuận lợi là cho phép sử dụng không quân tốt hơn, hoạt động gần các căn cứ tại vùng châu thổ. Nhưng ưu thế này không thể được đánh giá quá cao, vì khi hoạt động ở các vùng Trung Du và vùng cao, khả năng của không quân có sự hạn chế. Nhất là ưu thế này phải được cân đối với hai mặt khó khăn đã thường được nhận thấy trong một thời gian dài ở Đông Dương.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #69 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2010, 11:03:19 pm »


Khó khăn thứ nhất là đối phương có khả năng ngăn chặn hành động của chúng ta xuất phát từ vùng đồng bằng - nếu đây không phải là những quả đấm thật mạnh - bằng các lực lượng hoặc là địa phương hoặc là chính quy, độc lập với Binh đoàn Tác chiến của họ. Đây là lực lượng họ có rất nhiều, là việc họ đã làm được một cách thành công năm ngoái, khi tướng Salan có một cuộc hành quân xuất phát từ vùng châu thổ, chống lại các lực lượng Việt Minh ở vùng Thượng du: cuộc hành quân “Lorraine” đã bị các lực lượng nhỏ hơn chúng ta rất nhiều ngăn chặn, không thể đạt được mục đích đề ra.

Khó khăn thứ hai là sự việc thường được nhận thấy trong các chiến dịch đã qua - nhất là năm 1952 trong cùng cuộc hành quân “Lorraine” - Việt Minh rất tin tưởng vào khả năng phản ứng linh hoạt, thay đổi nhanh chóng các tuyến liên lạc, tiếp tế của các lực lượng của họ. Họ không để cho bị đánh lạc hướng bằng các trận đánh uy hiếp sau lưng.

Tuy nhiên tất cả những khả năng hành động của chúng ta đã được nghiên cứu một cách cẩn thận.

Trong vùng Vinh và Hà Tĩnh một lực lượng cỡ sư đoàn được tăng viện một trung đoàn đã tập kết để đưa vào hoạt động ở vùng trung tâm Đông Dương.

Để có thể hoạt động được sau lưng lực lượng này, và buộc nó phải thay đổi phương hướng hoạt động, ta có thể dự kiến các hành động xuất phát từ vùng châu thổ tiến về Thanh Hóa, hoặc là từ Trung Bộ Việt Nam tiến về Chu Lai. Các cuộc tiến công trên bộ có thể được kết hợp với các cuộc hành quân đổ bộ.

Cả hai đều đòi hỏi phương tiện lớn hơn rất nhiều so với những gì chúng ta có thể cung cấp, chưa kể đến việc phải đối phó cùng một lúc, với một hướng tiến công vào Bắc Lào, và có vẻ như đây là hướng tiến công quan trọng nhất.

Thật vậy, phần lớn Binh đoàn Tác chiến của Việt Minh xuất phát từ vùng Phú Thọ, Yên Bái, Thái Nguyên tiến về hướng Tây Bắc.

Để ngăn chặn bước tiến của Binh đoàn Tác chiến Việt Minh, chúng ta phải có một hành động xuất phát từ vùng châu thổ, hoặc chặn đánh họ trước khi họ xuất phát, hoặc cắt đứt ngay lập tức đường liên lạc của họ, buộc họ phải quay trở lại. Giải pháp này chỉ khả thi khi địch thủ chấp nhận giao tranh. Nhưng trong trường hợp này, nó có thể tạo ra ngay từ tháng 11 năm 1953, một cuộc chiến tổng lực, mà vì lý do yếu thế của các phương tiện của chúng ta, ta đã phải tìm cách trì hoãn, cho đến khi nào việc phát triển Binh đoàn Tác chiến của ta có được những lực lượng đúng như ý muốn. Do đó giải pháp này chứa đựng một sự rủi ro rất lớn.

Tuy vậy, tôi ra lệnh tiến hành một cuộc nghiên cứu. Có hai kế hoạch được dự kiến. Kế hoạch thứ nhất là kế hoạch duy nhất thực sự có hiệu quả hướng đến một cuộc tiến công nhắm vào giao lộ liên lạc chủ yếu trong vùng Yên Bái. Tướng Cogny (người dự kiến được giao tư lệnh cuộc hành quân này) đã ước tính phải cần một lực lượng vượt xa khả năng của tất cả những lực lượng hiện có tại Đông Dương1. Hơn nữa các phương tiện ta có chỉ cho phép ta tái lập và bảo trì một trục lộ giao thông duy nhất không thể đủ cho một cuộc hành quân tầm cỡ như thế. Do đó cuộc hành quân được xem là không thể nào khả thi.

Do đó chúng tôi dự kiến một hành động vào vùng gần hơn là Thái Nguyên. Cho dù ít tốn kém hơn so với một cuộc hành quân vào Yên Bái, một hành động như vậy sẽ mang lại hiệu quả kém hơn nhưng lại đòi hỏi phương tiện nhiều hơn những gì ta có.

Vì thế, chúng tôi đã nghĩ đến một hành động theo kiểu “đánh và rút” trong vòng hai hay ba tuần; trong khoảng thời gian nói trên, chúng ta gần như hoàn toàn bỏ trống vùng châu thổ. Hiệu quả sẽ rất thấp, cả không gian (vì Việt Minh có những cách để né tránh) lẫn thời gian (vì không thể bỏ trống lâu dài vùng đồng bằng). Hơn nữa, trong khoảng thời gian duy nhất mà một kế hoạch như vậy có thể tiến hành được, thì các lực lượng quan trọng của Binh đoàn Tác chiến Việt Minh vẫn còn đóng gần vùng châu thổ và họ có thể đánh vào vùng Thái Nguyên, làm cho khả năng thành công của chiến dịch của ta trở nên vô cùng bấp bênh. Sau khi nghiên cứu rất kỹ vấn đề này, tôi và tướng Cogny đã nhất trí từ bỏ kế hoạch này.

Chính vì vậy, để đối phó với những cuộc chuyển quân của Việt Minh nhằm mục đích tiến công vào vùng Thượng du và phần trung tâm của Đông Dương, do sự thiếu hụt về lực lượng, bắt buộc chúng ta phải bảo vệ các vùng bị uy hiếp bằng cách đối mặt trực tiếp với quân địch. Việc đối mặt trực tiếp ít tốn kém hơn, vì chúng ta có thể sử dụng lực lượng đóng ngay tại địa phương. Tuy nhiên việc bảo vệ trực tiếp cũng không loại trừ những hành động về sau đánh vào các tuyến đường giao thông liên lạc của quân địch, khi nào chúng ta thấy cần thiết - khi mà có sự chi viện của chính quốc hoặc dựa vào sự phát triển các lực lượng Quân đội Liên hiệp.
_______________________________________
1. Do sự cần thiết phải để lại một số đơn vị bảo vệ vùng châu thổ, chúng ta phải cần đến từ 11 đến 12 binh đội cơ động, bốn đoàn thiết giáp và ba đoàn không vận. Tướng Cogny ước tính số đơn vị cần thiết là: 6 binh đội cơ động, hai đoàn thiết giáp và 2 đoàn không vận chỉ cho trận đánh không thôi; từ 3 đến 4 binh đội cơ động để bảo vệ tuyến đường liên lạc của chúng ta; từ 2 đến 3 binh đội cơ động, 2 đoàn thiết giáp và một đoàn không vận dự trữ tại vùng châu thổ. Thêm vào những đơn vị nói trên, chúng ta còn phải cộng thêm từ 5 đến 6 tiểu đoàn để bảo vệ vùng cao chống lại các lực lượng nhẹ đang hoạt động ở đấy và chống lại những đơn vị mà địch có thể gửi đến. Thế nhưng, vào thời kỳ ấy, chúng ta chỉ có tại Đông Dương 8 binh đội cơ động, hai đoàn thiết giáp và 3 đoàn không vận.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM