Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 03:38:15 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 1945  (Đọc 63808 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Paul the Octopus
Thành viên
*
Bài viết: 537


St. Paul


« Trả lời #80 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2010, 12:51:43 pm »

Trước đó đã có lúc Rita từ quân y viện về tiểu đoàn, mới đầu ko ai tin là tôi còn sống, mọi người đều nghĩ tôi đã hy sinh. 1 số bạn bè còn bí mật nói với Rita rằng ban tham mưu tiểu đoàn đã chuẩn bị sẵn 1 giấy chứng tử và 1 đề nghị truy tặng Sao Vàng Anh  hùng Liên Xô cho tôi. Cảm giác của tôi thật lẫn lộn. Tất nhiên điều đó thật là hay, nhưng tôi vẫn còn sống nên tôi muốn nhận phần thưởng cao quý này khi đang tại ngũ chứ ko phải truy tặng. Tuy nhiên người xứng đáng với danh hiệu cao nhất này hơn tất cả chúng tôi là đại uý shtrafnik Smeshnoi! Kể cả nếu anh ta trở thành shtrafnik duy nhất của Tiểu đoàn Trừng giới Độc lập 8 nhận danh hiệu này thì cũng là 1 biệt lệ tuyệt vời! Tôi nghĩ anh xứng đáng với danh hiệu đó với sự hy sinh anh dũng của mình.

Dù sao thì thực tế điều sung sướng nhất với tôi vẫn là mình còn sống và mẹ tôi sẽ ko phải nhận giấy chứng tử cho đứa con trai cuối cùng còn lại này. Bà chẳng cần tôi được truy tặng 1 phần thưởng nào sất. Vậy là tôi đang rong ruổi trên cỗ xe ngựa êm ái này trong 1 ngày xuân nắng đẹp, cây cối nở hoa 2 bên đường thật rực rỡ! Cảnh vật xung quanh chúng tôi đẹp tới mức đôi lúc chúng tôi quên mất là đã có chiến tranh! Thỉnh thoảng chúng tôi gặp 1 nhóm phụ nữ, đàn ông, thậm chí cả trẻ em vừa mới được giải thoát khỏi các trại lao động khổ sai Đức. Những con người đói khát, kiệt sức nhưng trên môi nở nụ cười rạng rỡ và ánh mắt vui vẻ. Nhiều người vẫy tay với chúng tôi và gào to tiếng cám ơn.

Tới 1 chỗ mà tôi ko rõ là ở đâu thì chúng tôi vượt 1 chiếc cầu phao bắc qua con sông quỷ quyệt Oder, lúc này nó đã yên tĩnh hoàn toàn. Tôi hỏi Rita xem chúng tôi đang đi đâu và làm thế nào mà tìm được tiểu đoàn tôi, cô trả lời cô biết đường vì tham mưu trường Philip Kiselev đã cho cô 1 tấm bản đồ ghi tuyến đường mà tiểu đoàn sẽ đi, tuyến đường này được vạch bằng bút đỏ trên bản đồ, dẫn tới 1 thị trấn Đức nhỏ. Tới đó nếu ko tìm thấy tiểu đoàn chúng tôi sẽ hỏi sĩ quan quân quản địa phương để nhận các chỉ dẫn tiếp theo.

Tôi ko định mô tả chi tiết chuyến du hành này. Chúng tôi rời quân y viện ngày 28/4 và theo tôi nhớ là bắt kịp tiểu đoàn vào ngày 1/5 tại đâu đó gần thị trấn Freienwalde, ngoại ô phía bắc Berlin. Chỉ có 1 chi tiết quan trọng nhất là trong chuyến đi, qua mỗi căn nhà tôi đều thấy gần như mọi cửa sổ đều treo 1 mảnh vải trắng, dấu hiệu đầu hàng. Vài đứa trẻ Đức đã xuất hiện trên phố và người lớn phải kêu chúng vào nhà mỗi khi có xe tải hay xe tăng ta chạy qua.

Thỉnh thoảng chúng tôi gặp 1 hàng dài tù binh Đức mệt mỏi âu sầu với vài lính Soviet áp giải. Dân địa phương nhìn họ bằng con mắt buồn bã. Vì lý do nào đó, tôi ko thấy 1 người Đức nào đưa thức ăn cho tù binh Đức như những phụ nữ Ukraina và Belorussia đã làm với tù binh ta khi họ bị giải về Đức. Có lẽ mỗi quốc gia có quan niệm riêng về lòng nhân đạo.

Chúng tôi đã quyết định nghỉ qua đêm tại 1 thị trấn nhỏ và chọn 1 căn nhà trông có vẻ tử tế nhất vì quân đội ko bố trí tại đây. Ko thể nói rằng những người Đức tỏ ra vui mừng khi gặp chúng tôi nhưng có lẽ chúng tôi là những binh sĩ Soviet đầu tiên ở lại đây. Các thường dân Đức xem việc cho chúng tôi ở lại như 1 trách nhiệm, và họ thực hiện trách nhiệm đó 1 cách chính xác và nghiêm túc như khi làm mọi việc khác trong đời.

Chúng tôi ở trong căn phòng được họ giao cho, trong đó có mọi thứ cần thiết, bàn ghế và 2 chiếc giường đôi trải đệm lông chim dày. Trên 1 chiếc bàn nhỏ màu tối có đặt 1 cái chậu cùng 1 bình kim loại đựng nước để rửa tay. Người Đức thường ngủ trong những chiếc giường trải đệm lông chim dày nhưng với chúng tôi nó quá nóng. Chúng tôi chưa từng ngủ trên loại đệm này và thích trải 1 tấm mền bình thường hơn.

Tôi nhờ bà chủ nhà đun nước pha trà. Bà già Đức mặt lạnh tanh gật đầu tỏ ý hiểu thứ tiếng Đức còn lâu mới được coi là hoàn hảo của tôi. Bà chỉ nói "Jawohl" (Vâng - Maseo) rồi đi. Sau này trong thời gian phục vụ tại Đức tôi nhận thấy Jawohl là 1 trong những từ cửa miệng trong giao tiếp của người Đức. Trong lúc đó chúng tôi dỡ gói đồ ăn, mở 1 hộp dăm bông Mỹ và đặt 1 ít đường lên bàn. Bà chủ nhà bưng lên 2 cốc nước nóng và khi nhìn thấy đường bà hỏi chúng tôi có muốn uống cafe ko. Nhìn ánh mắt thèm khát của bà ta chú mục vào mấy viên đường trắng tinh, chúng tôi hiểu bà mời cafe ko đơn thuần vì lòng mến khách. Tất nhiên chúng tôi thoả thuận với nhau đưa bà 1 nửa số đường mình có, có lẽ bà ta ko ngờ tới sự rộng rãi quá mức này và khuôn mặt lập tức trở nên sống động, bà ta đổi giọng hoàn toàn và liên tục nói: "Danke, Danke schon" (Cám ơn, cám ơn nhiều), thậm chí còn cúi đầu cảm ơn. Sau này tôi mới biết nước Đức đã lâu ko còn đường thực sự, họ phải dùng đường hoá học thứ phẩm thay thế. Sáng hôm sau bà chủ nhà chủ động mang cho chúng tôi 2 cốc cafe nóng khi chúng tôi chuẩn bị ăn sáng. Tuy nhiên đó cũng là thứ cafe thứ phẩm, dù sao hương vị nó cũng khá ngon vì rất giống với thứ cafe tôi thường uống hồi ở Viễn Đông, làm bằng lúa mạch và quả đầu, thứ quả mà mẹ tôi đã dùng để làm bánh nướng trong những năm đói kém. Việc này cũng là bù đắp cho lòng mến khách của bà ta.

Chúng tôi cho ngựa ăn chút yến mạch, cám ơn bà chủ nhà rồi đi. Số yến mạch này chúng tôi tìm thấy trong 1 cái bao để dưới ghế, và Rita bảo chắc Valery Semykin và Moses Seltzer đã lo vụ này. Suốt cả ngày chúng tôi đi qua những hàng tù binh Nazi, nhiều tên trong số đó là tự ra hàng, cả những đám người mới được giải phóng khỏi các trại lao động khổ sai Đức. Xe tăng và pháo tự hành cùng những chiếc xe tải chở đầy lính ta thì đi vượt qua chúng tôi. Vì 1 số lý do ko người lính nào muốn gây chú ý khi gặp 1 nữ trung sĩ trẻ đi với 1 đại uý đầu quấn băng, chẳng ai hô "Báo động ko kích! 1 chiếc "khung ảnh"!" Có lẽ họ đang lo lắng, Berlin vẫn kháng cự, và họ đang tới đó.

Chúng tôi nghỉ đêm thứ 2 trong 1 thị trấn nhỏ ko khác nhiều so với những thị trấn khác. Nếu 1 căn nhà chưa bị chiến tranh phá huỷ, nó cũng gần như chìm ngập giữa khu vườn nở đầy hoa bao quanh. Nhà được xây chủ yếu bằng đá, lợp ngói đỏ. Điều kiện sống của cư dân rất tốt, nhưng họ lại còn muốn tốt hơn nữa nên đã ủng hộ Hitler và chính sách "Tiến về phía Đông" (Drang nach Osten) của hắn. Giờ là lúc họ trả giá cho việc này.
Logged

IN PAUL WE TRUST
Paul the Octopus
Thành viên
*
Bài viết: 537


St. Paul


« Trả lời #81 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2010, 12:51:56 pm »

Chúng tôi dậy từ sớm và nóng lòng đi tiếp, vì vậy sau bữa sáng chóng vánh chúng tôi lại tiếp tục hành trình và vài giờ sau đã tới thị trấn cuối cùng được đánh dấu trên bản đồ. 1 ông già Đức mà chúng tôi gặp đầu tiên chỉ chỗ ban quân quản địa phương. Thật ngạc nhiên khi hoá ra sĩ quan quân quản thị trấn này là 1 sĩ quan tiểu đoàn tôi, anh bạn cũ Petr Zagumennikov! Tất cả đều vui mừng, Petr thậm chí còn đề nghị uống mừng cuộc gặp gỡ này nhưng vì việc này đã bị bác sĩ nghiêm cấm và Rita cũng cấm tôi uống rượu nên tôi đành từ chối. Chúng tôi ngồi vài giờ với Petr, dùng bữa sáng lần thứ 2. Petr giải thích anh ta chỉ được chỉ định làm sĩ quan quân quản địa phương tạm thời và sẽ sớm có 1 sĩ quan quân quản chuyên nghiệp tới thay thế, khi đó anh sẽ quay lại tiểu đoàn. Anh cầm bản đồ của chúng tôi chỉ ngôi làng mà ban chỉ huy tiểu đoàn trừng giới đang hướng tới.

Chúng tôi nhận lương thực bổ sung và cỏ khô cho "cỗ xe 1 mã lực" rồi tiếp tục hành trình. Đã gần tới nơi nên chúng tôi quyết định ko dừng nghỉ qua đêm để sớm được về với tổ ấm của mình, Tiểu đoàn Trừng giới Độc lập 8. Chúng tôi đi suốt đêm trên đường trong tiếng ngựa gõ móng đều đều. Sáng hôm sau chúng tôi đã tới 1 ngôi làng và nhìn thấy 1 tấm biển trước 1 nhà thờ, nó làm bằng gỗ, đẽo bằng rìu từ 1 tấm biển chỉ đường Đức trên ghi dòng chữ Nga "07380 (số hòm thư đơn vị tôi), gia đình nhà Baturin".

Ko nghi ngờ gì nữa, chúng tôi đã gần về đến nhà! Hôm nay là ngày lễ 1/5! Tuy nhiên trên đường phố ko có ko khí lễ hội, với người Đức hôm nay chỉ là 1 ngày thứ 3 bình thường, đầy lo lắng và căng thẳng vì họ biết rằng Berlin đang ở vào những giờ khắc cuối cùng. Đang có giao tranh ác liệt tại khu vực toà nhà Reichstag, trên mỗi khuôn mặt Đức đều thấy rõ nỗi buồn, nhiều người mặc áo tang, có lẽ là để cho những người thân chết trận. Chắc họ đã biết tin Hitler và Goebbel tự sát, mặc dù chúng tôi còn chưa biết tin này.

Theo biển chỉ đường chúng tôi đã tới ngoại ô phía bắc Berlin, tại đây có nhiều khu nhà nghỉ mát mùa hè. Mọi vườn cây đều xanh tốt, cây cối nở đầy hoa nhưng hương thơm của chúng ko át được mùi súng đạn. Người ta ko chỉ thấy dấu vết của những trận đánh trước đó mà còn ngửi được mùi khói súng theo gió bay tới từ Berlin. Thậm chí còn có thể cảm nhận được thứ mùi hơi ngòn ngọt của thuốc nổ TNT và mùi hôi thối của xác chết phân huỷ, thứ mùi đã ám ảnh chúng tôi rất lâu sau chiến tranh, cả lúc thức lẫn lúc ngủ.

Chúng tôi nghe thấy tiếng nổ đầu nòng của đại bác, như thể đang có 1 trận sấm sét gần đây vậy. Hàng đàn máy bay hướng tới Berlin hết đợt này đến đợt khác, thành phố này đang đến ngày tàn. Như chúng tôi được biết từ sĩ quan quân quản Petr, trận công phá thành phố đã bắt đầu từ 26/4. Đường tới Berlin thật là dài và gian khổ. Những chiến thắng dễ dàng chỉ tạo ra những kẻ thắng cuộc kiêu ngạo. Chúng ta lại 1 lần nữa làm nên chiến thắng với thiệt hại khủng khiếp, sự anh dũng vô song, vắt kiệt sức mình và sẵn sàng hy sinh tất cả. Những người còn lại chúng tôi đã được nhận phần thưởng quý giá nhất: sống sót. Phần thưởng chung cho mọi người là máu của chúng ta đã ko đổ ra vô ích. Ngay từ ngày chiến tranh bắt đầu chúng ta đã có niềm tin ko gì lay chuyển nổi rằng "Chính nghĩa thuộc về chúng ta, kẻ thù sẽ bị tiêu diệt và chiến thắng sẽ thuộc về chúng ta."

Chúng tôi đã tới sở chỉ huy tiểu đoàn trừng giới thân yêu trong tâm trạng lạc quan và suy nghĩ minh triết như vậy. Tâm trí kích động khiến tim tôi đập nhanh và tôi bị 1 cơn nhức đầu bất thường hành hạ. Các sĩ quan tại sở chỉ huy nhìn thấy và họ nhấc bổng cả 2 vợ chồng xuống đất theo đúng nghĩa đen, ôm ghì lấy chúng tôi chặt đến mức tưởng gãy xương, hôn hít và lắc lắc đôi tay. Fillip Kiselev đã nhận ra sự mệt mỏi của chúng tôi, Rita bảo anh rằng chúng tôi đã đi suốt đêm để mong được về tiểu đoàn. Anh nhìn thấy khuôn mặt tái nhợt và mồ hôi lấm tấm trên trán tôi nên lệnh cho mọi người để chúng tôi yên. "Các cậu sẽ nghe tin tức mới sau!" Kiselev đột ngột nói và thêm, "giờ cần vụ của cậu sẽ là "cựu" trung uý Putrya, ông ta đã tình nguyện xin chân này từ mấy hôm trước."
Logged

IN PAUL WE TRUST
Paul the Octopus
Thành viên
*
Bài viết: 537


St. Paul


« Trả lời #82 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2010, 12:52:44 pm »

Qua câu nói này tôi hiểu Putrya đã được phục hồi danh dự, mặc dù sau này tôi được biết Baturin ko sẵn lòng ký quyết định giải thoát cho ông với lý do ông chưa hoàn thành đủ thời hạn 1 tháng tại tiểu đoàn trừng giới, đó là mức án được quy đổi từ số thời gian ngồi tù còn lại. Thật đúng là con người nguyên tắc!

Vị cựu trung uý sung sướng đưa tôi xuống tầng hầm 1 căn nhà kiên cố được phân cho chúng tôi. Phòng ốc đã sẵn sàng. Ông đã giặt sạch cả khăn mặt và chuẩn bị mọi thứ cần thiết để chúng tôi tẩy rửa cơ thể sau 1 chuyến hành trình dài. Ngay sau đó, Putrya phục vụ bữa trưa với 2 cốc sữa đầy. Hoá ra ông đã lo lắng chờ đợi chúng tôi về suốt 24h qua.

Sau bữa trưa tôi nhận thấy cơn đau đầu đã giảm bớt, vì vậy tôi quyết định tới báo cáo cho Baturin rằng mình đã về để khỏi vi phạm nghi thức quân đội. Cùng với nhiều sĩ quan khác, Baturin được phân 1 căn hộ trong 1 toà nhà lớn, tuy nhiên căn hộ của ông được trang hoàng đẹp hơn và có nhiều đồ đạc hơn. Có lẽ đây từng là hầm tránh bom cao cấp dành cho các quan chức Nazi địa phương. Có nhiều toà nhà kiêm hầm tránh bom như vậy, có lẽ các quan chức sợ 1 quả đạn pháo bay lạc tới. Sẽ an toàn hơn khi ở trong 1 căn hộ như vậy. Sau này tôi biết việc vào ở trong các căn hộ này là lệnh của kombat.

Kombat nghe bài báo cáo trình diện chính thức của tôi vẫn với vẻ xa cách và lạnh lùng. Ông ko nói 1 lời đánh giá nào về những việc tôi làm trong trận đánh chiếm đầu cầu mà chỉ bảo tôi hãy nghỉ ngơi và tối nay mang vợ tới chỗ ông. Tôi hơi shock trước sự chào đón lạnh lùng đó và quay ra cửa đi thẳng, vẫn ko nghe thấy ông nói thêm lời nào. Việc này cũng giống như lần tôi trở về từ bệnh viện ở Warsaw mùa hè vừa qua, tuy nhiên khi đó chúng tôi chưa hiểu gì về nhau còn bây giờ, chúng tôi đã cùng nhau làm quá nhiều việc ở Narev và nhiều nơi khác. Tôi nghĩ đây chỉ là lối đối xử với cấp dưới của ông, nó ko phù hợp chút nào với suy nghĩ của tôi về 1 "thợ làm Ctrị" hay Ctrị viên, công việc mà Baturin từng làm.

Rita, George Sergeev và George Razhev cùng 1 số sĩ quan khác đang chờ tôi, trong số đó có cả 1 trợ lý của Kiselev là Nikolai Gumenyuk. Anh ta phụ trách việc khen thưởng và đang chờ tôi ngoài cửa, bước lại gần tôi 1 chút như thể muốn nói điều gì đó nhưng lại thôi và bỏ đi ko nói lời nào, có vẻ như anh muốn tìm cách nói chuyện riêng với tôi nhưng ko thể tìm được phút nào.

Tôi ko buồn ngủ chút nào nhưng vẫn cố nghỉ 1 chút và cảm thấy khá hơn. Rita đã sửa soạn xong cho cuộc viếng thăm Baturin tối nay. Cô chuẩn bị cho tôi bộ quân phục diễu binh vốn nằm vô dụng trong đống tư trang của tôi đã lâu, khâu quân hàm vào cổ áo. Sau đó cô là phẳng quân phục của cô, đính vào đó tấm Huân chương Sao Đỏ mới nhận được ở quân y viện và Huy chương Giải phóng Altdamm. Hôm nay là ngày lễ 1/5, Baturin đã nhân dịp này để tổ chức 1 lễ mừng và mời chúng tôi. Nhiều tin đồn lan truyền rất nhanh rằng ko giống như lễ mừng Năm Mới, buổi tiệc này sẽ chỉ gồm những người gần gũi với kombat.

Khi chúng tôi đến ngoài kombat và vợ còn có thêm Ctrị viên Kazakov, các tiểu đoàn phó, gần như toàn thể ban tham mưu tiểu đoàn, George Sergeev và George Razhev, bác sĩ tiểu đoàn và bí thư chi bộ đại đội Chaika. Chaika cũng bị thương trong trận đánh vượt sông Oder nhưng đã cố lên được bờ, anh từ chối đến quân y viện và giống như George Sergeev được bác sĩ tiểu đoàn Stepan Buzun chữa trị. Ngoài ra còn 1 số người nữa mà giờ tôi ko nhớ.

Như việc nó phải thế, kombat là người đầu tiên nâng cốc. Ông nói rất lâu về ý nghĩa của ngày 1/5 rồi mới chuyển đề tài sang trận đánh trên sông Oder vừa qua. Giờ tôi mới biết chỉ còn đúng 4 người ko bị thương trong số các shtrafnik đã cùng tôi thiết lập đầu cầu, trong số đó có Sapunyak, người đã nắm quyền chỉ huy sau khi tôi trúng thương. Thật sung sướng khi nghe điều đó! Baturin nói 4 người này đã được giải thoát mà ko cần "rửa sạch tội lỗi bằng máu" và được gửi trở lại đơn vị hoặc 1 trung đoàn sĩ quan dự bị nào đó. Kèm theo bài diễn thuyết tràng giang đại hải ko phù hợp với bàn tiệc này chút nào, kombat còn nói thêm về chuyện thăng thưởng. Trước nhất là Đại uý Smeshnoi được đề nghị truy tặng Sao Vàng Anh hùng Liên Xô. Tiếp đó là tôi được đề nghị tặng Huân chương Cờ Đỏ và thăng 1 cấp với "1 ngôi sao to thay cho tất cả đống sao trên cầu vai hiện nay của cậu". Kombat cho thấy ông quả thật là con người kỳ lạ và phức tạp.

Đại uý Nikolai Gerenuk kể lại câu chuyện cho tôi nghe theo cách đơn giản hơn. Đầu tiên đề nghị truy tặng Sao Vàng Anh hùng Liên Xô được chuẩn bị cho tôi nhưng sau Baturin được Rita cho biết tôi vẫn còn sống và sẽ trở về từ quân y viện. Vậy là ông lập tức ra lệnh đổi đề nghị tặng thưởng "theo nguyện vọng của đại đội trưởng" sang Smeshnoi. Tôi nghĩ có lẽ kombat cho rằng với tiểu đoàn trừng giới chỉ nên truy tặng phần thưởng quân đội cao quý nhất này, hoặc cũng vẫn như trước đây ông ko muốn ai trong tiểu đoàn được phần thưởng cao hơn ông. Lúc này ông đã có Huân chương Cờ Đỏ, tôi đoán ông cũng sẽ có thêm 1 tấm nữa cho trận Oder.

1 sự cố bất ngờ xảy ra trong buổi tiệc đêm đó. Sau bài diễn văn mọi người bắt đầu uống mừng sự trở lại của tôi và nói họ đã nhớ tôi đến thế nào, Rita tìm kiếm tôi ra sao và tình yêu của chúng tôi mới vĩ đại làm sao. Đúng lúc đó 1 người bạn tôi đứng dậy nói với 2 sĩ quan đang nói chuyện với nhau: "Các anh thậm chí còn ko đáng được nhắc tên ở đây!" Theo lời anh thì 2 sĩ quan này đã thoả thuận với nhau xem ai được quyền "an ủi" Rita trước. Như Rita kể lại sau này, tôi đã tái mặt và bất tỉnh ngay tại chỗ, mọi người phải đỡ. Thực ra lúc đó tôi ngất vì 1 cơn đau đầu dữ dội đột ngột. Tôi đã uống 1 chút mặc dù việc này bị bác sĩ nghiêm cấm. Tôi ko uống vodka hay rượu mạnh nhưng có làm tí cognac Pháp để mừng việc mình "hồi sinh", thứ rượu này có rất nhiều trong đống chiến lợi phẩm.

Người khơi mào vụ scandal vẫn là George Razhev, anh ngày 1 trở nên nóng tính và ưa đánh lộn. Anh đã uống rất nhiều thậm chí trước cả buổi tiệc này của Baturin. Trí tưởng tượng bệnh hoạn của anh được hâm nóng bằng rượu đã bóp méo 1 câu nói thành 1 hình ảnh truỵ lạc gây hiểu lầm cho chính anh. 2 tay sĩ quan kia cuống quýt giải thích họ cũng rất buồn vì cái chết của tôi và thoả thuận sẽ an ủi người goá phụ trẻ đang mang thai thế nào thôi. Tính cho đến những ngày chiến tranh kết thúc đó George đã gây vô số vụ scandal với cả sĩ quan chiến trường lẫn sĩ quan tham mưu. Tất cả các vụ đó đều bắt đầu khi George đang say. Ngay hôm sau anh ta bị thiên chuyển khỏi tiểu đoàn.
Logged

IN PAUL WE TRUST
Paul the Octopus
Thành viên
*
Bài viết: 537


St. Paul


« Trả lời #83 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2010, 12:53:10 pm »

Tuy nhiên việc thiên chuyển Razhev đã được kombat ra quyết định từ trước, người bất ngờ được thay thế anh là Sergey Piseev. Việc này được giải thích bằng 1 bức thư của cha Razhev, 1 đại tá giữ chức vụ cao trong Tập đoàn quân Xung kích 5 lúc này đang tiến công ở phía nam chúng tôi theo hướng từ đầu cầu Kuestrin. "Ông bố tốt bụng" chắc đã được con trai cho biết tiểu đoàn trừng giới đang chuẩn bị vượt sông Oder, vì vậy ông gửi 1 bức thư đề nghị chỉ huy Tiểu đoàn 8 Trừng giới Độc lập ko để con mình tham chiến trong trận đánh cuối cùng này, cậu ta đã từng bị thương, bị sức ép đạn pháo, ko đáng để cậu ta bị giết vào đúng lúc chiến tranh kết thúc. Tất nhiên ai cũng hiểu suy nghĩ của người cha, mọi bậc sinh thành đều muốn bảo vệ con mình. Ông biết Razhev có thể được thay thế vì chúng tôi có đủ sĩ quan cho 4 đại đội nhưng chỉ có 1 đại đội tham chiến.

Vụ scandal cuối cùng này của Razhev đã vượt quá khả năng chịu đựng của 1 người vốn trầm tĩnh như Baturin và George bị chuyển khỏi tiểu đoàn về đơn vị của cha mình ngay sáng hôm sau. Anh ta đi mà ko nói lời tạm biệt với bất kỳ ai, tôi nghĩ anh quá xấu hổ. Nhiều năm sau chiến tranh khi tôi tìm kiếm những bạn chiến đấu cũ trong Tiểu đoàn Trừng giới, tôi đã tìm thấy anh ở Penza, chúng tôi duy trì quan hệ thư từ với nhau cho tới khi anh mất. Quãng đời sống cùng nhau trên mặt trận, mọi hiểm nguy mà chúng tôi đã trải qua cùng nhau mạnh hơn những ký ức tồi tệ về các vụ scandal như vụ anh ta đã gây ra trong lễ mừng ngày 1/5/1945 ở Berlin. Sau đó 1 thời gian tôi ko nhận thêm được bức thư nào của anh, thêm vài năm nữa tôi nhận 1 bức công thư từ cục quân nhu Penza trả lời câu hỏi của tôi: "Đại uý George Razhev (đã nghỉ hưu) mất ngày 14/5/1993, an táng tại Nghĩa trang Danh dự Penza". Có lẽ anh đã chỉ "suy sụp" khi ở tiểu đoàn trừng giới còn sống suốt quãng đời còn lại 1 cách tử tế.

Trong suốt thời gian đó sở chỉ huy tiểu đoàn đã nhiều lần di chuyển tới các vị trí khác nhau xung quanh Berlin. Những đơn vị nhỏ bé còn lại ko phải nhận thêm nhiệm vụ nào nữa dù chúng tôi vẫn nhận thêm shtrafnik bổ sung. Chiến tranh đã đến hồi kết nhưng các toà án binh vẫn hoạt động, có lẽ họ đang vội vã hoàn thành nốt kế hoạch đề ra.

Chúng tôi đã có 1 buổi chia tay cảm động với ông già tốt bụng Putrya, ông rời đơn vị với nước mắt trên mi và nỗi buồn thực sự trong mắt. Ông sẽ về ban nhân sự Phương diện quân hoặc 1 trung đoàn sĩ quan dự bị nào đó. Ông rời tiểu đoàn trừng giới với tư cách trung uý, tôi thậm chí đã biếu ông quân hàm của tôi, đã gỡ bớt đi số ngôi sao tương ứng (!). Ông được phục viên ngay sau ngày Chiến thắng và tôi sung sướng vì đã góp phần cứu đời ông, chắc chắn ông ko thể sống sót trong trận vượt sông Oder.

Cần vụ đầu tiên của tôi đã hy sinh tại đầu cầu Oder, sau đó Putrya thay thế và nay ông đã rời tiểu đoàn. Theo lệnh của kombat tất cả các sĩ quan đều sẽ có cần vụ tuyển từ các shtrafnik, tôi nhận 1 đại uý pháo binh tên là Sergey làm cần vụ cho mình. Tôi ko nhớ chính xác họ anh, hình như là Kostryukov, dân Moscow, tóc vàng, chiều cao trung bình, vẻ mặt lịch sự, sinh trưởng trong 1 gia đình có học. Anh ta chơi piano rất giỏi và đã được học hành tốt về âm nhạc và văn chương. Tôi ko nhớ rõ anh ta đã làm gì sai quấy ngay trước ngày chiến tranh kết thúc để đến nỗi bị tống vào tiểu đoàn tôi.

Vậy là những người mới tới đã ko phải tham chiến dù chúng tôi vẫn huấn luyện họ 6 - 7h mỗi ngày. Số phận của họ thật tốt, gần như ngay sau Ngày Chiến thắng họ được xá miễn. Sergey cho tôi địa chỉ nhà ở Moscow, trong lần nghỉ phép đầu tiên cuối năm 1946, trên đường về Viễn Đông, Rita và tôi đã lần đầu tiên ghé qua Moscow và tới thăm anh ở phố Kropotkinskaya. Tại đó có Cung Soviet đang xây dở và Nhà thờ Chúa Cứu thế. Sergey ko có nhà, dù từng phải vào tiểu đoàn trừng giới nhưng anh vẫn tiếp tục phục vụ trong quân đội ở đâu đó ko xa Moscow. Dù chỉ gặp những người thân của anh nhưng mọi người cũng thật vui vẻ và cảm động, họ đều đã biết chúng tôi qua những câu chuyện của anh.

Berlin thất thủ ngày 2/5, trước Ngày Chiến thắng đúng 1 tuần như chúng tôi biết sau này. Hôm 4/5 Baturin và Kazakov bằng cách nào đó đã kiếm được giấy phép cho tất cả chúng tôi vào Berlin thăm toà nhà Reichstag. Lại 1 lần nữa, giống như ở Rogachev, Brest hay Warsaw, chúng tôi đã ko được tham gia trận tấn công thành phố dù đã góp sức vào cuộc tiến công đó bằng rất nhiều mạng sống. Giống như ở Warsaw, chúng tôi đi vào Berlin chỉ như những du khách.

Phải mất rất nhiều thời gian mới tới được toà nhà Reichstag, trong nhiều trường hợp các con phố bị chặn bởi những toà nhà đổ hay xác tăng pháo. Ko hiểu sao tham mưu trưởng Philip Kiselev lại ngồi cùng xe với Baturin và bằng cách nào đó đã tìm được đường đi giữa thành phố xa lạ bị phá huỷ này. Berlin, thủ đô của Đế chế thứ 3, gây 1 ấn tượng u ám với tất cả chúng tôi ko chỉ bởi sự tàn phá của chiến tranh mà còn bởi hầu hết phố xá đều thẳng tắp đến mức nhàm chán, toàn bộ quy hoạch thành phố đều chính xác từng ly từng tí đến phát rầu.

Những dãy nhà hiện ra trước mắt chúng tôi với vẻ đáng ngờ, các cửa sổ hầu hết đều đã mất kính, 1 số có treo 1 mảnh vải trắng trông như những lá cờ tang, đó là dấu hiệu đầu hàng. Phía sau những cửa sổ còn giữ được kính hay được che tạm bằng thứ gì đó khác cuộc sống vẫn tiếp diễn. Nhiều cánh cửa đã mất cùng với cả mảng tường xung quanh khiến căn nhà trông như hàm răng móm của 1 cụ già. Những phần tường còn lại đều xám xịt bẩn thỉu. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng thấy có người đang nhìn qua cửa sổ hay xuất hiện trên phố, trông họ cũng mệt mỏi và xám xịt. Phần lớn họ là phụ nữ, người già hay những đứa trẻ hiếu kỳ, giống như tại khắp các quốc gia khác.

Thỉnh thoảng chúng tôi đi qua 1 đám Volkssturm hay Hitlerjugend vị thành niên, tất cả trông đều thảm hại, chúng đang được áp giải tới điểm tập trung tù binh. Chúng đã hy vọng bảo vệ được Đế chế của chúng khi nó đã ở bên bờ vực sụp đổ, nhiều kẻ đã bỏ mạng chỉ vì ý tưởng điên loạn của tên Fuehrer rồ dại. Nhiều tên khác cố trốn trong các toà nhà, thay quân phục bằng đồ dân sự để hoà lẫn vào đám đông dân chúng.

Tôi còn nhớ chúng tôi vào thành phố theo đường qua sông Spree và bị tắc đường trước 1 cây cầu gãy. Những khung cầu thép vẫn còn nằm dưới nước và nhờ đó chúng tôi qua được sông, tới thẳng quảng trường trước toà nhà Reichstag. Chúng tôi đi thẳng tới toà nhà, còn cách 1 quãng đã ngửi thấy mùi khói bốc ra từ những đám cháy vẫn còn âm ỉ. Khói vẫn còn đang bốc ra từ vài cửa sổ trên toà nhà khổng lồ đen xạm. Trông nó chẳng có vẻ lộng lẫy chút nào! 1 lá cờ đỏ, cờ Soviet của ta, đang tung bay trên khung thép của mái vòm vốn được ốp kính! Đó ko chỉ là 1 lá cờ bình thường, đó là Ngọn cờ Chiến thắng!
Logged

IN PAUL WE TRUST
Paul the Octopus
Thành viên
*
Bài viết: 537


St. Paul


« Trả lời #84 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2010, 12:53:20 pm »

Cầu thang lớn và những hàng cột trước mặt tiền đầy vết đạn. 1 trung uý trẻ bước ra gặp nhóm sĩ quan chúng tôi, Baturin nói gì đó với anh ta. Ông bảo chúng tôi chờ rồi vào trong với viên trung uý. Ngay sau đó viên trung uý quay ra bảo chúng tôi được phép vào. Chỉ có vài binh sĩ tại tiền sảnh khi chúng tôi vào, kombat đang đứng cùng 1 viên đại tá vừa lùn vừa gầy, khác hẳn vóc người mập mạp của Baturin. Viên đại tá gầy nhẳng đang kể chuyện gì đó cho Baturin kèm với những cử chỉ sống động.

... Như sau này tôi được biết viên đại tá đó là chỉ huy trung đoàn đã tấn công toà nhà Reichstag và sau đó được chỉ định luôn làm sĩ quan quân quản toà nhà. Số phận đã đưa tôi gặp lại ông 30 năm sau, khi đó tôi là trưởng khoa ROTC Học viện Cầu đường Kharkov đang hướng dẫn học viên tại Cherkassy, Ukraina. Trước khi các học viên tuyên thệ, tôi được giới thiệu tới chào Anh hùng Liên Xô, đại tá Fedor Matveevich Zinchenko. Cả khuôn mặt và bộ dạng ông trông rất quen, và khi ông tự giới thiệu là chỉ huy trung đoàn đánh chiếm toà nhà Reichstag, tôi lập tức nhận ra ông chính là vị sĩ quan quân quản đầu tiên của toà nhà này ...

Trở lại năm 1945, khi chúng tôi bước vào toà nhà Reichstag, mọi tường, cột và các cấu trúc khác đều bị tàn phá nặng nề và ám đầy khói, mọi bề mặt đều phủ đầy chữ ký của các binh sĩ Soviet. Hôm đó mới là 2 ngày sau khi toà nhà này thất thủ nhưng các bức tường đã phủ đầy các thông điệp dài ngắn đủ kiểu mà vì hết chỗ người ta phải viết cả ở độ cao đến khó tin. Các dòng chữ được viết bằng phần, gạch hoặc than.

Petr Zahumennikov, người đã trở lại từ quân y viện, giúp tôi đặt 1 tảng bê tông cạnh tường để tôi trèo lên, Rita và Petr đỡ 2 bên để tôi khỏi ngã. Với 1 mẩu gỗ cháy dở, 2 vợ chồng tôi ghi chữ Viễn Đông - Leningrad - Berlin lên rồi ký tên. Rita khi đó vẫn ghi họ mình là Makarievskaya, cô ko còn cơ hội nào để sửa lại chữ ký trên tường toà nhà Reichstag nữa.

Chúng tôi bỏ túi vài mảnh vữa và gạch đá làm kỷ niệm, để cho bản thân và cho cả những người ko tới đây được, cả con cháu sau này nữa. Tiếc là tôi đã ko giữ được chúng, cũng giống như cái thìa cong gập vì đạn trước đây. Thậm chí cả viên đạn xuyên vào mông tôi được lấy ra sau chiến tranh tôi cũng ko còn, nó được phẫu thuật lấy ra tại Brest 1 năm sau khi xuyên vào.

Vì 1 số lý do, hồ đó chúng tôi ko muốn lưu giữ bất cứ kỷ vật gì liên quan đến cuộc chiến ghê rợn này. Chiến thanh với chúng tôi như 1 vết thương, cả thể xác lẫn tinh thần, ký ức về chiến tranh đã quá đủ cho suốt phần đời còn lại.

Chúng tôi chờ đợi sự kiện nước Đức đầu hàng hết ngày này qua ngày khác. Tôi phải nhắc lại 1 bài thơ tôi viết từ năm 1944 trong đó có đoạn: "Tiếng reo mừng Chiến thắng sẽ vang lên như sấm tháng 5!" Vậy mà mùa xuân đã sắp hết, tháng 5 đã bắt đầu nhưng Chiến thắng chưa tới. Tham mưu phó Valery Semykin đặt đường điện thoại cho Baturin, các tiểu đoàn phó, Kiselev, Rita và tôi cùng 1 số sĩ quan khác. Các điện đài viên được lệnh sẽ thông báo chúng tôi ngay khi có tin Chiến thắng.

Thời khắc đó đã đến vào đêm 8/5! Ít phút sau nửa đêm 1 điện đài viên lao vào phòng tôi gào lên: "Chiến thắng, chúng đầu hàng rồi! Hurrah!" Lễ mừng Chiến thắng bắt đầu còn trước cả khi chúng tôi kịp mặc quần áo. Mọi người đều nã súng lục, súng tiểu liên, súng máy lên trời. Tôi thậm chí còn nghe thấy cả những tiếng "bang" rất to của súng trường chống tăng. Thứ duy nhất chúng tôi ko dùng để bắn chỉ thiên khi đó là súng cối. Hàng trăm ánh chớp đủ màu sắc, kích cỡ phóng lên trời cùng với khói mù mịt. Đạn vạch đường bắn đầy trời từ mọi hướng. Ko cần phải tiết kiệm đạn nữa! Ai nấy đều ôm chầm lấy nhau hôn hít, nhiều người khóc, chẳng ai cần xấu hổ vì những giọt nước mắt hạnh phúc.

Chúng tôi thậm chí còn nghe thấy cả tiếng đại bác bắn từ ngôi làng bên cạnh, nơi có 1 đơn vị pháo binh đang đóng. Chắc họ bắn đạn ko đầu chứ nếu là đạn thật thì ko hiểu nó sẽ rơi xuống đâu? Tôi nhớ đã tự hỏi mình rằng ko hiểu tất cả số đạn đang được bắn lên trời này sẽ rơi xuống đâu? Mặc dù đây là đất Đức nhưng là khu dân cư sống dày đặc. Lấy gì đảm bảo 1 viên đạn ko rơi trở lại trúng người đã bắn nó ra hay 1 thường dân Đức hiền hoà? Đương nhiên tôi ko muốn ai bị giết vì màn pháo hoa trong cái đêm ko ngủ mừng hoà bình đó.

Đến sáng sớm thì chúng tôi đã bắn sạch đạn và tập trung tại sở chỉ huy, Baturin và Kazakov bước ra trước đám sĩ quan và kombat tuyên bố đúng giữa trưa giờ Moscow, tiệc mừng chiến thắng sẽ được tổ chức cho toàn tiểu đoàn. Ông cũng yêu cầu chuẩn bị bàn riêng cho cho các shtrafnik.

Mọi người đều diễn thuyết, có cái dài, có cái ngắn nhưng tất cả đều nói về niềm vui Chiến thắng và nỗi đau mất mát cùng hy vọng hoà bình hạnh phúc trong tương lai. Mọi bài diễn thuyết đều kết thúc bằng 1 lần nâng cốc và sau đó là uống 100%. Có lẽ đó là lý do chúng tôi ko để cốc uống trà trên bàn mà thay vào đó là chén hạt mít chỉ dùng trong thời bình. Ko hiểu người ta kiếm đâu ra thứ chén này? Tuy nhiên vẫn có nhiều sĩ quan thực sự xỉn. Có lẽ Baturin cũng vui vẻ quá mức và bất ngờ gọi tôi ra nói riêng về chuyện tôi đã bị nghi ngờ trong 1 thời gian dài như thế nào.

Thì ra tướng Batov quả thực đã lệnh cho đại đội tôi tấn công qua bãi mìn. Mặc dù tôi đã có câu trả lời chắc chắn với mối nghi ngờ này nhưng nó vẫn tra tấn suy nghĩ của tôi. Ko hiểu tướng quân có ra lệnh này theo đề nghị của Baturin ko? Tin này làm tôi bị shock, tôi lại đau đầu kinh khủng và ngất xỉu. Cả lần này tôi cũng nghĩ mình ngất vì đã uống quá nhiều dù bị Rita theo dõi nghiêm ngặt để ko ai rót vodka vào cốc của tôi. Cô chỉ rót cho tôi ít vang nhẹ vốn được bác sĩ Stepan Buzun đưa cho cô để đặc biệt dành riêng cho tôi. Có vẻ như nhiều người chưa uống nhiều lắm, những bài diễn văn của họ vẫn nhạy bén và tràn đầy hy vọng.

Chúng tôi đã mơ ước về cuộc sống hoà bình sau chiến tranh thậm chí từ rất lâu trước ngày Chiến thắng. Chúng tôi đã vẽ nên những bức tranh lạc quan nhất về tương lai. Tôi nghĩ điểm chính trong mọi suy nghĩ đó là được trở về nhà, tất nhiên là với những người vẫn còn nhà mà về. Giờ đây, rất nhiều năm sau cái ngày Chiến thắng đầy nắng đó, tôi nhìn lại quãng đời sau chiến tranh. Chúng tôi đã làm việc vất vả, có đủ con, cháu và cả chắt. Vậy mà buồn làm sao Tổ quốc vĩ đại của chúng tôi đã bị huỷ hoại và tan vỡ làm nhiều mảnh năm 1991, chẳng phải do cuộc xâm lăng nào! Tổ quốc vinh quang mà vì nó biết bao người đã hiến dâng mạng sống trong WW2!

Dù sao thì cuộc chiến tranh tang tóc, ghê rợn và kéo dài nhất đó đã qua. Cái gì tiếp theo? Số phận chúng tôi sẽ ra sao? Ko phải tất cả sẽ được về nhà, vẫn còn cần quân đội. Nhiều sĩ quan, mà với tiểu đoàn trừng giới là hầu hết sĩ quan còn lại, vẫn phải tiếp tục phục vụ quân đội. Tham mưu các cấp đều đã nhận được lệnh và bố trí sĩ quan. 1 số được giải ngũ, số còn lại vẫn tiếp tục phục vụ, 1 số trong đó sẽ còn phải chiến đấu và chiến thắng nước Nhật!

Sau này tôi biết được kombat Baturin đã đánh giá xác đáng về chất lượng chỉ huy chiến đấu của tôi trong bản giới thiệu cho đơn vị mới, tuy nhiên ông viết thêm rằng tôi "ko có quan hệ tốt với binh sĩ". Có lẽ ý ông là tôi đã dành 1 phần quỹ thời gian cho vợ! Mặc dù chính tôi mới là người có được nickname âu yếm "bố" trong đám shtrafnik nhưng ông ta vẫn thêm 1 câu kết như vậy. Ngoài ra trong bản giới thiệu của ông có đoạn như sau:

"Là 1 sĩ quan dũng cảm và cương quyết, đọc trận đánh tốt, chịu được gian khổ, sức khoẻ tốt. Có khả năng tổ chức phối hợp giữa các đơn vị nhỏ và các đơn vị phối thuộc, kiên cường cả về thể chất lẫn tinh thần, chăm chỉ học tập nâng cao kiến thức. Đề nghị giữ lại quân đội với chức vụ tiểu đoàn trưởng bộ binh."

Vậy là tương lai của tôi đã được quyết định cho dù Baturin chẳng bận tâm đến việc nghe nguyện vọng của bản thân tôi. Tôi ko bực vì chuyện này vì đề nghị giữ tôi lại quân đội phù hợp với mong muốn của tôi. Dù sao khi còn là 1 Hồng quân trẻ được gửi vào Học viện, tôi đã từng tự nhủ: "Tốt thôi! Mình sẽ phục vụ quân đội 1 cách "nồi đồng cối đá", tức là càng lâu càng tốt!" Vậy là tôi đã phục vụ quân đội 40 năm, từ 1941 đến 1981, 1 cách trung thành và ngay thẳng.
Logged

IN PAUL WE TRUST
Paul the Octopus
Thành viên
*
Bài viết: 537


St. Paul


« Trả lời #85 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2010, 12:53:39 pm »

11
CHIẾN THẮNG!

Ngày hoà binh đầu tiên, dù ai nấy đều hạnh phúc, vẫn phủ bóng đen trong suy nghĩ của tôi với việc Baturin thừa nhận đã cố tình đưa đại đội tôi vào bãi mìn. Tôi cảm thấy suy sụp vì thương xót cho những người đã hy sinh tại đó. Giờ họ đang nằm cùng nhau trong nấm mồ tập thể trên mảnh đất ngoại quốc xa lạ, dưới 1 bầu trời xám xịt xa lạ, việc họ chiến đấu chống kẻ thù sẽ chỉ còn tồn tại trong ký ức vĩnh cửu và niềm tiếc thương vô hạn của chúng tôi, những đồng đội và người thân. Vâng, tất cả chúng tôi đều biết lệnh đã ban ra thì phải theo ko được ý kiến gì hết, đặc biệt là trong thời chiến. Tuy nhiên chúng tôi cũng hiểu chính xác rằng 1 mệnh lệnh cần được đưa ra 1 cách hợp lý, có tính toán và trên hết là phải có tình người, kể cả trong chiến tranh.

Dân Đức đã dần làm quen với thực tại mới. Họ chấp nhận thực tế rằng "Đế chế ngàn năm" đã sụp đổ và ko bao giờ khôi phục nổi. Chúng tôi cũng bắt đầu chú ý tới phong tục tập quán của họ, 1 số trong đó hoàn toàn trái ngược với cách hiểu của chúng tôi về văn hoá và đạo đức. Ví dụ, mặc dù đã quen với tất cả những bất tiện của cuộc sống tiền tuyến, chúng tôi vẫn cho rằng tè trước mặt người khác là ko tốt, dù là vào 1 gốc cây hay tô hô. Vậy mà thật kỳ quặc, chúng tôi đã thấy cả đàn ông lẫn đàn bà Đức làm vậy.

1 trường hợp khác, ông chủ căn hộ chúng tôi ở biết rằng vợ tôi đang mang bầu. 1 đêm ông ta gõ cửa phòng chúng tôi và sau khi tôi nói "Ja, bitte!" (Vâng, xin mời vào), ông ta bước vào cùng 2 cô con gái vị thành niên. Ông ta bảo "Bà Thiếu tá" đang mệt và cần được ngủ, vì vậy tôi nên qua đêm với 1 trong 2 cô con gái ông. Có lẽ đó chỉ là 1 trò khiêu khích, nhưng chúng tôi vẫn cảm thấy bị xúc phạm và chuyển đi ngay sáng hôm sau.

Về cơ bản người Đức khiến chúng tôi ngạc nhiên vì sự vô đạo đức và ko biết xấu hổ là gì của họ. 1 ngày nắng ấm có mấy người bạn tôi tới, họ vừa có 1 chuyến thăm thú khu vực xung quanh Leipzig và rủ chúng tôi ra hồ bơi và tắm nắng. Khi tới nơi chúng tôi thấy cái hồ rất đẹp và định dọn tới ở. Có rất nhiều người tốt sống ở đây, đặc biệt là có nhiều thanh niên Đức. Chúng tôi thấy có nhiều căn lều nhỏ dựng đây đó và đoán nó dùng để tránh nắng hay thay đồ bơi. Nhưng rồi chúng tôi nhận ra có những cái chân thò ra khỏi nhiều căn lều và căn cứ vào vị trí cũng như nhịp chuyển động của chúng, chúng tôi hiểu chính xác đó là 1 cặp đôi Đức và họ đang làm gì, gần như hoàn toàn công khai. Chúng tôi cảm thấy kinh tởm và rời hồ ngay lập tức, chuyện đó là vào khoảng 1 năm sau Ngày Chiến thắng.

1 số sĩ quan ta sống ở ngoại ô Berlin tháng 5/1945 cũng ko tỏ ra tốt đẹp cho lắm. Ví dụ 1 lần chúng tôi được chuyển tới 1 căn hộ mới, chủ nhân của nó là 1 nhà quay phim của xưởng phim Defa nổi tiếng nước Đức, khi tới nơi chúng tôi nghe thấy có tiếng chó sủa rất to ở tiền sảnh. Chúng tôi biết trong nhà ko có chó và rất ngạc nhiên. Khi bước vào trong, chúng tôi thấy Nick Slautin, lúc này đã là thiếu tá, đang đứng trước mặt toàn thể gia đình chủ nhà cùng các đầy tớ trong tình trạng say xỉn và sủa như chó. Tôi lay anh ta, đá vào chân và trước khi tôi kịp hỏi anh đang làm cái trò gì thế, tự anh ta đã giải thích rằng anh ta đang chứng minh cho đám người Đức này Goebbel là loại "chó" nào.

Thường dân Đức nói chuyện với chúng tôi với vẻ dè dặt và tỏ ra lo lắng, tôi ko thể nói rõ được nhưng có thể kể tóm tắt 1 bộ phim, ví dụ tốt nhất về chính sách tuyên truyền của Goebbel. Ctrị viên Kazakov đã kiếm được 1 bản copy bộ phim này, 1 cuốn phim ghê tởm được làm theo đúng ý tưởng của Bộ Truyền thông Đức. Vấn đề là sự dối trá càng quá quắt thì lại càng có nhiều người tin. Dù đã rất lâu rồi nhưng lương tâm và đạo đức vẫn ko cho phép tôi kể chi tiết những gì đã thấy trong phim, nó là 1 bộ phim màu.

Trước hết, tất cả binh sĩ Soviet trong phim đều có 1 ngôi sao đỏ to tướng trên mũ và 2 sừng trên thái dương. Họ hiện lên trên phim như những tên đồ tể giết hại thường dân Đức bằng lưỡi lê hoặc bằng cách đập đầu vào cạnh tường, nhiều thứ khác còn kinh khủng hơn nữa. Mọi thứ trong phim được làm y như thật. Cuốn phim kinh dị kéo dài 20 phút này là 1 lời giải thích rõ ràng cho việc dân Đức sợ hãi bỏ chạy qua sông Oder đi càng xa càng tốt.

Ngay sau Ngày Chiến thắng, 1 nhóm sĩ quan Nga tổ chức ăn mừng việc gì đó, 1 người đã hỏi xin bà chủ nhà 1 cái đĩa nhỏ. Từ đó được đọc bằng thứ tiếng Đức "tan nát" của anh ta nghe giống như là 1 đĩa trẻ con. Bà chủ nhà rú lên lao về phía đứa bé vì nghĩ tay sĩ quan đang muốn xin đứa bé đặt trên đĩa. Ko may là chẳng có gì thú vị trong chuyện này. Chắc người phụ nữ đã đã xem cuốn phim tệ hại đó hoặc ai đó kể cho chị ta. Nó khiến chúng tôi phải tỏ ra hết sức lịch sự và khoan dung nhằm xoá bỏ ấn tượng mà bộ máy tuyên truyền Nazi ghê tởm đã tạo ra trong suy nghĩ người dân Đức.

Trở lại đêm 1/5, sau khi ngất xỉu trong bữa tiệc của Baturin tôi đã bị sốt suốt 3 ngày. Hôm đi thăm toà nhà Reichstag tôi đã đỡ nhưng đến hôm 9/5 tôi lại sốt, mặc dù ko ngất nữa nhưng tôi vẫn mê man suốt cả ngày. 2 - 3 hôm sau mọi thứ mới trở lại bình thường. Cơn sốt đã tra tấn tôi suốt mấy ngày đó dù tôi ko uống 1 giọt rượu mạnh nào. Sau đó những cơn sốt cứ quay lại sau mỗi 7 - 9 ngày. Rita kể lại khi đi tìm tôi trong quân y viện, có bác sĩ đã nói: "Bị thương vào đầu àh, vậy thì anh ta sẽ sốt, thường là do nhiễm trùng. Tốt hơn cô nên tìm anh ta trong nhà xác ..." Bác sĩ tiểu đoàn tôi cũng ko hiểu nổi điều gì đang xảy ra.

Tôi cố ko làm gì kích thích để cơn sốt trở lại và nghĩ nó ko phụ thuộc vào rượu. Thậm chí khi chúng tôi, những người đã tham gia trận đánh vượt sông Oder, nhận huân chương nhờ trận này, tôi cũng ko uống ngụm rượu nào trong bữa ăn mừng. Các trung đội trưởng đều nhận Huân chương Alexander Nevski hoặc Bogdan Khmelnicky (*), tôi và Nikolai Slautin, người thay thế tôi trong trận đánh, được nhận Huân chương Cờ Đỏ Chiến đấu (**). Ai nấy đều muốn những tấm huân chương sáng bóng lên, vì thế họ định bọc phần oxite màu đen trên đó bằng thuỷ ngân lấy từ 1 chiếc nhiệt kế bị đập vỡ cho mục đích này. Tuy nhiên Huân chương Cờ Đỏ chỉ có 2 chỗ màu đen, đó là cái liềm và cái búa, còn toàn bộ nền là men trắng, những chỗ còn lại mạ vàng. Những người nhận các loại huân chương khác cũng muốn tấm huân chương của mình trông đẹp hơn. Nhưng thuỷ ngân khi tiếp xúc với lớp mạ vàng đã lập tức biến lớp mạ này thành màu bạc lờ nhờ, vậy là tôi có 1 tấm huân chương mạ bạc thay vì vàng.

Tôi đã phải bọc phần mạ bạc này bằng sơn màu đồng với ý định làm cho nó trông giống với màu nguyên thuỷ. Chỉ đến khi đi học tại Học viện Quân Sự Leningrad mới có người chỉ cho tôi viết thư gửi Soviet Tối cao Liên Xô đề nghị đổi cái cũ hỏng lấy 1 tấm huân chương mới. Nói thật là tôi ko mong sẽ được như ý, nhưng 1 tuần sau tôi đã nhận được 1 bức Công thư do Chủ tịch Soviet Tối cao Liên Xô Nikolai Mikhailovich Shvernik ký. Bức thư giới thiệu tôi mang huân chương tới Sở Đúc tiền Leninrad đồng thời lệnh cho Giám đốc Sở sửa nó, "số quý kim tiêu tốn vào việc này sẽ được lấy từ kho dự trữ của Soviet Tối cao". Tôi giao tấm huấn chương và 5 ngày sau nhận lại nó, trông nó hoàn toàn mới, thậm chí cả phần mạ vàng và phần búa liềm màu đen. Tôi thậm chí đã ko dám chắc nó là tấm huân chương của mình, nhưng khi nhìn hàng số dập trên mặt trái, tôi vẫn thấy vết trầy rất dễ thấy của tấm huân chương cũ còn nguyên. Đó là tấm huân chương "yêu quý" của tôi có được trong trận Oder, đến giờ nó vẫn lấp lánh với đầy đủ lớp mạ trên quân phục tôi.

Bác sĩ tiểu đoàn Buzun thông báo cho kombat rằng cần cho tôi đi viện gấp vì 1 căn bệnh chưa rõ. Họ đưa tôi tới thị trấn Neu - Ruppin, có 1 bệnh viện tại đó. Sau vài ngày mà chẳng có thêm cơn sốt nào, họ cho ra viện với chẩn đoán viêm nhiễm sau hôn mê, như họ giải thích thế nghĩa là viêm nhiễm trên vỏ não là kết quả của sự chấn động sau khi tôi bị thương. Như thực tế chứng minh, đó vẫn ko phải lý do chính dẫn tới những cơn sốt kỳ quái này! Tới tháng 6, những cơn sốt tồi tệ của căn bệnh chưa được biết tới đã khiến cơ thể tôi suy nhược thấy rõ. Tiểu đoàn bắt đầu giải thoát cho các shtrafnik đã được lệnh xá miễn nhân dịp Đại Thắng, thậm chí cả những người chưa hề tham chiến.

Tôi báo cáo kombat xin được đưa vợ về Leningrad, nơi cô từng sống trước chiến tranh, hoặc về Rembertuv ở Warsaw, nơi quân y viện cũ của cô từng đóng và mẹ cô, 1 thượng uý quân y, vẫn còn đang phục vụ tại đó. Đường sắt đã hoạt động và tàu tốc hành Moscow - Berlin chạy rất đúng giờ. Kombat chấp nhận đề nghị này, có lẽ để đỡ phải mang gánh nặng trách nhiệm với căn bệnh kỳ quái của tôi. Các giấy tờ cần thiết được làm nhanh chóng và ngày hôm sau kombat giao chiếc jeep Willy của ông cho tham mưu trưởng Kiselev chở tôi ra ga Silesian, Berlin. Valery Semykin và Vasily Tsigichko xin ra tiễn nhưng kombat ko chịu để quá nhiều người lên chiếc jeep của ông.

(*) Các loại huân chương dành cho sĩ quan trong chiến tranh này được đặt theo tên các tướng lĩnh Nga và Ukraina tài ba. Alexander Nevski được xem như thần hộ mệnh của quân đội Nga, đã đánh bại quân Thập tự chinh Thuỵ Điển trên sông Neva năm 1240 và quân Hiệp sĩ Teutonic trên mặt hồ Peipus đóng băng năm 1242. Bogdan Khmelnicky lãnh đạo quân Ukraina trong cuộc chiến tranh dành độc lập trước người Ba Lan và đã nhiều lần đánh bại quân Ba Lan.

(**) Cách gọi tên Huân chương Cờ Đỏ thường dùng để phân biệt với Huân chương Cờ Đỏ Lao động (có từ năm 1928) trao cho các thành tích đặc biệt về công nghiệp, khoa học, quản lý Nhà nước hoặc đời sống xã hội.
Logged

IN PAUL WE TRUST
Paul the Octopus
Thành viên
*
Bài viết: 537


St. Paul


« Trả lời #86 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2010, 12:54:05 pm »

Lại 1 lần nữa chúng tôi phóng xe qua Berlin, thành phố ko có nhiều thay đổi kể từ tháng 5/1945 ngoại trừ việc những đống đổ nát trên phố xá đã được dọn sạch, ko còn cờ trắng trên cửa sổ và đã có nhiều người đi trên đường hơn. Chúng tôi thường xuyên bắt gặp những bếp dã chiến quân ta đang cung cấp đồ ăn cho người già và trẻ em. "Vậy đấy," tôi nghĩ, "Hồng quân đâu có "nướng" trẻ em Đức mà là cho chúng ăn. Dân chúng đang đói, họ kêu gào chen lấn xung quanh những bếp dã chiến".

Philip tìm đường giữa thành phố khổng lồ này 1 cách dễ dàng ko thể tưởng, anh quyết định lái xe qua Cổng Brandenburg theo đại lộ Unter Den Linden nổi tiếng. Chúng tôi nhanh chóng tới ga và đến gặp ban quân quản. Tất cả vé tàu đã bán hết, chỉ còn vé đặt sẵn. Đây là số vé do ban tham mưu của Nguyên soái Zhukov đặt, nếu họ ko cần nữa thì mới được bán 1h trước khi tàu chạy, đã có rất nhiều sĩ quan trẻ đứng trước quầy vé, 1 cáo thị dán trước cửa sổ quầy cho biết các sĩ quan cấp tướng và người sở hữu Sao Vàng Anh hùng Liên Xô sẽ được phục vụ trước (*), tiếp đó là các sĩ quan cao cấp. Ko thấy vị anh hùng hay viên tướng nào quanh đó nên chúng tôi bước luôn lên hàng đầu! Mong sao sẽ có tối thiểu 2 vé thừa! Tuy nhiên vài phút trước khi cửa quầy mở, 1 thượng sĩ pháo binh với Sao Vàng và 2 hàng huân chương trên ngực xuất hiện. Tim tôi chìm xuống tận dạ dày, điều gì sẽ đến nếu chúng tôi ko mua được vé? Tuy nhiên mọi thứ đều tốt đẹp. Viên thượng sĩ mua được vé đầu tiên, sau đó là chúng tôi và thêm 2 - 3 sĩ quan nữa. Thật là sung sướng! Đoàn tàu đã chờ sẵn trong ga, mọi người đã lên gần hết. Vài người nhanh chóng đỡ chúng tôi lên tàu và chúng tôi tạm biệt họ, cũng có thể là vĩnh biệt. Vậy là chuyến hành trình bắt đầu.

Đoàn tàu nhanh chóng tăng tốc trong khi chúng tôi vẫn còn đứng trên hành lang. 1 cửa sổ mở toang vẫn ko làm át đi mùi Đất Mẹ trong ko khí, chúng tôi gần như đã đứng trên đất nước mình. Viên thượng sĩ với Sao Vàng Anh hùng đứng bên cửa sổ cạnh đó. Bất đồ tôi nhận thấy khi ko còn ai khác trong khoang, ko còn ai theo dõi nữa thì anh ta tháo luôn Sao Vàng và mấy hàng huân huy chương trên áo ra, ném tất cả qua cửa sổ! Nhận thấy vẻ sửng sốt và bối rối của tôi, anh ta bước lại và kể toẹt câu chuyện của anh ra: "Thậm chí cả anh, 1 đại uý cũng có thể ko kiếm được vé lên tàu, rất nhiều sĩ quan khác cũng đang phải ở lại vì ko có vé, vậy 1 thượng sĩ nhỏ nhoi như tôi làm sao mà kiếm được 1 vé trong khi vợ tôi ở Moscow đang sắp sinh. Tôi là 1 thợ rèn của pháo binh, vì thế tôi đã làm rởm ngôi Sao Vàng này và cả dãy huân huy chương, trong đó có cả 1 chiếc theo mẫu Huân chương Lenin (**). Thật may là ko ai hỏi giấy chứng nhận những danh hiệu đó ở quầy vé. Thế là tôi đã ở đây, trên chuyến tàu về thẳng nhà. Giờ tôi chẳng lo người ta kiểm tra giấy tờ gì nữa. Tự tôi có thể thoả thuận với lương tâm về trò bịp bợm này." Tôi có thể hiểu sự táo tợn và cương quyết của anh, thậm chí còn hiểu rất rõ nữa là khác vì chính tôi cũng đang đưa vợ đi đẻ.

Những đợt vận chuyển quy mô lớn đã bắt đầu, binh lính được tàu hoả đưa tới Viễn Đông để hoàn tất cuộc chiến chống Nhật hoặc phục viên về Moscow và các thành phố khác. Nhiều người hẳn còn nhớ những sự kiện này qua tài liệu và phim ảnh, ví dụ như phim "Ga Belorussia" (***), chúng tôi thì đã tận mắt chứng kiến tất cả những chuyện đó. Chúng tôi đã thấy rất nhiều người đi lậu, thậm chí họ ngồi cả trên nóc toa tàu Berlin - Moscow, họ ko muốn bỏ tiền mua vé và đợi chuyến sau vì đang vội về nhà sau quá nhiều năm xa cách. Ai cũng nhận thấy hệ thống đường sắt Đức rất tốt, nhiều điểm giao cắt được thay bằng cầu vượt, đường ô tô nằm trên đường sắt. Những cây cầu vượt này gây nguy nhiểm cho những người ngồi trên nóc toa, 1 tai nạn như vậy cũng đã xảy ra trên chuyến tàu của tôi. 1 người lính ở ngay trên nóc toa của tôi vì cũng muốn về nhà sớm, có lẽ anh ta đã ko chú ý đoàn tàu đang tới gần 1 cây cầu vượt và đã đứng hoặc đi bộ trên nóc toa. Đầu anh ta đập vào cầu và thân thể bay ra khỏi đoàn tàu, chết ngay. Có lẽ trưởng tàu đã phát hiện thấy và đoàn tàu dừng lại. Tuy vậy sau đó đoàn tàu vẫn đi tiếp với 1 vết máu chạy dài bên sườn. Thật là 1 cảm giác cực kỳ khó chịu khi thấy người lính đã sống sót qua chiến tranh mà lại ko thể sống sót trở về nhà, cảm giác này khiến chúng tôi buồn mất 1 lúc lâu.

Chúng tôi sớm vượt qua sông Oder và sau đó là biên giới nước Đức. Sự tương phản giữa thường dân nước Đức bại trận và nước Ba Lan mới được giải phóng thật rõ ràng! Tại mỗi ga mà đoàn tàu dừng lại dù chỉ trong vài phút, cả đám người bán hàng lập tức vây kín nó theo đúng nghĩa đen. Họ bán đủ thứ từ đồ ăn thức uống đến đồng hồ, bật lửa, giày và các loại quân phục Đức. Trong giàn hợp xướng những lời rao có thể nghe thấy "mleko zimne, kawa goronza" tức là sữa lạnh và cafe nóng; "zapalki, bibulki" là bật lửa và giấy cuốn thuốc lá. Cũng nghe thấy cả "bimber" và "Monopolka" nhưng hiếm hơn. Dân Ba Lan gạ mua bán mọi thứ, hình như toàn thể dân chúng sống quanh các ga, làng mạc và thị trấn đều trở thành con buôn, thật khó nói nhóm nào đông hơn, trẻ con, trẻ vị thành niên, đàn ông hay đàn bà, tất cả đều bị cuốn vào cơn lốc thử thời vận và săn tìm lợi nhuận. Họ sử dụng tất cả các loại tiền, zloty Ba Lan, mark Đức hoặc Reichsmark, rouble Liên Xô. Tình trạng vẫn tiếp tục cho tới tận Warsaw.

Chúng tôi nhận thấy tại Warsaw đoàn tàu sẽ chỉ dừng lại ga Rembertuv 1 - 2 phút. Chúng tôi cũng ko cần nhiều thời gian để xuống tàu vì chẳng có nhiều hành lý, Rita chỉ có vài bộ váy bầu. Đoàn tàu vượt sông Vistula, trông nó thật đẹp và yên bình, trên cây cầu đã được sửa lại, qua Praga, ngoại ô Warsaw nằm trên bờ trái sông Vistula và vài phút sau đã tới Rembertuv, điểm cuối chuyến hành trình của chúng tôi.

(*) Các anh hùng Liên Xô và người được tặng thưởng Huân chương Danh dự (cả 3 hạng) có nhiều đặc quyền trong xã hội Nga, trong đó có quyền ko cần xếp hàng tại bất kỳ cửa hàng hay cơ quan nào.

(**) Huân chương Lenin là huân chương quân đội cao quý nhất của Liên Xô, được trao tặng cùng với Sao Vàng Anh hùng Liên Xô.

(***) Các đoàn tàu chở đoàn quân chiến thắng trở về ga Belorussia tại Moscow.
Logged

IN PAUL WE TRUST
Paul the Octopus
Thành viên
*
Bài viết: 537


St. Paul


« Trả lời #87 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2010, 12:54:21 pm »

Đó là 1 ngày nắng đẹp giữa tháng 6. Chúng tôi hỏi sĩ quan quân quản tại ga vị trí quân y viện và anh ta thậm chí đã lệnh cho 1 xe tuần cảnh chở chúng tôi đi, vì vậy chúng tôi ko cần tìm địa điểm. Trước khi chiếc xe tiến vào toà nhà lớn của quân y viện người ta đã nhận ra chúng tôi và cả 1 đám bạn gái của Rita chạy ra đón. Tôi lập tức nhận ra Lusya Pegova và Zoya Farvazova, những người đã dự đám cưới tiền tuyến. Bác sĩ mổ Mira Gurevich cũng ở đó cùng 1 số cô gái nữa nhưng ko thấy Ekaterina Nikolaevna đâu. Đám chị em vui nhộn đó tình nguyện tổ chức 1 meshkanne cho chúng tôi theo cách nói của dân Ba Lan, tức là 1 buổi gặp mặt thân mật, mọi người đều rơm rớm nước mắt.

Có lẽ mẹ Rita đã biết chúng tôi đang đến qua thư, vì thế đã có sẵn 1 phòng bày biện rất đẹp dành sẵn cho chúng tôi tại ngôi nhà Ekaterina Nikolaevna đang ở. Stas, em trai Rita đã ko còn ở đây, cậu ta tròn 18 tuổi hồi tháng 5 và đã đi nghĩa vụ quân sự tại 1 cơ sở huấn luyện tân binh dã chiến đâu đó bên Đức, cậu đã chuyển từ đánh xe ngựa sang xe tải vì đã học lái xe trong thời gian rảnh hồi còn ở quân y viện. Trong những ngày chiến tranh cuối cùng, cậu đã chiến đấu ở đâu đó trên mặt trận gần Elbe vài ngày trước khi hội quân với lực lượng Đồng Minh tại đó, với tư cách lái xe hoả tiễn Katyusha. Cậu đã lái cỗ xe tới vị trí bắn và khi nó khai hoả, như sau này cậu kể, cậu đã sợ thực sự, tuy nhiên chính loạt đạn đó đã khiến cậu có quyền được xem là đã tham chiến trong WW2!

Cả nhà quyết định Rita sẽ ở lại quân y viện cho đến khi nào mẹ cô còn phục vụ tại đó. Đủ ngày đủ tháng cô sẽ sinh nở tại đây luôn, dưới sự hỗ trợ của các bác sĩ quen biết và đích thân bà ngoại tương lai. Tôi lại lên cơn sốt 3 ngày sau khi tới Ba Lan và cũng bị đưa vào quân y viện này luôn nhưng chẳng bác sĩ nào biết được đó là bệnh gì. Lại 1 lần nữa, sau 2 - 3 ngày mê man nhiệt độ của tôi đã trở lại bình thường. Tôi cảm thấy kiệt sức, các cơn sốt càng lúc càng làm tôi thấy khó khăn hơn.

Có 1 bệnh viện nữa, ko phải ngoại khoa như bệnh viện này, mà là nội khoa đóng trong 1 thị trấn cách Rembertuv ko xa. Tôi nhớ thị trấn đó tên là Vesela Gura. Họ giới thiệu cho tôi 1 chuyên gia từ bệnh viện đó là Pilipenko, 1 trung tá già tóc muối nhiều hơn tiêu với hàng ria rậm. Ông khám tôi rất kỹ và làm mọi xét nghiệm máu cần thiết rồi mang mẫu bệnh phẩm đi. Sau vài ngày vị bác sĩ quay lại với kết luận: "Bệnh nhân đã nhiễm bệnh sốt rét nhiệt đới!" Thật là 1 tin động trời, ko hiểu tôi đã nhiễm căn bệnh này từ nơi nào trên quả đất này khi mà nơi xa nhất về phía nam tôi từng đặt chân tới là Ufa? Quá trình truy tìm nguyên nhân đã xong, ơn Chúa, người ta đã biết tên bệnh và bắt đầu điều trị tích cực.

Tôi phải chuyển tới quân y viện nội khoa nơi người ta bắt đầu điều trị chuyên sâu với những mũi tiêm chống sốt rét và chống bệnh thiếu máu là kết quả của bệnh sốt rét. Binh sĩ bị đủ mọi thứ bệnh đều được mang tới đây. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ 1 lần người ta đang mang cả 1 đám cả sĩ quan lẫn binh lính bị ngộ độc rượu tới. Hậu quả thật thảm thương. Nhiều người bị mù hẳn, số khác chết. Đó là khoảng 1 - 2 tháng sau chiến tranh. Thật cay đắng với những người sẽ phải sống trong mù loà cũng như người thân của những người chết, tất cả chỉ vì họ ko thể từ chối sự cám dỗ khi muốn uống 1 thứ gì đó mạnh hơn.

Khi thể trạng cho phép, tức là giữa các cơn sốt của căn bệnh ngoại lai mà may là còn chữa được này, tôi lại tới thăm Rita lúc này đang chuẩn bị làm mẹ. Thể trạng tôi tốt dần lên từng tí một, các cơn sốt nhẹ dần và ít dần đi. Tôi được biết các nhân viên quân y viện của Rita đều rất tốt, cô lại tiếp tục làm việc tại bệnh viện và nhận tem phiếu lương thực ở đây, hồi đó việc này rất quan trọng.

1 học viện quân đội Ba Lan đóng cạnh quân y viện, ban nhạc quân y viện cũng tham gia vào đó. Có lẽ theo phong tục của Woisko Polsko (Quân đội Ba Lan - Maseo) họ còn bắt buộc phải học cả khiêu vũ cổ điển và thường tổ chức các đêm vũ hội. Rita thỉnh thoảng lại xin tôi đưa cô tới đó, tất nhiên tôi lo cho cô và ko chịu nhưng thật kỳ lạ, mẹ cô lúc nào cũng đứng về phía cô và thế là tôi buộc phải đồng ý. Trong 1 đêm khiêu vũ như vậy, 1 sĩ quan Ba Lan khá già đã mời Rita nhảy điệu nhảy rất phổ biến mazurka. Ông ta quì 1 chân trước cô và đặt lưỡi kiếm trước mặt, bạn nhảy sẽ phải nhảy hoặc bước qua lưỡi kiếm đó. Bạn phải thấy khuôn mặt sung sướng của Rita khi hoàn thành bước nhảy đó 1 cách cực kỳ tao nhã mới hiểu. Ông bạn nhảy cúi rạp xuống chào cô khi điệu nhảy kết thúc, hôn tay và nói lâu lắm rồi mới được nhảy với 1 bạn nhảy giỏi đến thế. Rita cực kỳ hạnh phúc và tự hào, đỏ cả mặt, nhưng khi về đến nhà cô nhận thấy quá trình sinh nở đã bắt đầu mặc dù như vậy là quá sớm so với tính toán của chúng tôi.
Logged

IN PAUL WE TRUST
Paul the Octopus
Thành viên
*
Bài viết: 537


St. Paul


« Trả lời #88 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2010, 12:54:33 pm »

Đêm đó Rita đã sinh hạ đứa con trai đầu lòng tại quân y viện Rembertuv. Chúng tôi đã phải chạy bộ tới viện xuyên qua cả thị trấn. Mẹ cô, Ekaterina Nikolaevna là bác sĩ phụ trách việc đỡ đẻ, bác sĩ phụ đỡ đẻ là Mira Gurevich. Bé chỉ nặng hơn 1kg chút. Tất nhiên việc sinh sớm ko phải hậu quả của điệu nhảy marzuka mà là cả 1 quá trình Rita và "ông nhóc" trong bụng đã phải trải qua trong chiến tranh, đặc biệt là trên mặt trận. Chiến tranh rõ ràng ko phải 1 bà đỡ tốt.

Đầu tiên chúng tôi muốn đặt tên con là Arkadi để nhớ tới kombat Osipov, vị chỉ huy đầu tiên của tôi trên chiến trường và là vị chỉ huy được yêu quí nhất. Tuy nhiên sáng hôm sau Rita nước mắt lưng tròng nói với tôi đêm qua cô đã mơ thấy cha. Ông đã chết đói khi Leningrad bị vây hãm, vì thế cô muốn đặt tên đứa con trai đầu lòng là Sergey để tưởng nhớ cha mình. Tốt thôi, tôi chẳng có lý do gì để phản đối. Con trai chúng tôi cũng dần có được cân nặng và chiều cao bình thường. Trong khi đó, ngay sau khi tôi có con, người ta đã quyết định phẫu thuật lấy viên đạn vẫn nằm trong người tôi suốt 1 năm qua ra, từ hồi tôi bị thương ở Brest. Ca phẫu thuật thành công dù viên đạn đã bắn trúng 1 vị trí cực kỳ bất tiện là mông tôi, khiến tôi ko thể ngồi hay nằm ngửa. Họ đã lấy viên đạn ra khá dễ dàng, chỉ cần gây tê cục bộ, tuy nhiên cơ thể tôi đã yếu nhiều do hậu quả của bệnh sốt rét dai dẳng và phản ứng lại 1 cách khó lường. Khi vừa bước ra sân quân y viện, tôi gần như ngất xỉu, thái dương và mặt vã mồ hôi lạnh và tôi chỉ vừa đủ sức để đứng vững. Thật may là có cái ghế dài cạnh cửa và tôi ngồi xuống đó, các nhân viên bệnh viện đi qua cho tôi ngửi "nước đái quỷ" và vài viên thuốc, nhờ đó tôi mới trở lại bình thường.

Căn bệnh sốt rét dần khỏi, các cơn sốt hiếm dần và ko nặng, ko làm tôi mê man nữa, tôi đã có thể và cần phải trở về tiểu đoàn. Tôi còn có 1 nhiệm vụ là phải khai sinh cho con và làm giấy hôn thú cho cuộc hôn nhân của mình. Tôi tới ban quân quản Warsaw với hy vọng sẽ nhanh chóng hoàn thành các thủ tục giấy tờ đó nhưng họ giải thích cho tôi rằng Lãnh sự quán Soviet đã được mở tại Warsaw và tôi cần chứng thực mọi vấn đề dân sự tại đó.

Tôi tìm thấy cơ quan này và nhận ra phải có mặt đủ 2 vợ chồng người ta mới cấp hôn thú, và muốn làm khai sinh cho con thì phải mang theo giấy chứng sinh. Vài ngày sau tôi quay lại Lãnh sự quán trong bộ quân phục oách nhất, huân huy chương lấp lánh đầy ngực trên chiếc xe của giám đốc quân y viện. Thủ tục đăng ký kết hôn lập tức trở nên đơn giản và nhanh chóng ko ngờ. Chẳng cần nhẫn, chẳng cần bản nhạc "Wedding March!" của Mendelssohn, tôi vẫn được đóng dấu "đã kết hôn" vào các giấy tờ cùng giấy chứng nhận kết hôn cho 2 vợ chồng và giấy khai sinh cho con. Tấm giấy khai sinh được ghi nơi sinh là "Warsaw, Ba Lan".

Đó là giữa tháng 9/1945. Tôi biết khi chiến tranh kết thúc, các Tiểu đoàn Trừng giới sẽ ngừng tồn tại nên quay về Berlin gấp. Tôi ko tìm thấy tiểu đoàn tại đó vì nó đã bị giải tán. Tôi đi sang Postdam tới sở chỉ huy GSOTG - Quân Soviet đồn trú tại Đức, vào ban nhân sự và được đại tá Kirov giải thích về trường hợp của mình cũng như đọc bản giới thiệu tôi cho đơn vị mới mà cựu kombat đã viết: "Thiếu tá Pylcyn là 1 sĩ quan đầy triển vọng, thích hợp để giữ lại lực lượng vũ trang". Tay thiếu tá này khi đó mới chưa đầy 22 tuổi.

Đại tá Kirov bới tìm đống giấy tờ, nhún vai rồi bảo tôi vì lý do nào đó tôi ko được đề cử huân huy chương nào nhân dịp kết thúc chiến tranh. Tôi nhận thấy mình chỉ được thêm Huy chương Vượt sông Oder và Huy chương Đã tham chiến trận Berlin. Đại tá nói thêm huân chương chỉ được trao cho các sĩ quan đã phục vụ tiểu đoàn trên 12 tháng tính đến Ngày Chiến Thắng và có mặt khi tiểu đoàn giải tán. Lúc này tôi đã có 4 huân chương và 1 Huy chương Dũng cảm nên ko thấy tiếc lắm, chỉ nghĩ rằng câu nói "xa mặt, cách lòng" sao mà đúng thật. Baturin đã nhân dịp này báo thù thói cứng đầu của tôi.

Tại ban tham mưu tôi gặp Vasily Nazykov, anh ta từng là thượng sĩ phụ trách hồ sơ nhân sự tiểu đoàn và nay đã lên trung uý, phục vụ tại ban tham mưu GSOTG. Anh ta xác nhận suy đoán của tôi, cho tôi biết khi thiếu tá Matvienko, cựu đại đội trưởng của tôi, nêu đề cử tặng huân chương cho tôi, Baturin đã gạt đề cử đó sang 1 bên, nói rằng tôi đã có những huân chương rất cao quý rồi. Khi các cựu sĩ quan tiểu đoàn trừng giới tập trung nhân kỷ niệm 45 năm Ngày Chiến thắng, tướng Kiselev, vốn là tham mưu trưởng tiểu đoàn Philip của chúng tôi, đã kể lại chuyện Ctrị viên Kazakov. Khi Kazakov nhận Huân chương Chiến tranh Vệ quốc theo đề cử của kombat, anh ta đã tới ban Ctrị Phương diện quân làm phiền họ với yêu cầu thưởng thêm 1 Huân chương Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, thật đúng là 1 sự xúc phạm tất cả những người khác trong tiểu đoàn. Anh ta chẳng quan tâm đến chuyện đó, ngay sáng hôm sau anh ta rời tiểu đoàn tới đơn vị mới mà ko từ biệt ai.

Quay lại lúc đó, đại tá Kirov nói với tôi ở Postdam: "Chẳng có chỗ nào để bổ nhiệm anh làm tiểu đoàn trưởng bộ binh vì rất có thể tiểu đoàn đó sẽ được giải tán ngay ngày mai. Cũng đã quá muộn để đưa anh tới Viễn Đông tham chiến chống Nhật. Tôi nghĩ với anh chiến tranh ở châu Âu này cũng đã là quá đủ." Đại tá đề xuất tôi nhận nhiệm vụ tiểu đoàn phó 1 tiểu đoàn quân cảnh độc lập trực thuộc ban quân quản Leipzig, 1 trong những thành phố lớn nhất có khu vực quân Soviet chiếm đóng tại Đức. Như tôi biết sau này, trước khi chính phủ Đức được tổ chức với đầy đủ chức năng, toàn bộ việc quản lý hành chính tại Đức nằm trong tay Ban Quân quản Soviet tại Đức (SMAG) nằm ngay trong ban tham mưu GSOTG và có chi nhánh tại 1 ban có trách nhiệm quản lý đất đai liên bang tại Saxony.
Logged

IN PAUL WE TRUST
Paul the Octopus
Thành viên
*
Bài viết: 537


St. Paul


« Trả lời #89 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2010, 12:54:41 pm »

1 thời gian sau, tôi nhận thấy hầu hết bạn chiến đấu cũ đều nhận công việc sĩ quan quân quản 1 thị trấn hoặc 1 làng hay 1 nhà ga. Công việc của họ là quản lý về mặt Ctrị, hành chính và kinh tế địa phương, nói đúng ra là họ phải làm việc như 1 quan chức địa phương. Tôi ko có gì phản đối việc được bố trí về tiểu đoàn quân cảnh, thậm chí còn thấy thoải mái vì nó là 1 tiểu đoàn độc lập giống như Tiểu đoàn Trừng giới trước kia. Điều đó có nghĩa là tiểu đoàn sẽ có quyền hoạt động như 1 trung đoàn trong khi tôi với tư cách tiểu đoàn phó có quyền hành như 1 tiểu đoàn trưởng ngoài mặt trận, điều đó hoàn toàn phù hợp với mong muốn của tôi. Tôi tới Leipzig ngay hôm sau và đã phục vụ vài năm tại đó.

Tiểu đoàn Quân cảnh Độc lập có trách nhiệm canh gác các cơ sở quân sự và công nghiệp cũ cùng các trạm điện tại Leipzig. Tiểu đoàn cũng phải canh gác các trụ sở quân quản, tuần tiễu đường bộ và đường xe lửa trong thành phố. Tham gia với các đơn vị quân đội bình thường khác trong việc truy tầm nhưng tên Waffen SS, SD (*) và Wehrmacht vẫn còn lẩn lút trong rừng. Tôi có thể kể 1 trường hợp điển hình khi bắt được mấy tên Đức và phát hiện ra cả 1 kho vũ khí bí mật, phải mất 20 chuyến xe tải Studebaker mới chở hết số vũ khí đó ra khỏi kho. Sau khoảng 1 năm phục vụ tại tiểu đoàn quân cảnh, tôi được thăng chức làm sĩ quan chính quy cao cấp về các hoạt động phối hợp tại ban quân quản thành phố.

Tôi phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước chỉ huy quân quản thành phố, đại tá Borisov. Tôi ko biết tin đồn này có đúng ko, nhưng chúng tôi thường nghe kể rằng cựu chính uỷ quân đội hạng nhất này từng bị giáng chức xuống làm hạ sĩ quan sau sự cố ở Kerch. Tuy nhiên sau đó ông vẫn leo lên được đến đại tá. Ông là người cực kỳ chu đáo và tốt bụng, được tất cả các thuộc cấp kính trọng. Mùa hè năm 1947 ông bị triệu hồi về Moscow gấp, tại đó ông bị đưa ra toà vì lý do nào đó và phải vào trại cải tạo ở Siberia trong 1 thời gian dài. Có lẽ đó vẫn là hậu quả tiếp theo của vụ Kerch. Việc trừng phạt và trấn áp 1 cách máy móc vẫn còn. 6 tháng sau, đầu năm 1948 khi tôi đang phục vụ tại Thành Đội Moscow thì tìm gặp được gia đình Borisov, vợ ông vẫn còn nhớ tôi khi ở Leipzig. Mọi người kể ông bị cách tuột mọi cấp hàm và hiện làm văn thư cho ban quản lý trại cải tạo. Tôi ko biết phần đời còn lại của vị cựu chính uỷ, cựu đại tá, cựu chỉ huy quân quản 1 trong những thành phố lớn nhất nước Đức sau này ra sao.

Tôi được phân 1 căn hộ mới gần trụ sở ban quân quản tại số 24 phố Montbestrasse, đây vốn là 1 lâu đài của 1 nhà buôn Đức giàu có đã chạy sang phía tây. Tôi cũng được cấp 1 ô tô loại Opel Super 6 và 1 người lái xe. 1 trong các nhiệm vụ mới của tôi là đưa đón các vị khách quan trọng tới Leipzig, nhờ đó tôi được gặp những người nổi tiếng hồi đó như Nguyên soái Thiết giáp Pavel Alekseevich Rotmistrov, Nguyên soái Semen Mikhailovich Budenny và "Nguyên soái Chiến thắng" George Konstantinovich Zhukov.

Tôi gặp Zhukov lần đầu khi ông tới Leipzig săn hươu, khi đó tôi vẫn còn là tiểu đoàn phó quân cảnh. Tôi được lệnh canh gác khu rừng nơi xe của Zhukov và các sĩ quan hộ tống đỗ. Tôi được thấy ông ở khoảng cách 10 - 15m, ông ko to lớn như tôi tưởng, thậm chí là hơi thấp nhưng khoẻ mạnh và rất nhanh nhẹn. Ông ko mặc quân phục Nguyên soái mà mặc jacket da và quần bình thường, đi ủng lính, nếu trí nhớ của tôi còn tốt, ông đội 1 kiểu mũ da lưỡi trai khá đặc biệt.

Chúng tôi ko nhìn thấy hươu nhưng biết nó ở gần đấy vì nghe thấy nhiều tiếng súng. Sau đó đám thợ săn tập trung lại chỗ để xe mang theo 2 con hươu chết. 1 trong số thợ săn là kombat khi đó của tôi, thiếu tá Milstein tới báo cáo với Nguyên soái lúc này trông có vẻ ko vui. Mặt Nguyên soái đỏ gay, ông nhìn chằm chằm viên thiếu tá và gào rất to khiến tất cả chúng tôi đều nghe thấy, đó là 1 câu chửi tục và 1 câu mà tôi còn nhớ rõ: "Tôi tới đây để săn hươu chứ ko phải để ăn thịt nó!" Sau này kombat kể cho tôi nghe rằng phát đạn của Zhukov đã ko thành công cho lắm, ông bắn vào con hươu đang chạy đúng lúc nó lấp sau thân cây, sau đó con hươu chạy mất, trong khi các sĩ quan chỉ đi để phụ cho ông đã bắn được 2 con. Kombat Leonid Milstein đã lãnh nhiệm vụ xin với Nguyên soái được tặng ông 1 con, rõ ràng nhiệm vụ đó đã ko hoàn thành!

Chỉ huy GSOTG là Nguyên soái Zhukov, ko lâu sau đó thay bằng Nguyên soái Vasily Sokolovski, ông này vừa mới được thăng cấp lên Nguyên soái, trước đây ông là tham mưu trưởng của Zhukov. Việc thiên chuyển Nguyên soái Zhukov bất ngờ và việc chỉ định Sokolovski thay thế đã làm nảy sinh nhiều tin đồn. Các tin đồn đó nhanh chóng biến mất khi Zhukov được nhận Sao Vàng Anh hùng Liên Xô lần thứ 3, tuy nhiên nó vẫn kịp lây lan như 1 tiếng sét giữa trời quang! Chúng tôi đã được nghe vài câu chuyện mơ hồ về quan điểm "sai trái" với các Đồng Minh phương tây. Tuy nhiên ngay sau đó tôi đã được gặp Nguyên soái Solokovski và ông khiến chúng tôi tin rằng đó là 1 người thay thế tốt cho Zhukov. Tôi cũng đã gặp Chánh Công tố Liên Xô Andrei Vyshinski khi ông đang trên đường tới phiên toà Nuremberg xét xử những tên tội phạm Nazi đầu sỏ. Tôi từng nghe nhiều câu chuyện về ông từ tay cựu phi công shtrafnik trước đây chiến đấu trong sư đoàn ko quân do đại tá Vasily Stalin chỉ huy.

Gần 1 tháng sau khi đại tá Borisov bị triệu hồi, tôi bị điều về 1 ban quân quản cấp 2 tại 1 thị trấn nhỏ tên là Debeln theo lệnh của lãnh đạo thành phố Leipzig. Hầu hết sĩ quan quân quản các quận huyện trong thành phố cũng bị thiên chuyển. Tôi ko biết điều đó có liên quan đến số phận của Borisov ko nhưng nghĩ lý do chính của sự thay đổi này liên quan đến tân chỉ huy quân quản, đại tá Litvin. Sự căng thẳng lập tức xuất hiện trong quan hệ giữa chúng tôi. 1 lần tôi được mời tới dự buổi meeting giữa các sĩ quan quân quản và kombat, người tôi sẽ thay thế sau khi ông ra đi. Tôi ko nhớ rõ tại sao nhưng đã ko kịp thay quần chẽn và ủng quân phục mà vẫn mặc nguyên như thế tới dự meeting, thậm chí còn ngu tới mức lên ngồi ngay hàng đầu. Đại tá Litvin tới tham gia meeting, ngồi ghế chủ toạ, trước mặt là 1 cái bàn lớn phủ len đỏ, sau lưng là tấm ảnh Stalin. Litvin nhận thấy tôi mặc quân phục ko đúng và bắt đầu nhiếc móc. Ông bảo tôi ko phải sĩ quan vì đi ủng lính và chỉ những thằng ngu mới mặc quần chẽn, đại khái thế. Tôi khoái trá nhìn và nghĩ ko hiểu ông ta làm thế nào để kết thúc bài khiển trách nếu liếc lên tấm ảnh Stalin, trong ảnh Stalin cũng mặc quân phục với quần chẽn trùm cả ra ngoài ủng lính, mặc dầu trong phần lớn trường hợp tôi thấy trong ảnh Stalin đi ủng dài. Vậy là tôi bắt đầu nhìn chăm chú, ko phải vào thượng cấp mà vào tấm ảnh Tổng Tư lệnh. Rút cục thì đại tá cũng chú ý tới hướng nhìn của tôi và bất thần dừng bài thuyết giáo, sau đó giận dữ ra lệnh cho tôi: "Ngồi xuống!"

Ông ta ghét tôi từ sau vụ đó. Thậm chí khi tôi được Chính phủ Ba Lan đề nghị tặng thưởng huân chương vì đã tham gia giải phóng Warsaw và nhiều thành phố Ba Lan khác, đích thân Litvin đã gạch tên tôi khỏi danh sách. Đó là cách ông ta trả thù tôi, tôi ko được nhận Huân chương Virtuti Militari dù rất nhiều bạn bè được nhận.

1 thời gian dài sau khi chuyển tới Debeln tôi ko có việc gì làm. Em trai Rita, Stanislav làm lái xe cho trung đoàn trưởng Katyusha tại 1 thị trấn gần đó, vì thế chúng tôi thường tổ chức bữa tối tại chỗ tôi hoặc chỗ trung đoàn trưởng, thiếu tá Gilenkov, người đã trở thành bạn tốt của tôi. Đầu tháng 12/1947 có lệnh chuyển tôi về Moscow và ko lâu sau chuyến tàu thân thuộc Berlin - Moscow đã đưa chúng tôi về phía đông, trở về mảnh đất Liên Xô yêu thương.

(*) SD - Sicherheitsdienst - Quân cảnh SS


HẾT
Logged

IN PAUL WE TRUST
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM