Em đang tổng hơp về chiến dịch Biên giới, vừa viết vừa dịch mới thấy tiếng Anh của mình còi quá, đọc thì được xíu xíu nhưng đến khi viết thì cứng hết cả tay.
Em cứ tương lên đây, nhờ các bác nghiên cứu sửa chữa và dịch hộ ạ.
Thông tin tổng hợp từ
-
"Chiến dịch Tấn côngBiên giới 1950"-Phân viện Lịch sử Quân sự - Học viện quân sự cao cấp - 1979-
"BTTM trong KCCP" - Ban tổng kết và biên soạn lịch sử - BTTM - 1991- "Con đường tử địa" - Henry De Pirrey - bản dịch của Đặng Văn Việt.
- "Đường số 4 rực lửa" - Đặng Văn Việt
Chiến dịch Biên giớiI. Bối cảnh chung:
II. Tình hình địa lý khu vực
III. Tình hình lực lượng quân Pháp
IV. Tình hình và chuẩn bị của lực lượng Việt Minh tham gia chiến dịch
V. Diễn biến chiến dịch Biên Giới:
a. Trận Đông Khê
b. Diễn biến thừ 21/9 đến 09/10/1950
c. Diễn biến từ 09/10 đến 14/10/1950
VI. Kết quả:
VII. Ý nghĩa:
Chiến dịch Tiến công Biên giới Thu đông 1950 (Lê Hồng Phong I) là một chiến dịch trong Chiến tranh Đông Dương do quân đội Việt Minh thực hiện từ ngày 16 tháng 9 đến 17 tháng 10 năm 1950. Chiến dịch kết thúc với thắng lợi của Việt Minh. Sau chiến dịch này, hình thái chiến trường chung đã thay đổi, quân Pháp mất thế chủ động; với sự trợ giúp của Trung Quốc, Liên Xô và khối XHCN, Việt Minh chuyển từ thế bị bao vây cô lập, từ thế cầm cự chiến lược sang phản công chiến lược.
I. Bối cảnh chung:Sang năm 1949, quân Pháp vẫn không thể tiến vào khu vực Việt Bắc, việc kiểm soát đồng bằng Bắc bộ có tiến triển nhưng chậm chạp và đầy bất ổn. Việt Minh dần dần tổ chức lại được bộ máy và lực lượng, bắt đầu tổ chức những trận đánh qui mô chống lại lực lượng Pháp. Ngoài các lực lượng địa phương, Việt Minh đã có hai Đại đoàn 308 và 304, hai trung đoàn mạnh là 174 và 209 để làm lực lượng cơ động. Cũng vào giai đoạn này, tại Trung Quốc, Quân đội Giải phóng Nhân dân đã đẩy lực lượng quân đội của Quốc Dân Đảng ra khỏi lục địa Trung Quốc, áp sát biên giới, báo hiệu một sự khó khăn lớn đối với Pháp ở Đông Dương.
Trước tình hình đó, ngoài việc tăng viện 20 tiểu đoàn Âu – Phi, tổ chức thêm 35 tiểu đoàn quân đội người bản xứ (quân đội của Quốc gia Việt Nam), nước Mỹ bắt đầu nhảy vào cuộc với viện trợ quân sự cho Pháp và Quốc Gia Việt Nam. Tháng 5/1950, tướng Revers (Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp) được phái sang Đông Dương nghiên cứu tình hình và vạch ra kế hoạch mới. Nội dung của kế hoạch là: Tăng viện và dồn quân ra Bắc Bộ để củng cố và mở rộng phạm vi ảnh hưởng ở đồng bằng và trung du, giành lấy kho nhân vật lực quan trọng; tăng cường phòng thủ tứ giác Lạng Sơn – Tiên Yên –Hải Phòng – Hà Nội, phong tỏa biên giới; phát triển quân đội người bản xứ thực hiện việc rút quân Âu – Phi làm lực lượng cơ động. Giới quân sự Pháp ở chính quốc thông qua “kế hoạch Revers” chủ trương rút từ Cao Bằng tới Na Sầm để tập trung lực lượng củng cố tuyến phòng thủ Lạng Sơn – Tiên Yên – Móng Cái. Tuy nhiên, lực lượng Pháp ở Đông Dương lại chủ trương và thực thi việc tiếp tục kiểm soát toàn tuyến từ Cao Bằng đến Móng Cái (suốt tuyến Đường thuộc địa số 4). Khi tình hình chuyển biến xấu, Pháp ở Đông Dương rút bớt một số vị trí lẻ nhưng vẫn chốt giữ các thị xã, thị trấn Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng và dọc tuyến Lạng Sơn - Tiên Yên - Móng Cái.
Về phía Việt Minh tích cực thực hành hình thức chiến tranh “Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” và trong tháng 2 năm 1950 đã đề ra chủ trương: Gấp rút hoàn thành việc chuẩn bị, giành thắng lợi lớn, làm chuyển biến chiến tranh có lợi, tiêu diệt cho được một phần quan trọng lực lượng địch, thu hẹp vùng kiểm soát của đối phương, tích cực ngăn ngừa và phá những cuộc càn quét, tiến tới giành chủ động về chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ. Để thực hiện chủ trương này, Việt Minh mở chiến dịch Tây Bắc (Lê Hồng Phong I) với trọng điểm là khu vực Lào Cai – Bắc Hà nhưng kết quả hạn chế. Đầu tháng 7/1950, Bộ Tổng tư lệnh của Quân đội Quốc gia Việt Nam (Việt Minh) quyết định chuyển hướng chiến dịch sang Cao Bằng – Lạng Sơn.
II. Tình hình địa lý khu vựcKhu vực mở chiến dịch thuộc hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn, nằm dọc theo biên giới Việt – Trung. Địa hình rừng núi chiếm 9/10 diện tích đất đai. Quốc lộ 4 (lúc bấy giờ mang tên Đường thuộc địa số 4 – theo cách đặt tên của chính quyền Pháp) nối liền các tuyến đường của Việt Nam sang Trung Quốc như Cao Bằng – Pắc Mường, Đông Khê – Thủy Khẩu, Đồng Đăng – Bằng Tường, v.v.. Hai bên đường số 4 là núi rừng liên tiếp, núi đá tai mèo lẫn núi đất. Rừng phần lớn là rừng cây thấp và cỏ tranh, ít rừng già. Các thị trấn, thị xã như Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn. Lộc Bình v.v.. là những khu vực tập trung dân cư nằm trên những thung lũng hẹp dọc đường 4, cách nhau 20 đến 30 km. Thời gian mở chiến dịch là cuối mùa mưa, ảnh hưởng nhiều đến việc cơ động và hậu cần.
III. Tình hình lực lượng quân PhápTổ chức lực lượng Pháp ở Liên khu biên giới gồm:
Chú thích: a: tiểu đội; b: trung đội, c: đại đội, d: tiểu đoàn. 1/3 REI: Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 3 Lê dương. 1/21 Tiểu đoàn 1, trung đoàn 21 bộ binh thuộc đia.
Tổng cộng: Quân Pháp có 10 tiểu đoàn Âu Phi, 1 tiểu đoàn và 9 đại đội người Việt Nam; 27 khẩu pháo các loại gồm: 2 khẩu 155mm, 15 khẩu 105mm, 1 khẩu 94mm, 5 khẩu 75mm, 4 khẩu 57mm; 4 đại đội công binh; 4 đại đội cơ giới; 6 máy bay chiến đấu và 2 máy bay trinh sát liên lạc.
Các tiểu đoàn Lê Dương là các đội quân tinh nhuệ, có khả năng đánh phòng ngự tốt. Các tiểu đoàn Tabor lính Ma Rốc có khả năng đánh rừng núi. Lực lượng Thổ - Nùng cũng được đánh giá là xông xáo và thông thạo chiến trường.
Lực lượng cơ động của Pháp ở biên giới thuộc GTM (Binh đoàn Ma Rốc – Groupement tirailleur Marocain) và do Trung tá Le Page chỉ huy. Tính trên toàn chiến trường Bắc Bộ là 9 tiểu đoàn cơ động/12 tiểu đoàn cơ động Đông Dương/124 tiểu đoàn của quân đội Liên hiệp Pháp. Trên thực tế, Pháp đã điều thêm 2 tiểu đoàn cơ động lên Biên giới là 1BEP (Tiểu đoàn dù lê dương số 1) và 3 BCCP.
Hệ thống đồn bốt của Pháp rất vững chắc, các vị trí đều có lô cốt bê tông cốt sắt kiên cố. Các vị trí này là những mục tiêu khó khăn đối với trình đọvà trang bị của Việt Minh thời bấy giờ. Tuy nhiên, hệ thống này cũng có những điểm yếu. Đó là bố trí thành tuyến độc đạo kéo dài, một số vị trí dễ thành đột xuất, cô lập và hở sườn dễ bị chia cắt; hậu cần, tiếp tế, tải thương đều khó khăn và gần như phụ thuộc hoàn toàn vào không quân; khả năng sử dụng vũ khí khí tài công nghệ cao như xe tăng, máy bay bị hạn chế.
IV. Tình hình và chuẩn bị của lực lượng Việt Minh tham gia chiến dịcha. Lãnh đạo chiến dịch là Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch, cách Đông Khê 10 km về phía đông, gồm:
- Võ Nguyên Giáp, Ủy viên thường vụ TW Đảng – Bí thư – Chỉ huy trưởng kiêm chính ủy mặt trận.
- Trần Đăng Ninh, Ủy viên thường vụ TW Đảng - Ủy viên
- Hoàng Văn Thái, Ủy viên TW Đảng - Ủy viên
- Lê Liêm, Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị - Ủy viên
- Bùi Quang Tạo, Phó chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu Việt Bắc - Ủy viên
Cơ quan chỉ huy chiến dịch gồm:
- Hoàng Văn Thái, Tổng tham mưu trưởng – Tham mưu trưởng chiến dịch.
- Phan Phác, quyền Tổng tham mưu phó – Tham mưu phó chiến dịch.
- Lê Liêm, Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị - Chủ nhiệm phòng chính trị chiến dịch
- Lê Quang Đạo, phó chủ nhiệm phòng chính trị chiến dịch
- Trần Đăng Ninh, Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp – Chủ nhiệm phòng cung cấp chiến dịch.
- Bùi Quang Tạo, phó chủ tịch UBKC hành chính liên khu Việt Bắc – phó chủ nhiệm phòng cung cấp chiến dịch.
b. Lực lượng Việt Minh tham gia chiến dịch gồm có:
Bộ Binh:
- Đại đoàn 308 gồm 3 trung đoàn bộ binh: 36, 88, 102 và tiểu đoàn 11.
- 2 trung đoàn chủ lực: 174 và 209
- 3 tiểu đoàn độc lập: 426, 428 của Liên khu Việt Bắc; tiểu đoàn 888 của tỉnh Lạng Sơn.
Pháo binh: gồm 4 đại đội sơn pháo, gồm 20 khẩu 70mm và 75mm
Công binh: 5 đại đội.
Quân số các đơn vị là 25.000 người. BCH chiến dịch và cơ quan: 4500 người. Tổng cộng: 29500 người.
Ngoài ra còn có một số đại đội bộ đội địa phương và du kích của hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn.
Ngoài việc biên chế đã bước đầu thống nhất, các đơn vị chủ lực Việt Minh (Đại đoàn 308, trung đoàn 174 và 209, trung đào pháo binh 675) được huấn luyện quân sự ở Trung Quốc từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1950, có một số tiến bộ về kỹ thuật chiến đấu như kỹ thuật đánh bộc phá, kỹ thuật đánh công kiên và tham vấn của các sỹ quan quân sự cấp cao Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Hoa ở BCH mà đứng đầu là cố vấn Trần Canh (người sau này chỉ huy Chí nguyện quân Trung Quốc tại Triều Tiên). Song song với huấn luyện quân sự, bộ đội đã qua các lớp giáo dục chính trị. Một số mặt hạn chế của Việt Minh là: tư tưởng, cách thức du kích vẫn nặng nề; chưa có kinh nghiệm chiến đấu qui mô lớn với yêu cầu hợp đồng chặt chẽ; tổ chức, biên chế còn cồng kềnh; trình độ tổ chức của chỉ huy chưa đáp ứng được yêu cầu tác chiến của các binh đoàn lớn. Đặc biệt, đây là lần đầu tiên Việt Minh đối diện với bài toán hậu cần qui mô lớn nên tiến hành rất khó khăn.
c. Về hậu cần của Việt Minh trong suốt chiến dịch:
- Tổng số dân công: 121000 người. Trong đó dân công thường trực là 1750 người và dân công theo đợt là 119950 đợt người.
- Ô tô: 67 chiếc
- Xe trâu: 50 chiếc
- Kết quả vận chuyển: 3100 tấn. Trong đó chuyển bằng ô tô 2250 tấn. Dân công vận chuyển được 850 tấn.
- Các loại vật phẩm: Lương thực 2250 tấn, vũ khí đạn dược 190
tấn, các loại khác 660 tấn.
d. Ý đồ chiến dịch của Việt Minh: Ban đầu, quyết tâm sơ bộ của BCH Việt Minh là (31/7/1950):
- Tập trung ưu thế binh hỏa lực, nhanh chóng tiêu diệt Cao Bằng.
- Tiếp đó chuyển xuống tiêu diệt Đông Khê, sau tùy tình hình mà định hướng phát triển của chiến dịch
- Khi đánh Cao Bằng chú ý tiêu diệt quân viện từ Thất Khê – Đông Khê lên.
Sau đó, qua thảo luận Hội nghị Đảng ủy chiến dịch, cùng với sự tham mưu của các cố vấn Trung Quốc, Việt Minh thay đổi quyết tâm (21/8/1950) như sau:
- Tập trung ưu thế binh hỏa lực tiêu diệt Đông Khê đồng thời tiêu diệt quân ứng chiến đường không và đường bộ.
- Chuyển xuống Thất Khê, nếu có điều kiện thì tiêu diệt Thất Khê, chưa có điều kiện thì đánh vận động quanh Thất Khê hoặc đánh quân Pháp trên quãng Thất Khê – Đông Khê hay Thất Khê – Lạng Sơn.
- Sau khi tiêu diệt được Thất Khê, nghỉ 10 đến 15 ngày sẽ lên đánh Cao Bằng. Nếu sau khi Đông Khê bị tiêu diệt, Pháp bỏ Cao Bằng rút chạy về phía nam thì tập trung lực lượng tiêu diệt trên quãng Cao Bằng – Đông Khê
- Các lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích tỉnh Lạng Sơn và dọc quốc lộ 4, cùng 1 đại đội của Bộ tổng tham mưu Việt Minh và 2000 dân công hoạt động du kích, phá đường, phục kích, tiêu hao quấy rồi, có điều kiện thì tiêu diệt một bộ phận quân Pháp trên quãng Thất Khê – Lạng Sơn.
- Thời gian dự kiến là 30 đến 40 ngày, trong đó phải giải quyết nhanh Đông Khê, Thất Khê, tốt nhất là từ 7 đến 10 ngày.
- 14/9/1950 các lực lượng tham gia chiến dịch phải sẵn sàng ở vị trí tập kết.