ngao5
Cựu chiến binh
Bài viết: 756
|
|
« Trả lời #51 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 11:20:48 pm » |
|
CẢO XƯA GIỞ LẠI Có câu “Văn là người”. Thế “Sử là người” thì liệu có đúng? Tức là cái cách nghiên cứu của một người nó “tố cáo” rất hùng hồn sở đoản, sở trường, tính cách, thậm chí nhân cách của anh. Như có người bảo đang chiến tranh phải đưa ra luận điểm Việt Nam là một trong những cái nôi của loài người. Một người khác phán Tây Sơn có công thống nhất đất nước. Liệu không đồng ý. Đấy là lối “cưỡng hiếp lịch sử”: điều bên văn người ta có thể làm nhờ cái quyền hư cấu. Nhà Nguyễn bán nước cho thực dân thật, nhưng chính họ mới là người mở mang bờ cõi đến chót cùng phía Nam chứ. Không đồng ý, nhưng cũng chỉ nói ra hờ hờ. Đằng sau lịch sử luôn luôn là nhu cầu phục vụ cách mạng. Sử hiện đại phải đáp ứng nhu cầu đó nhiều nhất, có nghĩa là nhà nghiên cứu ăn lương khó độc lập hơn… Như Liệu, ông thấy mình mạnh nhất trong sử cận đại, “bơi lội” trong đó như con cá trong nước. Đọc “Dự thảo cách mạng cận đại Việt Nam” ông viết trong kháng chiến chống Pháp, một nhà sử học Liên Xô nêu vấn đề “sao chả thấy ghi xuất xứ tư liệu gì?”. Nghĩa là ngờ ngợ rồi. Tư liệu như không khí cho con chim vỗ cánh, “kéo” đến 800 trang mà chả ghi xuất xứ thì những sự kiện liệu có đáng tin và do đó, sự phán xét liệu có còn ý nghĩa… “Xuất xứ trong đầu tôi đây này”, ông cười cười khi nghe người khác nói lại nghi vấn được bày tỏ thật lịch thiệp đó của đồng nghiệp Liên Xô. Nhưng không thể giải thích với tất cả những ai đã đọc sách ông và cũng nghi ngờ chính đáng như thế, nên chi, ông phải ghi nó ra thành chữ: “Do điều kiện và hoàn cảnh, tôi sống ngay trong lịch sử (cận đại) chứ không “tiếp xúc” với tư liệu”. Quả là Việt Nam Quốc dân đảng, đảng Thanh niên, các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…, ông đều đã trải cả rồi cơ mà. Trải và ghi lại hết, nhưng đã mất ráo, giờ thì cậy vào trí nhớ và “xin chịu trách nhiệm” vậy. Cổ sử là địa hạt Liệu “bơi” cũng được, tuy chả thoải mái như sử cận đại. Tư liệu không dồi dào lắm, Và ông đâu có “sống” trong đó. Tốt nhất là nắm lấy từng thời điểm, nhân vật, sự kiện tiêu biểu mà mổ xẻ, Liệu làm thế với Nguyễn Trãi, Hồ Quý Ly… Nhưng sang đến sử hiện đại thì gặp khó rồi. Phải dùng lý trí rất nhiều. Quá nhiều. Khoa học tất nhiên phải lý trí, nhưng dùng nó để gò luận điểm cho phù hợp sự chỉ đạo, hay nói chung chung để tránh sự đánh giá khác nhau của các vị, thì quá mệt, không làm còn hơn. Bản thân ông, cuộc đời “vắt” từ các trào lưu dân tộc sang cộng sản, luôn luôn có cách cảm nhận riêng biệt. Ghét Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, ông không thể phủ nhận những đóng góp của họ vào văn hóa, vai trò của tạp chí Nam Phong thời Nho tàn Tây học. Thời thế tạo ra con người, kể ra cũng mâu thuẫn thật. Và Liệu, khi nhìn vào những “khối”, những “búi” mâu thuẫn ấy, cố gắng không giữ những định kiến. Gặp gỡ, trò chuyện, nghe chuyên đề…, cái gì cũng đem lại một cái gì mới, khiến ông trẻ ra. Hòa bình mới có ít năm, nhiều “nỗi”, “nhẽ” đã thay đổi nhanh quá, mà không phải nỗi nhẽ nào cũng lấy làm hay ho được. Xung quanh ông, thói quan liêu thư lại như cái màng nhầy ngăn cản sự thân tình. Những người vừa lội suối leo dốc trong kháng chiến với nhau bỗng ăn nói mập mờ, như “văn sách”, ngồi cả buổi chả rõ ý tứ ra làm sao. Dưới cái vỏ “ý thức tổ chức”, lắm anh cố xóa bản ngã để tỏ lập trường. Tác dụng của những cuộc kiểm thảo, chỉnh huấn, cải cách dần dần hé ra khía cạnh tiêu cực. Trong chỗ đồng chí, chả nhẽ phải tiêu diệt cá nhân đi ư? Không được bộc lộ thì cái cá nhân vẫn còn đấy chứ chả chạy đi đâu cả, nguy nhất là khi con người ngụy trang nó lại. Nhiều lúc “nói to” ra một nhận xét, Liệu chợt nhận thấy người xung quanh không hiểu. “Không hiểu” thật hay làm ra bộ thế? Tình hình càng chật chội, nóng bức hơn khi cuộc đấu tranh trong phe xã hội chủ nghĩa giữa hai lập trường “xét lại” và “giáo điều” nóng ran lên, trong Đảng có những động tác tổ chức để điều chỉnh. Khối tư tưởng, trí thức bắt đầu ảnh hưởng, mà điều đó không thể không ảnh hưởng đến học thuật, thậm chí là sự ăn nói, sinh hoạt thường ngày. May là Liệu đã có một “khoảng gián cách” - dù là nhỏ nhoi - với cuộc đấu tranh trên kia. Càng ngày Liệu càng thấm thía ý nghĩa cuộc tổng chỉnh huấn cán bộ mùa đông 1952 rét buốt. Không có nó, ông đã không tìm được động lực mới cho cuộc đời mình. Từ một cán bộ u uất vì bị gạt khỏi quyền lực thực sự, ông được chuyển sang đèn sách, cái địa hạt hằng mơ từ hồi còn trẻ. Cuộc sống từ chỗ sôi động, luôn luôn giao tiếp sang thầm lặng, đánh vật với con chữ, hoang mang hay hồ hởi trước trang giấy trắng mênh mông có cái hay. Những thử thách đến từ chỗ người ta chẳng thể ngờ. Chẳng hạn, ở cương vị anh đảng viên trong Thường trực Quốc hội, Liệu nói năng, quan hệ gì cũng theo một cái “khung” rồi, sẵn thế cứ thế mà xử. Nhưng làm Viện trưởng Viện Sử mà không tường một chức Thị lang trong thời phong kiến nó ra thế nào là không được. Kiến thức, phương pháp, cách kiến giải… tự mình mình phải lo, thủng chỗ nào vá chỗ ấy, học lại từ những mấu mắt rất nhỏ. Khi đã làm một nhà sử học chuyên nghiệp, Liệu phát phiền vì còn phải kiêm nhiệm nhiều việc quá. Kèm theo những “ghề” ấy là bao nhiệm vụ, mình là đảng viên không thể thoái thác, không thể làm khác. Thật khó phân biệt giữa ý thức tổ chức, chấp hành kỷ luật, sự phân công của trên với thói thư lại hèn đớn, những toan tính chen chúc. Trong trật tự quan trường, Liệu thấy chật chội, khó xử bao nhiêu thì khi đối diện với học thuật, ông được thoáng đãng, khoáng đạt bấy nhiêu. Trước trang giấy, con chữ, có khi ông chỉ là hạt cát nhưng được đúng là mình, không phải phân thân ra trong trùng trùng khuôn khổ. Đấy, cái sự đăng đàn giảng giải, được cả trăm người lắng nghe, ghi chép, liệu có đáng so với nỗi thú vị hay hoang mang khi bắt đầu một chuyên đề nghiên cứu không? Đứng tên chuyên đề đó, ông phải tự chịu trách nhiệm, chả đoàn thể nào hộ được; cái tư cách cá nhân lúc này lớn lao biết nhường nào. Mình bơi lội trong chính mình, cái biển mình nó mênh mông bao nhiêu… Nhiều năm sau khi Trần Huy Liệu mất, có những điều người trong giới đem ra tranh luận với nhau về ông. Người anh cả, sáng lập ngành sử cách mạng, thì đã đành rồi, ai cũng nhất trí. Nhưng ông có tìm tòi gì về các quy luật của lịch sử không, hay chỉ là người tích lũy được tư liệu, “may mắn” ở tù, gặp gỡ nhiều chứng nhân mà nghe lắm chuyện rồi kể lại? Rất không dễ trả lời, tuy chỗ mạnh, chỗ yếu của Liệu đều “lên” khá rõ. Văn Tạo, chàng thanh niên lên ban Sử - Địa - Văn mới thành lập trong kháng chiến chống Pháp, sau này là giáo sư Viện trưởng Viện Sử học, lý giải một phần vấn đề trong một cuộc nói chuyện ở Nam Định: “Tôi phải chứng minh ông rất muốn tìm những vấn đề, những quy luật, còn đến đâu thì ta phải đánh giá. Có 12 chỗ trước đây chúng tôi đã đặt ra: Dân tộc Việt Nam hình thành từ bao giờ, có chế độ chiếm hữu nô lệ không? Những tư liệu không thành văn có thuộc về lịch sử không? Phan Chu Trinh phản phong nhưng có phản đế? Lưu Vĩnh Phúc là gián điệp hay tiêu biểu cho tình hữu nghị Việt - Hoa? Nguyễn Trường Tộ là kẻ bán nước, chui từ tay áo cố đạo ra hay là nhà cải cách? Đó là những vấn đề phải tranh luận. Trần Huy Liệu đã đi vào, đi sâu, không “chuồn chuồn đạp nước”. Nhà sử học Liên Xô Gu-be cho là khi có chủ nghĩa tư bản dân tộc thì dân tộc Việt Nam mới hình thành. Ông Liệu bảo là dân tộc Việt Nam hình thành từ thế kỷ XVIII, đến thế kỷ XX mới thực sự hình thành, nghĩa là có quan điểm rõ ràng trong tranh luận, đúng bảo đúng, sai bảo sai. Tôi kể thế để bổ sung nhận thức ông là nhà sử học với đúng nghĩa của nó, chứ không phải là nhà sử ký. Sử ký là “chép”, chưa phải khoa học lịch sử”… Liệu giữ một giáo trình nhỏ ở Đại học Tổng hợp, thấy rất thích mấy cán bộ giảng dạy trẻ ở đó: “Lâm - Lê - Tấn - Vượng” bên khoa Sử, còn khoa Văn có “Khánh - Mai - Cẩn – Kỵ”. Gọi “trẻ” là so với ông, chứ họ đều đã ngoài ba mươi, cái tuổi ít nhiều đã chín. Trần Quốc Vượng tài hoa, giàu sức liên tưởng tuy không chắc chắn lắm. Phan Huy Lê sắc sảo, chín chắn. Sâu sắc là Hà Văn Tấn, xứng đáng là nhà nghiên cứu nhất. “Xuất phát” chưa lâu, nói chung họ còn hồn nhiên, có những kiến giải độc đáo, đúng sai còn phải bàn nhưng rất đáng nghe. Hôm trước, có dịp ngồi lâu với Trần Quốc Vượng, Liệu nghe thấy mấy chữ “xa rừng nhạt biển”. Đấy là nhận xét của Vượng về tính cách người Việt, đại loại mạnh tợn xó nhà, ra ngoài cứ khép lại. Cứ nhìn cái cách anh ta dịch chuyển trong mấy nghìn năm mà xem, từ mạn ngược di về đồng bằng rồi ở lì đó, có dám vươn ra biển đâu. Chuyện thôn tính phía Nam là có thật, nhưng anh ta cũng từ chối bang giao với mấy thằng mắt xanh mũi lõ từ biển đi tàu đồng tàu sắt vào. Anh ta khinh rẻ chúng không biết đạo Thánh hiền nên cứ tụt hậu, để khổ cho hậu duệ… Vượng cứ thế mà triển khai, móc nối cái này với cái kia nghe rất khoái, lắm khi phải trợn cả mắt lên. Thảo nào trong đám học trò khoa Sử, đã mấy cậu bắt đầu có “khẩu khí Trần Quốc Vượng” lắm.
|