Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 11:32:52 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cõi người  (Đọc 38003 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 09:18:00 pm »

         

TRẦN HUY LIỆU – CÕI ĐỜI
Tác giả: Trần Chiến
Nhà xuất bản Kim Đồng, 2009
Số hoá: ngao5

TRẬN ĐÒN
Nhà ông đồ Trình đang có việc. Từ sáng sớm, bà đồ đã lục đục dưới bếp đồ xôi, làm thịt gà. Mọi người lặng lẽ, trang nghiêm hơn lệ thường. Hình như trời không có gió, cả đến tàu chuối sau vườn cũng im phắc, không ưỡn lên reo mừng khi cu Liệu lò dò từ giường ra, mắt nhắm mắt mở tè vào gốc như mọi khi.
Thường nhà có cỗ thì con trẻ phải mừng. Nhưng Liệu ta lại buồn rười rượi. Hôm nay cụ đồ làm lễ khai tâm( ) cho cậu út vừa tròn sáu tuổi. Sau bữa ăn, Liệu phải lên Hạnh Lâm trọ học. Xa anh Đích, anh Hích, lấy ai đánh khăng đánh đáo cùng. Và nhất là tối đến không còn được rúc vào tí mẹ hít hà mùi mồ hôi nồng nàn, ngầy ngậy. Bà đồ yêu cậu út nhất nhà. Ra ý phải xa con, bà cứ tần ngần, lẩm bẩm những câu chỉ mình nghe. Lúc xóc gạo, bà quên bỏ cả máy hạt muối. Chõ xôi nhạt hoét.
Khác với vợ con, ông đồ giữ vẻ nghiêm nghị. Những lời sai bảo phát ra uy nghi hơn lệ thường. Việc trọng, nghĩa cả, sang vai thằng bé sáu tuổi thì không thể nhu mì để nó quen thói con trẻ. Dứt khoát nó phải gánh cái sứ mạng mà ông mang vác cả đời chả xong: thành người đỗ đạt. Vậy nên mọi thứ cứ phải răm rắp. Cấm bàn lui. Ông căn dặn vợ nghiêm hơn mọi ngày, đừng để nước mắt làm mềm lòng thằng bé.
Mâm cỗ đã dọn lên. Ông đồ thắp hương, thành kính khấn. Đoạn, nhỏ nhẹ nhưng đủ nghiêm khắc, bảo Liệu: “Con khấn tiên sư, tổ sư đi?”.
- Tiên sư, tổ sư là gì ạ? - Cậu bé ngơ ngác.
Ông đồ chỉ vào bức tranh vẽ cụ già lùn tịt, răng vổ, mũ áo giống các cụ mặc khi tế ngoài đình làng.
Tiên sư, tổ sư đấy. Nhưng Liệu lại hỏi:
- Con khấn gì ạ?
- Con quên rồi à? - ông đồ gằn giọng, nhưng đã kịp dịu lại. - Con xin cụ cho học giỏi, đỗ đạt, sau ra làm quan.
Liệu “đọc” lầm rầm khiến ông đồ phải nhắc “to lên”“. Đến lượt anh cả Chước thì không phải nhắc nhở gì cả. Người thanh niên nổi tiếng thông minh ấy đi thi Hương từ năm mười ba tuổi, đã quá quen với nghi lễ. Lúc lâu sau, các thủ tục cũng xong, cả nhà ngồi vào mâm: ông đồ, bà đồ, anh Chước, chị Riêu, chị Tự. Liệu được ưu tiên gặm đùi gà. Rồi anh Chước lại gắp đầu cánh bỏ vào bát cậu út, nhỏ nhẹ: “ăn đi rồi còn bay xa”. Ông đồ cũng sẻ sang bát con cái đầu gà, thứ cậu út rất thích nhưng không mấy khi được ăn.
Đang cắm cúi gặm sồn sột, Liệu nhận thấy mọi người lặng lẽ quá. Mọi hôm ăn độn, lát khoai cõng dăm bảy hột cơm, mà chuyện rào rào. Mà bà đồ chỉ đưa đẩy vài đũa rồi chạy đâu đâu. Liệu mò xuống bếp, thấy mẹ đang ngồi cạnh ông đầu rau lạnh ngắt.
- Mẹ không ăn à? Con ăn hết thịt gà bây giờ.
- Con ăn hết đi. - Giọng bà đồ nghèn nghẹn.
- Mẹ sao thế? Sao mắt mẹ ướt?
Rơm ẩm nên lắm khói, mẹ cay mắt.
- Đun gì mà cay…
- Lên nhà kẻo bố mắng. Mẹ lên ngay đây.
Liệu ngồi vào mâm, rấm rứt ăn hết bát xôi dưới sự soi xét im lìm của bố. Giường bên, bà đồ ngồi gói tay nải, đút vào con khăng cho đứa trẻ đi xa.
- Mẹ để cái này vào. Nhưng chơi ít thôi. Con trai lớn rồi phải học chăm nhá.
Bà nói vậy rồi chạy vội ra đầu ngõ, giả bộ đi thăm người ốm. Giờ khắc thằng bé đi nặng nề lắm đối với bà.
- Nào! Đi! Đến Hạnh Lâm rảo hết một buổi, đi giờ là vừa.
Liệu sợ hãi nhìn quanh rồi co cẳng phóng ra cổng, bị anh Chước túm lại. Ông đồ Trình đã khoác tay nải, dứ dứ chiếc roi mây: “Mày có đi không thì bảo?”.
- Con không đi Hạnh Lâm. Con không đi học.
- Không đi này? Không ăn chữ Thánh hiền thì ân roi này…
Mỗi lần “không đi này” là một lần sợi mây vút lẳn vào đít. Chị Tự, chị Riêu cũng chạy đâu cả, chỉ còn anh Chước đứng ngó ra chỗ khác. Cuối cùng ông đồ cũng rong được Liệu ra ngõ. Trông thấy anh Hích, anh Đích và mấy đứa bạn ẵm em đứng nhìn, cậu bé đu chặt lên cánh cổng, lằn roi lại vút xuống. Cơn mưa đòn kéo dài qua mỗi lần níu kéo, mỗi roi là thúc thêm mươi bước xa nhà.
Hết búi tre, bụi duối là cánh đồng, cuộc phản kháng tạm thời ngưng lại. Đã trông thấy cây gạo, mái cong cong phủ Dầy thờ bà Chúa Liễu, những chỗ mọi ngày Liệu được rong chơi xa nhất. Ta còn có thể nhởn nhơ trốn tìm ở đây không? Có còn được rúc vào bệ thờ ẩm mốc đầy mạng nhện không?
Không còn được cụ từ hiền từ gọi ra cho lộc Thánh Mẫu nữa a? Và không có mẹ để nắn chân, nắn lưng cho ta nữa… Liệu ngồi phệt xuống bờ đầm không nói không rằng. Ông đồ cũng chẳng thèm thúc giục ra roi, bao nhiêu cáu giận dồn cả vào đôi tay nhấc bổng thằng bé lên.
“Ùm!”
Liệu luống cuống giữa bùn nước, cuống cuồng vì bị sặc. Cũng may là biết bơi nên không đến nỗi no bụng nước. Lóp ngóp vào được bờ, thì hào khí làm loạn tắt hẳn. Liệu cum cúp đi trên con đường thiên lý. Xung quanh, những bụi cứt lợn trăng trắng tỏa mùi ngai ngái. Đồng lúa đang vào đòng thơm ngào ngạt. Gần đến Hạnh Lâm thì cậu út đã quên hẳn, lại chuyện trò ríu ran. Không biết rằng đi sau, ông đồ đang thở phào đút cây roi vào đẫy. Thằng bé bướng nữa, chắc ông không còn lòng nào ra gan, đận về cũng chả thể kể hết với mẹ nó.
Và cậu út cũng không thể ngờ từ đây đến cuối cuộc đời sứ mạng của cậu là đèn sách. Đã có lúc tới tột đỉnh của danh vọng, làm Bộ trưởng, Phó Chủ tịch ủy ban Dân tộc giải phóng năm 1945, thì trước sau, chỉ có chữ nghĩa mới là trường đắc địa của cậu.
Năm 1907, lên sáu, cậu bé không thể ngờ mình sẽ là chứng nhân, can dự vào những sự kiện lớn nhất của đất nước trong bảy mươi năm nữa. Để sau này, khi kể lại và đánh giá chúng, Trần Huy Liệu có thể nói vui, nhưng lại đầy tự hào: “Tôi là con người của thế kỷ đây…”
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Giêng, 2021, 02:42:43 pm gửi bởi ptlinh » Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #1 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 09:27:00 pm »

BÁO THƯ CỪU
Ở tỉnh Nam Định, Vụ Bản là một huyện nghèo bởi thuần nông. Trên cánh đồng đất pha cát, lúa ngô, khoai, kê, đậu, lại quanh năm gối vụ. Chen giữa cánh đồng có mấy ngọn đồi Gôi, Tiên Hương, gọi là “núi”. Những con sông máng chảy chậm chạp. Đói nghèo, có lẽ là một cái cớ để người ta trọng sự học và tin vào cõi siêu nhiên. Có lẽ Vụ Bản đứng đầu tỉnh về số các vi khoa bảng và về lượng đình, đền chùa cổ kính. Ấy là ngày xưa. Còn bây giờ, riêng một xã Liên Minh, xưa gọi tổng Hào Kiệt, đã sản sinh ra các nhà văn Vũ Cao, Vũ Tú Nam, nhạc sĩ Văn Ký, Văn Cao…, hàng chục hội viên các Hội Văn học Nghệ thuật.
Xửa xưa xưa, thời vua Hùng, Vụ Bản là huyện Bình Chương, sang thời Lý - Trần thành huyện Hiển Khánh. Có câu “Côi sơn hải khẩu” tức núi Côi (Gôi) hồi đó đã là cửa biển, trong lòng đất hiện thời còn nhiều vỏ hà, trai. Xa xa, giữa sóng mặn nhô lên một vùng phù sa, càng ngày càng dầy dần lên. Khi cồn đất ấy nhập hẳn vào đất liền, đã có người ra khẩn hoang, người ta gọi luôn tên nó là Kẻ Dầy: Ngày nay, có thể tưởng tượng ra sự hình thành lâu dài và thú vị này khi ra cửa Ba Lạt đằng Giao Thủy, nơi sông Hồng đổ ra biển. Cách độ nửa tiếng chèo thuyền tay, ta sang đến cồn Xanh, nơi đã được trồng phi lao chi chít. Xa hơn, thắm trong tầm nhìn là cồn Mờ, cư dân nông nghiệp chưa kiếm lợi nhờ được chút nào.
Thiên Bản - tên cũ của Vụ Bản - có sáu nhân vật lạ lùng, gọi “Thiên Bản lục kỳ”. Đó là Tam Danh (còn gọi Tam Ranh hay Tam Bành) đại tướng cô hồn Sừng Sỏ Sắt ở làng Bảo Ngũ, xã Quang Trung ngày nay, Cường Bạo đại vương ở làng Bối La, xã Cộng Hòa, trạng Lường Lương Thế Vinh ở làng Cao Hương, xã Liên Bảo, bà chúa Thông Khê Trịnh thái phi Trần Thị Ngọc Đài ở làng Thông Khê, xã Cộng Hòa, quận công Ngô Minh Điền ở làng Bảo Ngũ, xã Trung Thành, và Bà Chúa Liễu Hạnh. “Thiên Bản lục kỳ” người thì giỏi giang thông minh, làm nên việc lớn cho đời, người có phép lạ tung hoành khắp đó đây. Hơn người thì lạ, đã đành, họ lại chả giống mấy với những thành hoàng kỳ nhân hằng được thờ phụng trong thiên hạ. Mang những đặc tính của người bình thường, họ hiển thánh với đầy đủ “ưu khuyết điểm”, vừa lớn lao, bao dung, vừa tị hiềm chấp nhặt. Cường Bạo đại vương thương mẹ rất mực, nhưng đi ăn cắp nuôi bà, sau này “quên” cả cúng giỗ gia tiên lẫn bố mẹ. Thánh Tam Bành trừng phạt các thành hoàng có lỗi (thành hoàng mà cũng có lỗi!) quá tay khiến các vị kêu cứu lên thiên đình, rồi Phật Tổ Như Lai và Quỷ Cốc tiên sinh phải ra tay kiềm chế. Còn Bà Chúa Liễu Hạnh ra oai với tất thẩy, cả những ai không biết đến danh tiếng của mình, để muôn chúng sinh phải nể sợ mới thôi.
Chừng như là, có một chút cái “máu” của những kỳ nhân ấy, Trần Huy Liệu phải vào người cái tính độc lập bướng bỉnh không chịu khép mình vào những trật tự, khuôn khổ bình thường một khi ông không thấy nó là hợp nhẽ. Nhưng đó là chuyện mãi sau này…
Ông sinh ở thôn Vân Cát, xã Kim Thái, không trù phú bằng Liên Bảo, Liên Minh trong nghiệp “trồng” nhân tài, nhưng lại là quê Bà Chúa Liễu Hạnh, một trong Tứ Bất Tử của thần thoại Việt.
Làng Vân Cát giáng sinh thần nữ
Cõi trời Nam bất tử hòa thân
Vốn xưa Đệ nhị cung tiên
Phong lưu công chúa ở trên thiên đình
(Văn chầu Thánh Mẫu)

Là người làng Bà Chúa, nhưng Liệu sớm không được chòng ghẹo, trêu đùa ai, ngay cả làm nũng mẹ cũng không. Tuổi thơ của cậu chấm dứt từ năm lên sáu để mang sứ mạng Báo Thư Cừu, tức là trả mối hận đèn sách cho cha và anh. Trọ học ở Hạnh Lâm, Công Luận, dù nhọc nhằn với Tam Tự Kinh, Liệu vẫn được phép thảng hoặc chơi trận giả bằng gươm giáo gỗ bên chiếc lò gạch. Nhưng ông đồ Trần Huy Trình muốn con sớm hay chữ, sau đó đã bắt học tắt ngay những Đại học, Ngũ kinh, Tứ thư và Bắc sử. Sớm xa rời những nghịch ngợm hồn nhiên, Liệu phải sống theo kiểu con cháu Thánh hiền. Năm mười lăm tuổi, cảnh nhà bí quẫn, cậu bắt đầu bán chữ, nghĩa là dạy chữ nho cho bạn cùng trang lứa, thậm chí “gà bài” cho mấy hương sinh lớn tuổi còn theo nghiệp lều chõng.
Mùa đông năm ấy rét cắt da cắt thịt, nhưng trong lòng Liệu thì ấm bừng ngọn lửa. Hân hoan không tả được. Áp Tết, bố cho về nhà để dỏn dòn don với mẹ, được anh Chước, chị Riêu, chị Tự cho quà, gặp lại anh Hích, anh Đích cùng chúng bạn.
Đôi chân nhỏ hồng hào của cậu bé bước thoăn thoắt trên ngọn cỏ táp đi vì lạnh, chẳng kể đến nhịp thở đằng sau của ông bố.
Mồng một chơi của chơi nhà
Mồng hai chơi điếm, mồng ba chơi đình
Mồng bôn đi chợ Qua Ninh
Mồng năm chợ Trình, mồng sáu non Gôi
Nghỉ ngày mồng bảy mà thôi
Bước sang mồng tám đi chơi chợ Viềng

Cứ nghĩ đến mấy câu ca ấy là cả tỉnh, từ trai thanh gái lịch đến các vị hương xã, cống nghè đều nao cả người. Đối với Liệu, niềm vui đơn giản lắm, chỉ là con cón theo váy mẹ, lúc được con tò he, lúc chiếc kẹo bột nhuộm ngũ sắc mút nhoẻn mồm.
Vậy mà năm nay, sáng mồng một, Liệu bị khua sớm. Ông đồ lệnh “Dậy ăn rồi mà học”. Nằm rốn không xong, cậu bé đành bò dậy, cậu chả muốn cả năm ăn roi tẹo nào.
Té ra là cả nhà đã tươm tất. Mâm cơm cúng đang bốc hơi nghi ngút trên ban thờ, các anh chị ăn vận tề chỉnh. Liệu đứng khấn tổ tiên, trời đất, cụ tổ đạo Thánh hiền, rồi được ngồi vào mâm. Không khí sum vầy thật vui. Bà đồ gắp cho con, bảo từ ngày đi học biết mời chào, như ông đồ non ấy nhỉ. Trên ban thờ, mùi bưởi chín, khói nhang đen và hoa huệ ngan ngát làm lòng Liệu bâng khuâng. Trong túi cậu, cỗ tam cúc ngọ nguậy, thể nào tẹo nữa cũng sang anh Hích, anh Đích chơi bôi râu. Cho bõ những ngày nhồi chữ như con vịt tọng bánh đúc.
Ăn xong, định tót ra cổng, ông đồ đã giật lại:
- Sách vở đâu? Lại quên rồi à?
- Cha, hôm nay Tết mà. - Liệu nhăn nhó.
- Tết càng phải học?
- Năm ngoái mồng bảy cha mới bảo học…
Ông đồ giở quyển vở, chỉ vào hai chữ “Trúc khai”: “Năm ngoái khác, năm nay ngày khai bút là mồng một”. Xung quanh, mẹ, hai chị ngoảnh ra chỗ khác, anh Chước đứng nghiêm chỉnh sau bàn, Liệu đành phụng phịu chui vào gầm án thư.
Đấy là cái xó mà cậu ghét nhất. Tối tăm vì xung quanh đóng kín ván, cậu phải học nằm lòng cả bồ chữ. Ngoài kia có làn gió đấy, nó làm con chim hót, làm quả bưởi thơm. Nhưng trong gầm án thư kín như buồng tằm chi mồn một ba chữ “Báo Thư Cừu”, năn nắn cỗ bài trong túi mà nẫu ruột.
Một lát, quyển sách rơi phịch. Đầu va vào ván gỗ đau điếng mà mắt vẫn nhắm nghiền. Khi bà đồ bế ra, tay chân cậu bé còn dăm nốt muỗi đốt, dãi chảy ướt cả sách. Bà xin chồng cho cậu út canh nốt giấc say sưa. Được cái ông đồ, vừa cho chữ hàng xóm(1) khá là cao hứng, chỉ truyền: “Ờ, mồng một thế thôi. Cứ việc chăm học, thi đỗ là cái gì cũng có hết?”.
Mấy cô chị ngắm cậu em ngủ không vẫy tai, khúc khích:
- Thi đỗ rồi về làng có võng, em nhá.
- Một mai rồi làm quan, lấy vợ con quan, tha hồ các chị được nhờ.
Cười nói thế thôi, nhưng thấy cha nghiêm nét mặt, đập thước xuống “Chửa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng à?” thì đố dám ho he tiếp. “Cứ phải đe nẹt, cho roi cho vọt thì nó mới khá, các con chưa biết cái nhục gia đình đâu!”.
Đối với ông đồ Trần Huy Trình, quả là chả có gì đau bằng nỗi hận tam trường. Được học hành sớm, thông làu kinh sách, đối đáp, giảng giải thay cho cả làng, mà thi Hương dăm bảy lần ông chả được lấy mảnh cử nhân tú tài. Học tài thi phận, ông nghĩ thế và hết mực thờ cúng, kiêng khem. Năm Quý Mão lụt to, nước ngập cả Văn Chỉ(2) . Đến kỳ nước rút, ông giục anh trưởng cõng cậu út ra lau chùi từng bệ đá, viên gạch, nghiêm trang như đang phục dịch ở nước Lỗ(3) xưa. Ba năm một kỳ thi Hương, trượt vỏ dưa càng khát nước. Canh bạc càng “về sáng”, tức lúc đã có tuổi, ông càng cay. Mỗi lần yết bảng không thấy tên mình trong hàng cử nhân hay tú tài, ông lại đốt lều chiếu, quăng tủ sách, giãy đùng đùng rồi ngất đi. Ba năm lại một kỳ gia đình phải sống những ngày ảm đạm, mộ tổ xoay hướng cũng không đậu được. Đến lúc mỏi mệt, ông đành phận gõ đầu trẻ, chữ nghĩa sang vai những anh còn đang mong vinh hiển.
Nhưng bao nhiêu hận nhục do mong ước không thành, con trai phải gánh cả. Anh cả Chước mười ba tuổi đã thi Hương, nức tiếng thông minh, mà ba mươi mới được mảnh tú tài. Rủi thay, Tú Chước ngã bệnh mất sớm, có lẽ cũng là kết quả của hai mươi năm lao tâm đèn sách.
Bố đã vậy, anh đã vậy, thì Liệu càng phải vậy chứ sao.
Vùng vằng, nũng nịu, giọt vắn giọt dài nỗi gì nữa.
_________
Chú thích:
1. Tục đi xin những chữ tốt lành về treo trong nhà
2. Nơi thờ Khổng Tử của mỗi làng.
3. Nơi dạy học của Khổng Tử
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #2 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 09:30:09 pm »

HỌC CHỮ
“Tiền làm quan, đạt làm thầy”
“Với mục đích học để đi thi, người dạy cũng như người học đương thời có cần gì phải nghiên cứu ý nghĩa của những quyển sách, mà chỉ cần thuộc lòng từng câu, từng chữ, từng điển tích để làm bài. Nhận xét người hay một việc khác đều không được phép ra ngoài ý kiến phê phán của Tống Nho và Hán Nho”.
Nghĩ về sự lố bịch, vô tích sự của việc học hành cử tử thời đầu thế kỷ XX, Trần Huy Liệu nhận xét vậy. Nhưng đó là vào mãi sau này, khi ông năm mươi tuổi. Chứ còn bây giờ, hễ mó tay vào việc gì trong nhà, cậu út đều nhận những lời ngăn cản:
- Cứ để đấy, đã có các chị.
- Học đi con. Có nghe câu “chẳng tham ruộng cả ao liền, chỉ tham cái bút cái nghiên anh đồ” chửa? Con phải đỗ đạt rồi ra làm quan cho cả làng, cả tổng biết tiếng chứ.
Làm anh đồ, ông quan, cậu bé vắt mũi chửa sạch chưa đến đoạn thích thú. Nhưng những lời dạy bảo thấm vào cậu như giọt nước ngày đêm nhỏ vào đất cát, cằn cỗi mấy cũng có ngày sũng sịu. Đến nỗi mả trên đường từ Vân Cát đi Hạnh Lâm, qua cửa huyện nha Vụ Bản, Liệu giở ra cái trò làm ông bố vừa sợ vừa buồn cười. Đứng trước mặt anh lính gác, cậu ưỡn ngực ra, trỏ vào công đường: “Ngày sau ông lớn lên thi đỗ làm quan to gấp mấy cái ông huyện ngồi trong kia ấy chứ”. Chú lệ tròn xoe mắt vì ngạc nhiên. Ông đồ vội vàng kéo con đi trong lòng không phải không thích thú.
Mỗi việc hàng ngày đều được dẫn ra một câu Thánh hiền làm mẫu mực. Sách “Luận ngữ”, thiên “Hương đẳng” chép những cử chỉ thường ngày của Khổng Tử, Liệu thuộc nằm lòng.
- Con biết không, - ông đồ bảo, - trước kia có người chuyên đi nhặt giấy bẩn có chữ Thánh đem đốt đi, đến lúc đẻ con, sau lưng có bốn chữ bằng dấu chàm “Kính tích chỉ tự”, người con sau này thi đậu tiến sĩ.
Những lời răn ấy ngày một thấm, khiến mảnh giấy có chữ trở nên thiêng liêng, không dùng vào việc bẩn thỉu, để rơi xuống đất cũng không dám.
Thông thường, trẻ mới học đều phải qua “Tam tự kinh”, cuốn sách vỡ lòng. “Nhân chi sơ, tính bản thiện, tính tương cận, tập tương viễn”(1), tiếng trẻ khao khao trong lớp học dưới luỹ tre. Sau “Tam tự kinh” là hai quyển Sử thượng, Sử hạ và Hán sử, nghĩa là toàn sử nước người. Nhưng Liệu, giống cái cây bị nhấc lên cho mau lớn, phải bắc ngay sang các sách “Đại học”, “Ngũ kinh”, “Tứ thư” và “Bắc sử” trứ danh. Nhai nhải, nhồi nhét, nhồm nhoàm, thật chẳng khác con vẹt mấy tí. Nó làm cậu bé ra ông cụ non, khác hẳn chúng bạn cùng trang lứa. Mà thế thì đâu có gì phải xấu hổ, còn làm tấm gương, làm chỗ để trẻ khác học theo ấy chứ.
Trong vùng, ông đồ Trình nổi tiếng về cách dạy nghiêm khắc và hiệu quả. “Thứ nhất hay chữ, thứ nhì dữ đòn”, có thế mới nên thân, cái lũ chỉ xếp sau “quỷ” và “ma” ạ. Sáng ra các trò đến trường, thầy chỉ đích danh anh nào ngủ sớm hay chịu thức khuya nhá chữ. Đêm mưa to gió lớn, ông xắn quần, bận áo tơi đi tuần thủ” những nhà có trò trọ học, bắt quả tang anh nào lười, anh nào lẩn. Đấy là việc dạy chữ, gọi như bây giờ là truyền bá kiến thức đại trà. Chứ khi dạy phép tắc đi thi, ông lại có những “món tủ” riêng cho trò yêu, nhất là hai con trai. Tỷ như những bài văn sách quá hay, thường đem ra bình phẩm ở tỉnh, huyện thì nên tránh đi kẻo dễ trùng lặp, mà hãy chăm rèn những bài loại nhì, loại ba thôi. Tỷ như, cha “giải” sẵn những đầu đề trong sách học đi thi rồi cho học thuộc, vào hạch khảo không quán quân cũng trúng tuyển. Đây là món gia truyền “tử công phu”. Bao nhiêu cay cú, kinh nghiệm một đời thi hỏng, ông truyền cho con cả.
Nhồi lắm thì chữ phải đầy. Liệu, giống anh Chước, sớm nổi tiếng thông minh hơn người. Rất khổ là mỗi khi có bạn bè đến, ông bố cứ gọi con ra đối lại những câu người ta ra. Đối đáp trôi chảy nhưng đúng là cực hình, dù nó kích thích tính háo thắng, đợi chờ lời khen.
“Thằng Di nhà tôi đi sau mót lấy những chữ cậu Liệu nhà bác bỏ rơi, có mà cũng nhất tổng rồi”.
“Sau này đỗ đạt nên ông, đi võng che lọng đừng quên chúng tôi, cậu Liệu nhá”.
Những lời làm Liệu ta phổng mũi, giá đứng ngoài giọt gianh, trời mưa nước chui cả vào mũi cũng nên. Người ta mời cậu về học cùng, bảo học cho con. Mười lăm tuổi, cảnh nhà túng quẫn Liệu đã đi dạy học riêng, tuy không thành “cua” hái ra tiền như các thầy giáo dạy thêm bây giờ, nhưng khi nải chuối, lúc dăm quả trứng gà, “lộc” đã lỗ chỗ.
Chưa biết sợ, tự tin và liều lĩnh quá, bất chấp luật định, có lần Liệu đội tên người khác đi thi các kỳ tuyển sinh và khóa sinh. Bấy giờ chưa có thẻ thi dán ảnh, người thi hộ chỉ nộp quyển, khai họ tên, quê quán, ký tên, điểm chỉ là lọt vào được trường thi. Việc làm bài càng dễ, vì bấy nhiêu đòi hỏi của đề chả đáng là bao so với bồ chữ cậu tích cóp nên.
Xong việc, nếu trúng tuyển sinh, Liệu được năm đồng bạc Đông Dương, trúng khóa sinh được hai mươi đồng, cả một gia tài so với công sức dạy học của bố, làm ruộng của mẹ và các chị. Nhưng mà lo, mà hãi lắm. Mỗi lần xong lại hú vía. Bị phát giác ra, cả người thi hộ lẫn người thuê thi đều tù cả.
______________________
Chú thích:
1. Ý nói con người ta sinh ra có tính tốt lành. do hoàn cảnh mới đổi khác đi

Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #3 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 09:37:25 pm »

ĐỨT GÁNH GIỮA ĐÀNG
Đang tập chữ cho mấy người sắp thi, Liệu giả cách ông đồ Trình, đi đi lại lại gườm gườm. Chiếc roi mây thỉnh thoảng vút vào không khí.
- Anh Sắc, không thuộc quyển của tôi thì tôi không cho anh gặp cô Thắm nữa.
- Cả Chương đoảng quá. Chữ “trung” này không phải là quả chuông. Phí công tôi nhận lời với thầy mẹ anh.
- Anh cu Từ, như có con gà nhảy lên bới chữ trong vở ý. Tí nữa nhảy lò cò anh có chấp tôi một bàn không thì bảo…
Vun vút! Vun vút. Học trò lấy làm vui, cười khinh khích. Ông thầy mặt non búng còn thích thú hơn, vắng chúa nhà tha hồ vọc niêu tôm. Tập viết xong ra đình khăng đáo, dễ trò bắt nạt lại thầy lắm. Những phút nô nghịch, ăn trộm giờ học, bỏ tiết ngày càng hiếm hoi, Liệu phải “trộn” chúng vào buổi dạy. Thầy được là đứa trẻ, đã đành, mà đám trẻ cùng trang lứa - có anh lớn hơn - cũng được thư nhàn.
Bỗng “chúa nhà” về. Vẻ vui nhộn tắt phụt. Cả lớp trở lại nem nép. Ông đồ không thèm liếc qua đám trẻ, lầm lầm phịch xuống chõng. Liệu mang bát chè tươi lại, hỏi bố đi nắng về có mệt không, được một tiếng “ờ”. Mặt ông đỏ gay, lúc thì tái dại, phất lấy phất để cái quạt, bình sinh có thể thay ngọn roi mây, học trò rất sợ. Liệu đứng cạnh bố, mắt chăm chăm vào củ khoai đuôi chuột bu đầy ruồi, một lúc quay về “lớp”. Cả bọn ê a:
Đêm thanh thánh thót đồng hồ
Tiếng ai như tuồng anh đồ nhà ta

Chừng trưa thì rã đám. Liệu khoắng vại dưa vét mấy tàu thái nhỏ nghiến, cho vào cơm nguội rang lên. Không có mỡ, những hột cơm săn ngay lại, khô khốc, chẳng thấy mùi thơm. Liệu bê mâm lên, thấy ông đồ nằm quay vào tường, bèn chắp tay kính cẩn:
“Con rang cơm rồi ạ. Hay cha mệt, để con luộc quả trứng. Nhà Chắt thiếu tiền học, sáng nay đưa chục trứng thể”.
Ông đồ phẩy tay, ra ý cứ làm. Bữa cơm im lìm, chỉ con ăn, ông bố cứ chống đũa thở dài thườn thượt. Có chuyện rồi. Không biết mắc lỗi gì. Rất lo mà chả dám ho he. Rồi thật bất ngờ nghe dịu giọng:
“Con ăn trứng đi. Xong rồi bố nói chuyện”.
Tức thị không có lỗi. Khỏi bị đòn. Cho nên “có chuyện” mà quả trứng vẫn trôi tuột từ họng xuống bụng ngay tắp lự.
- Con nghe đây… Thời thế thay đổi rồi con ạ. Bây giờ cả nhà chỉ còn trông vào con.
Chậm rãi. Những lời đã sắp xếp rất kỹ. Liệu lùa nốt bát cơm, cứ lạ sao bố chưa ăn mà đã xỉa răng chem chép… Nhưng rồi cậu phải nín thin thít.
- Cha vừa lên huyện. Bảng yết rằng nay là năm thi Hương cuối cùng. Không còn kỳ nào khác. Vậy nên con phải chuẩn bị chữ nghĩa, rèn tập chu đáo. Thi đỗ là đạo nhà đấy con ạ. Anh Chước giỏi nức tiếng vậy mà mới chỉ được cái tú tài. Trông vào con… Chỉ còn trông vào con thôi…
“Ô hô… Ô hô… hời ơi ời”. Ông đồ nức lên, nước mắt nước mũi ướt chèm chẹp, chòm râu thưa giần giật. Để mặc bộ dạng chẳng chỉn chu, ông nghẹn ngào:
- Quân Tây Dương chó má” Đồ cẩu trệ! Giống Di dịch lông lá! Chúng ép vua ta bỏ Vương đạo, hành theo bá đạo của chúng. Bỏ khoa cử, bỏ chữ Thánh hiền là đau khôn cùng, khôn cùng con ạ. Chúng bỏ thi là để bắt dân ta rập theo chữ tây, văn tây, tôn thờ tổ bố chúng nó chứ không được thờ Đức Khổng Khâu nữa. Đạo Nho khốn cùng rồi. Văn hiến đứt rồi. Không có luân thường đạo lý nữa. Chúng bắt ta sống theo lối cầm thú được là vì có tàu đồng tàu sắt! Nhục ơi là nhục! Cha thì hỏng hẳn rồi, - ông đồ đã kìm được tiếng nấc - Anh con năm ngoái đỗ nhưng lại sớm bỏ cả nhà mà đi. Chỉ còn con, còn con thôi. Lần cuối cùng, con không đỗ thì sẽ ra sao. Hả con? Hả con?
- Thì hết đường làm quan ạ.
- Sao nữa?
- Không tỏ mặt được ạ.
- Sao nữa?
- Nhà nghèo túng, người ta coi thường ạ.
- Hết rồi a?
- Dạ, không “báo thư cừu” được.
- Đúng rồi. Đấy là mối hận tận xương tủy. Nhỡ con có sao, cha chết không nhắm mắt.
Chả hiểu ông đồ còn truyền những gì, nhưng Liệu đã nín thin thít. Đi thi ngay, có khác nào phải lấy vợ tắp lự. “Chẳng may” đỗ, sớm làm “ông” thì đứa nào nó khăng đáo cùng mình. Nhưng được gọi “cậu tú,, thì oách chứ nhỉ. Đậu Hội nguyên, Đình nguyên càng “chúa”, “võng anh đi trước…”. A, mà làm gì có “nàng” mà “võng nàng đi sau”. Nhưng cứ thi đỗ đã tỏ lắm rồi, bố đỡ đòn vọt, mà có khi không phải học nữa cũng nên.
Những ngày sau, Liệu được tẩm bổ, ăn uống sướng tệ. Những chuối trứng cuốc, cốm đầu mùa, trứng gà tươi ai ai trả chữ, ông đồ dành cả cho con. Nhưng phải thức khuya ra rả như cuốc, những chữ đã mòn lì cứ phải “luộc” lại kỹ, đánh cho nhẵn bóng.
Ấy là năm 1915, Trần Huy Liệu mười bốn tuổi, cũng chả phải người bé nhất trong kỳ vượt Vũ Môn cuối cùng. Chế độ khoa cử Nho giáo hạn chế cách tuyển những ông thông ông phán nên nhà nước thực dân bỏ thi, đưa vào trường học các môn khoa học tự nhiên và lối đọc a bê xê lợn xề bánh đúc, u xê úc là cục mắm tôm. Điều ấy làm các nhà nho nước ta tức phát điên, càng thêm thâm thù bọn mũi lõ mắt xanh. Tiến thân vào đâu? Lên quan ngả nào? Và nhất là đạo nhà đạo nước, rường cột đã qua dăm bảy trăm năm nay, phải chịu nhìn chúng gác qua một bên.
Theo thể lệ, muốn thi Hương phải qua mấy kỳ hạch trước. Kỳ đầu, thi tuyển sinh bằng một bài luận quốc ngữ, Liệu vượt ngon lành. Kỳ khóa sinh làm luận bằng cả chữ nho lẫn quốc ngữ, cậu nhá dễ còn hơn thia lia được hòn đáo vào lỗ. Sức vóc ấy, bồ chữ ấy, quà thi khóa sinh để vào trường thi Hương, có gì mà phải ngại.
Nhưng có chuyện trớ trêu làm chậm con đường đến Mỹ Trọng(1) của Liệu. Kỳ thi hạch đã qua, bảng yết lên cổng phủ. Trông thấy tên mình, Liệu nhảy lên, chả kể những kẻ nước mắt ngắn nước mắt dài xung quanh. Nhưng đám chức trách lại phát giác ra đề thi đã bị lộ từ trước. Kẻ trộm đề bị bắt, xử phạt rất nghiêm.
Lộ thì thi lại, có gì mà ngại. Bất quá mất buổi chơi và tốn thêm hào quà của mẹ.
Sáng ấy, tay ôm quyển, tay cầm bút mực, Liệu qua cánh đồng phủ Vân Cát đến điểm thi. Gót chân dẫm lên vệ cỏ, bờ mương sao ngăn ngắt, ơn ớn lạnh. Trận gió nhẹ thổi qua không đủ thổi rụng mấy bông hoa gạo đỏ thắm trên cao, mà cậu nổi gai ốc. Đến cổng phủ, Liệu dừng lại, theo lời cha lầm rầm khấn Bà Chúa.
Tới nơi thì đã mệt lắm rồi. Mắt đỏ lên, sưng húp da nóng hầm hập, mà người lại run như dẽ. Những bạn thi chạy lại hồ hởi đón, người nọ gạt người kia, tranh nhau nói:
- Liệu ơi, tớ có con quay cho ấy. Gỗ thị hẳn hoi, không phải ổi đâu.
- Đừng có làm bài một mình. Phải cho anh em liếc với - Trời đã cho ta kỳ thi lại. Liệu ạ, chỉ còn cậu là cho tớ chữ được, không bị trượt như lần vừa rồi. Yết bảng có tên là tớ trả công cậu ngay.
Nghe nhờ vả, mơn trớn, khoái chí thật. Nhưng chỉ một lúc, cơn rét run người lại đến. Cậu bé ừ ào rồi đi tìm chỗ tránh gió, làm mấy cậu tú tương lai nản quá.
Xướng danh. “Dạ có!”. Vào hàng.
Lại xướng danh, xếp hàng vào nhận chỗ. Nghe những lời dặn dò không được ăn cắp chữ, không được gà bài, tai Liệu cứ ù lên. Dặn lắm khéo ta ngã mất.
Đề thi xướng lên. Liệu cắm cúi chép. Yên tâm lớn. Gì chứ mình đã thuộc nằm lòng cả, trước, sau phải thế nào, chỉ việc viết ra. Xong, nộp bài cho sớm, kẻo ốm nặng mất.
Nhưng sao mắt cứ mờ đi. Tay run bắn, cố ghì chặt lấy bút mà chữ vẫn xiêu. Cơn rét từ trong ruột đâm ra, tòi qua xương qua thịt, làm bần bật cả bàn với ghế. Đầu nặng như ai lấy cái đỉnh úp lên, mắt không thể mở. Liệu đổ vật xuống đất, co quắp, không còn biết đến người ta đang khiêng ra, đổ nước gừng vào miệng.
- Thật khổ, thằng bé học giỏi mà đâm hỏng.
Tiếng ai lào xào bên tai. Không lẽ mình không làm được hết bài. Liệu vùng dậy xin thi tiếp, nhưng cơn sốt lại vật cậu xuống, càng lúc càng ác liệt. Mê man. Rừng rực như hòn than. Bệnh từ anh bạn cùng trọ học lây sang, người ấy bỏ cuộc ngay từ đầu, còn Liệu làm được nửa bài. Người ta mang cậu về nhà để mẹ trông nom.
- Học tài thi phận con ơi! - Ông đồ Trình uất tím tái cả người, mãi đến cuối ngày mới hộc ra mấy tiếng.
Kỳ thi Hương cuối cùng năm Ất Mão 1915 diễn ra trên cánh đồng làng Mỹ Trọng gần cổng tỉnh không có cậu khóa Liệu, tuy đã khỏe lại sau trận ốm. Không muốn nhìn con nhà người lều chõng gánh đi, ông đồ Trình đắp chiếu nằm rên hừ hừ.
Mọi hy vọng đều tiêu tan cả sau những gắng gượng cuối cùng, cha con dâng đơn hết cửa nọ đến cửa kia trình bày lý do, xin đặc ơn dự kỳ thi rốt đều bị từ chối. Rủi ro của người này là may mắn cho người khác mà.
Thật ra, vẫn còn một cơ hội nữa. Trường thi Hương ở Thanh Hóa đến hai năm sau (1917) còn tổ chức, Liệu có thể “mượn quê” trong đó đi thi, gọi là “ngụ thí”. Nhưng tiền bạc đâu ra mà ở trọ, chạy giấy tờ, đành bỏ. Khối người cùng trang lứa thất cơ đã xoay sang học trường Pháp - Việt, nhưng đấy lại chỉ là cửa may mắn cho anh có tiền. Cái tiền đồ hoạn lộ ông đồ nhắm cho cậu út phải đứt hẳn, giống như cánh đồng Mỹ Trọng không làm trường thi nữa thì biến thành sân bay.
______________________
Chú thích:
1. Nơi thi Hương của trường Nam (Nam Định).
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #4 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 09:38:40 pm »

CÀNH HỒNG LEO TRÊN TƯỜNG
- Biển cả bắt đầu từ đâu?
- Từ những dòng sông. Như sông Hồng, sông Ninh Cơ, sông Đào…, bao nhiêu nước đều đổ ra cửa Ba Lạt dưới Giao Thủy ấy con ạ. Thế nên chả trông thấy bờ bao giờ.
- Sao lại sinh ra dòng sông?
- Đấy là do muôn vạn khe suối nhỏ suối to róc rách trên nguồn. Những suối ấy lại có từ ức triệu những nguồn mạch rỉ ra từ lòng đất, từ áo rừng nguyên sinh, những rễ cây, thảm lá mục ẩm ướt che phủ núi đồi.
Thế “đất nước” là gì, màu hồng hay xanh, hình tròn hay chữ nhật?
- Cứ tạm hiểu đấy là bờ tre, chùm khế, bóng đa che mát mái đình làng. Là làn khói bếp chiều hôm, củ khoai mẹ dành cho sau mỗi lúc nô nghịch. Từ những gì rất nhỏ bé, thân thuộc mà ai cũng có.
Đối với người đi học, đó còn là con chữ, tiếng nói của người mình, những dáng tượng, câu chầu văn, nếp ăn nếp mặc của quê hương. Đó còn là nỗi hận bọn người mũi lõ mắt xanh làm đứt mạch văn của giống nòi, chặn đứng mọi ngả đường tiến thân.
Nhưng ông Trần Huy Trình chưa thể nhủ cho Liệu thấm hết điều sâu xa ấy. Còn lũn cũn, cậu bé chỉ nhớ đã bị mắng nên thân vì tội dám sang làng Báng Già bên cạnh chơi.
- May cho con tôi - Bà Trần Thị Nhự, tức bà đồ Trình, vừa thở vừa lau mồ hôi cho con. - Người bên ấy ghét người làng mình lắm. Họ đánh cho thì khốn.
- Sao lại ghét ạ?
- Người Tây dạy Báng Già, Báng Trại theo đạo.
- Các cụ nghĩa quân Văn Thân nhà ta ghét Tây, đã bắt giam mấy người làng ấy bỏ cho chết đói. Ông nội con đã giấu giếm, mang cơm cho họ.
- Văn thân là gì ạ?
- Giời ơi, có mỗi cái mồm mà hỏi lắm thế. Nói con cũng chả biết. Nhưng nhiều cụ cử, cụ nghè đến nhà ta chơi bàn chuyện bênh vua đánh Tây là Văn Thân.
- Con cũng đánh Tây!
Liệu nói rất cao hứng làm bà đồ phì cười:
- Cha nhà anh, đánh bằng váy đụp à? Để rồi nó lại đốt cả làng.
Có lần quân Pháp theo chân giáo dân đến cướp làng Vân Cát, đứng từ quán đầu làng bắn vào. Sau một hồi thì thụp mà không qua được cánh cổng làng toàn tre đực nguyên cây chúng núng thế. Dân làng hăng lên, mỗi người cầm một cây gậy tầy xông ra đánh. Một thứ áo giáp ai cũng khoác lên người để đạn phải tránh xa là chiếc váy đụp tẩm nước đái. Cuộc phản công thắng lợi, giặc rút lui, làng chỉ hai người bị thương. Nhưng rồi giặc quay lại đốt cả làng. Cụ Trần Huy Làn, - ông nội Liệu - bị bắt đi, mãi mới chuộc ra được.
- Có đúng là váy đụp tẩm nước đái thì tránh được đạn không ạ? - Liệu lại hỏi.
- Mẹ cũng không biết. Các cụ tin thế, nên đánh hăng lắm. Còn nhà mình thành tro.
Bà đồ trả lời con ngọn ngành, nhưng không quên mách chồng chuyện Liệu sang Báng Già. May được ngày bố dễ tính, cậu chỉ bị mắng mỏ chứ không phải đòn. Bèn được thể thắc mắc tiếp:
- Thưa cha, sao ta lại ghét đạo? Con thấy bên Báng họ cũng làm ruộng, chạy chợ như bên đây thôi…
- Vì người Tây núp sau bóng Chúa vào đánh nước ta.
- Nước ta rộng đến đâu?
- Ô, rộng lắm. - ông đồ phì cười nhưng sầm ngay mặt. - Đi hết tỉnh ta, tỉnh Thái là đến quả núi rất dài, gọi là Trường Sơn. Hết núi đến sông Cửu Long, cá tôm nhiều vô kể, lấy rổ xúc cũng nặng tay. Nhưng những đất nhiều cá ấy cũng bị Tây chiếm cả rồi.
“Xúc xuống nước mà cũng được rổ cá nặng tay”, thế nào mình cũng phải vào cái “làng” ấy”. Liệu lơ mơ nghĩ hỏi tiếp:
- Thế vua có đánh Tây không?
- Vị đánh vị không, đều không lại. Đức Hàm Nghi trốn lên rừng lập đồn trại, chúng nó bắt được đày ra bể. Khổ cho ngài. Các quan cũng đánh, mấy chục năm ròng rã cũng vẫn thua.
“Lớn lên con cũng đánh Tây” Liệu đứng vụt dậy nói lớn làm bà đồ phì cười.
Kéo con vào lòng, bà âu yếm:
- Cha nhà anh. Đánh Tây như bố anh, làm thơ chửi chúng nó chứ gì…
- Bà thì biết cái gì? - ông đồ gằn giọng.
- Thì tôi thấy ông với bác Tú Cương, bác Cử Kiểm, cậu Khóa Nhàn cứ ngồi ngâm thơ, Tây nó có nghe, có hiểu đâu.
Bình thường bà đồ rất hiền, hôm nay nói mấy câu đúng cả, mà sao Liệu thấy thầy đỏ lựng cả mặt.
Ông đồ nhỏm dậy ngồi thừ một lúc, quay lại, rất khẽ:
- Thế mình có biết bác cả đi đâu không? Bác theo đề đốc Tạ Quang Hiện khởi nghĩa bên Thái Bình. Tôi vướng nhà, chứ không cũng theo rồi. Tây nó biết nên mới đốt nhà mình.
- Ra thế. Không nói nên tôi chả hay. - Bà đồ ra chiều biết lỗi. - Nhưng súng ống, tàu đồng tàu sắt nó thế, sao đánh nổi.
- Quả có thế. Đánh mãi, mất người, cháy cả nhà mà nó cứ trơ ra. Này mình, nhân thể tôi nói chuyện này…
Ông đồ bảo Liệu đi ngủ, rồi thì thầm rất lâu với vợ. Có tiếng thở dài của bà, tiếng giải thích của ông, rồi bà lại tấm tức. Sáng ra bảo con:
- Thầy bảo định cho anh Chước đi học xa, sang Nhật. Chả là các cụ các bác bàn nhau đánh Tây mãi không xong, thì phải đi học cho giỏi hơn nó, đè lại nó. Người Nhật cùng da vàng, đồng chủng đồng văn, họ sẽ giúp mình việc học trước, sau cho súng về đánh Tây.
- Mẹ cho anh Chước đi không? - Liệu hỏi.
- Đấy là thầy mới ý định. Nhưng anh Chước đã ho ra máu mấy lần. Mà đi thì để vợ con ai trông…
- Hay là con đi!
Liệu hăng hái quá làm bà đồ tức cười, vuốt tóc Nhưng thầy đang định lấy vợ cho anh, lấy con ông lang Oanh bên Thái La.
- Con chả thích lấy vợ xa. - Liệu nguẩy ra.
- Làm gì mẹ chả biết con thích ai trong làng. - Bà đồ buồn buồn. - Nhưng bên cô Lọc người ta chê mình nghèo. Không lấy được cô Lọc đâu con ạ. Thôi, cứ nghe thầy bu đi…
Liệu buồn bã, ủ rũ, càng cám cảnh nghèo. Khoai chuột, cám rang thì cất mình sao nổi. Tưởng là đi học sẽ lên quan, đeo thẻ ngà, thì đường ấy đã tuyệt.
Nghĩ đến ánh mắt đắm đuối, bước chân con cón của ai bên kia bờ ao mà đành chịu. Phận nghèo thì phải hèn thôi.
Đấy là ngày trước, khi Liệu còn hay sà vào lòng mẹ, phải trốn cha để đi khăng đi đáo. Chứ mấy năm sau, gia cảnh càng khốn khó, nỗi bí bức hóa thành bi phẫn, thì cậu ra ông cụ non. Đêm đêm Liệu nằm ngâm những câu thơ ví mình như Bàng Thống ở đất Lôi Dương, chức tri huyện không thể phỉ chí. Những bài thơ đầu tiên cậu gửi đăng Nam Phong tạp chí ký bút hiệu “Đẩu Nam”, sánh mình với Địch Nhân Kiệt triều Đường bên Trung Hoa, tài năng lỗi lạc mà không được dùng.
Ông đồ Trình ốm nặng. Ngôi nhà tấp nập thoắt lặng lẽ. Sinh đồ ra vào rón rén, âm thầm nén lo âu.
Trong buồng bà đồ ngồi lặng, không thể khóc nổi. Đôi mắt bà đã lòa hẳn từ khi người con cả ra đi, lá xanh đã rụng trước lá vàng.
Như ngọn đèn cạn dầu thì bừng lên, trước lúc hấp hối, ông đồ gọi con út vào, dặn trông nom mẹ, đàn cháu con anh Chước. “Đời người ai cũng đến lúc này. Thầy đi trước là có phúc hơn mẹ con… Con phải chững chạc, cứng rắn hơn. Đang đi đừng nhảy lên như thế.
- Vâng ạ.
- Thầy buồn là đến giờ chưa lo được bến đỗ cho con. Anh Chước đã vậy. Nhà ta chỉ còn trông vào con. Không biết thầy có lầm khi cho là chỉ có học thì các con mới cất đầu lên được không. Nhưng nhà ta không học thì còn làm gì…
- Không cần nghĩ nhiều nữa đâu, thầy ơi…
Ông đồ hổn hển cố chống lại cơn ho, rồi dịu hẳn:
- Con là người trai ngoan nhưng đa sự. Con sẽ vất vả mất…
Cậu thiếu niên mười lăm tuổi không thể ngờ rằng mình, nhiều năm về sau, cho đến cả lúc đã tột bậc vinh hiển, lắm lúc sẽ còn phải nghĩ về linh nghiệm của câu trăng trối ấy.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #5 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 09:40:00 pm »

CHÓ CẮN ÁO RÁCH
Liệu lấy vợ sớm, ở cái tuổi non “anh” già “thằng”, nghĩa là chơi nhởi nghịch ngợm vài ba năm nữa không chán, mà khăn xếp áo the ra đình đàng hoàng một suất cỗ cũng đã đủ “chuẩn”. Tục quê xưa, nhà neo đơn hay lấy vợ cho con sớm để có người làm lụng.
Nguyễn Thị Tý, cô gái khỏe mạnh, sớm xốc vác là con ông lang ở làng Thái La, một trong mấy nơi hai bố con ông đồ đi bảo học. Đối với cô, Liệu là chỗ cha mẹ thuận gả, đã đành, còn bởi là người lắm chữ để “tham vì cái bút cái nghiên anh đồ”.
Đang còn trẻ con thoắt cái thành đàn bà, Tý như không cần cái đoạn chuyển tiếp thiếu nữ mơ mơ màng màng, luôn mong một cái gì mà không rõ.
Đêm tân hôn chắc lắm cảnh cười nôn ruột, chú rể nói năng như ông cụ nhưng “sự đời” chả biết quái gì cả. Còn cô dâu, như người nhà đã đâu, sáng ra gánh ngay nồi hông đựng nước giải ra ruộng rau. Khi lứa lợn, lúc luống lạc, cô làm cho cái gia đình tiếng cả nhà thanh ở Vân Cát đỡ khốn cùng. Thời chữ nho không còn đắt, bố con ông đồ dù đứt bữa vẫn phải ngậm tăm đủng đỉnh ngõ xóm, ra điều vừa được ấm chân răng. Giờ thêm người nhưng cũng chả thấm vào đâu Cái nghèo như tấm lưới đen sì, chắc chắn và nhớp nhúa bủa lấy ngôi nhà nhỏ.
Liệu đi dạy ở Hạnh Lâm, Công Luận, Ngọc Ba…, góp được ít hào, quầy quả đi như chạy về làng. Đợi cậu có bà mẹ đau mắt, các cháu con anh Chước - vừa mất vì ho lao - để lại. Và người vợ trẻ vừa bén hơi. Cảnh nhà sum họp, dù rách rưới, vẫn vẫy gọi người “bán cháo phổi” xa quê.
Nhưng vừa bước vào ngõ, Liệu đã phải sợ đến thót tim. Mùi thuốc phiện bay ra ngầy ngậy. Ai mà lại hút ở nhà ta? Chắc không phải người nhà mình, tiền đâu mà rước cái ấy…
Gian giữa, ngay dưới bàn thờ, chềnh ềnh gương mặt lạ. Hai gã đàn ông ngả ngốn, chân cẳng chìa cả vào tranh tiên sư, đang móp má rít. Một đứa loẻo khoẻo, rõ là nghiện đã lâu, khoái chí nhìn thằng bạn vạm vỡ đang lên tiên, mắt đờ đẫn, chân tay thả thõng thượt. Liệu quắc mắt nhìn hai “vị khách” rồi quay sang Tý, lúc này đã ríu cả chân vì chồng về.
- Chết thật. Thế này là thế nào?
Tý kéo gầu nước cho chồng rửa mặt, thì thào:
- Anh đừng nói to mà khốn. Họ đến đòi nợ…
Liệu dập tắt ánh mắt phẫn nộ, qua cửa ngách vào buồng mẹ. Bà đồ gầy võ, đeo mảnh vải màn che đôi mắt mù dở, luôn chảy nước. Bà nắn chân tay, vuốt lưng cậu út rồi đẩy ra, ý chừng vì Liệu lớn rồi, đã “thành gia thất”.
- Hai bác đây là người nhà ông chánh. - Bà giải thích. - ông chánh cử sang nhà ta nằm, bao giờ trả được thóc nợ mới về. Từ hai hôm nay nhà phải cơm rượu mời, con ạ.
- Nhưng sao họ nằm chướng thế?
- Ấy khẽ mồm chứ. Chúng nó nghe lại ậm ọe. - Giọng bà lại cao lên. - Con phải từ tốn với hai bác, đừng để bụng những chuyện nhỏ. Ông chánh nhà đông đầy tớ lắm.
Đang chuyện, bên ngoài gọi giật:
- Cho nước nhá? Nước sôi đâu?
Tý “vâng” rõ to rồi chạy vội từ dưới bếp lên.
Thằng loẻo khoèo ghé vành môi thâm sì vào vòi ấm. Nước nóng bỏng mà nó uống không ghê mồm.
Thằng vạm vỡ chân vẫn còn giật, đập tay xuống chiếu ầm ĩ:
- Cậu Liệu đã về rồi hả. Ra làm một bi với chúng tôi nào…
- Chào hai bác? - Liệu đứng chắp tay trước cửa buồng, giọng rất lễ độ. - Tôi không biết hút. Các bác cứ tự nhiên.
- Ôi dào, vẽ !… Không biết thì tập mới hút được chứ.
- Quả là tôi cũng tập rồi, nhưng không hút nổi.
- Cậu chê thuốc hả. Thế thôi. Ta ngồi nói chuyện.
“Loẻo khoèo” với chiếc thước lim nặng chích dựa vách, nhìn anh đồ rất xấc láo, nhưng giọng lại bẻo lẻo, ngọt ngào:
- Chuyện là thế này… Các cụ nhà ta vay ba thúng thóc của ông chánh, từ giáp hạt. Nay đến hạn mà nhà chưa trả, chúng tôi sang trọ lại ít ngày.
- Chúng tôi cũng chả thích xa nhà đâu. Từ Bình Lục vào đấy. - Thằng vạm vỡ đế theo. - Nhưng ông chánh đã nhờ, thì cũng coi như việc nhà mình cả. Cụ nhà và các cô các cậu chắc cũng chả thích. Thì cứ sòng phẳng mà trả cho xong. Được cả đôi bên cậu ạ - Hắn đặt bàn tay nặng phịch lên vai Liệu làm cậu suýt ngã xuống. Mặt chuyển từ đỏ sang tái vừa tức vừa sợ, Liệu lắp bắp:
- Nhưng…, nhưng…
- Thôi “nhưng” sau. Cậu vừa đi dạy xa về, có đồng rượu cho bọn này bữa chiều chứ? Phải thịt thủ đấy nhá. Mấy hôm nay toàn nhắm với lạc, nhạt mồm nhạt miệng tệ.
Ngoài ngõ chị Riêu đã về, gánh rau má lèn chặt oằn cả vai. Thằng loẻo khoèo nghển lên, tưởng gì rồi lại ngả xuống.
Chị Riêu mệt lắm, gánh rau đặt bịch từ ngoài cổng, không thể tha vào sân nữa. Phải vượt sông sang Bến Đá bên Thái Bình mới có rau, đi về bốn ngày vừa cắt vừa lôi tha, làm gì chả phát ốm. Liệu bê từng quang rau vào sân, sức nam nhi mà thấy nặng quá thể.
- Ấy chớ… Nhẹ tay thôi kẻo giập rau, mai nó héo hết. - Chị Riêu đang ngồi thở đã nhắc.
- Nhà đâu, hết người rồi a? Cho ấm chè nào?
Trong nhà thằng loẻo khoèo dài giọng. Trông hai ngón tay khô đét của nó vuốt dòng nước dãi chảy xuống cằm đến là ghê. Liệu cố nén, nhưng giọng đã toát ra vẻ giận dữ:
- Các bác xem, nhà còn ai đâu. Mẹ tôi mắt kém, chị tôi mới về đang nhọc.
Thằng vạm vỡ xồng xộc ra sân dứ dứ tay thước vào cái chum hãm nước phèn. “Cái này dễ vỡ lắm đây phải không cậu?”. Liệu nén nhịn xuống bếp gây lửa, tức nổ đom đóm mắt mà không dám nói gì. Ông chánh Cam thâm thật, mượn tận Hà Nam mấy thằng cẩu trệ. Quân nặc nô xa làng xóm dòng tộc còn biết nể sợ ai.
Buổi tối, cả nhà ngồi quanh nồi cám trộn rau má. Trên trời, trăng giáp rằm tròn vành vạnh tỏa xuống thứ ánh sáng trong trẻo. Ngoài vườn tre chuối xào xạc, cây khế rụng quả lộp bộp. Cảnh đẹp thế mà Liệu nuốt không trôi, chị Riêu giục mãi mới lùa nổi hai bát.
Trong nhà, đám khách không mời vừa tì tì nhắm rượu vừa cằn nhằn chửi đổng. Không có thịt, chị Riêu phải mua mấy bìa đậu nướng, dẫn vào buồng chỉ thúng cám và chum gạo nhẵn thín, chúng mới tha cho.
“Ăn” xong, Liệu đóng áo the, dận đôi guốc mộc, bỏ chục trứng vào rá sang nhà chánh Cam. Ra đến cổng còn quay lại mò que tăm vừa đi vừa xỉa chèm chẹp. Không ra điều có ăn, ai người ta mượn dạy chữ cho con…
Nào nhà ngói chữ môn, nào cầu ao lát đá. Những vựa thóc ngần ngật chấm mái, những đỉnh đồng, vạc đồng sáng choang. Nhà chánh Cam là một thế giới giàu sang, quyền quý, làm anh đồ nghèo lo ngại. Lại con chó dữ như hổ chực đớp áo lương mủn, và mấy đứa con gái váy nái khuyên vàng khủng khỉnh không thể tưởng. Liệu đứng ngoài bờ ao đến lúc muỗi cắn sưng chân mới được gọi vào, ấp úng:
- Bẩm, nhà cháu có con gà nhảy ổ, chẳng có gì, gọi là đem biếu bà…
- Đem về đi. Nhận của cậu chả bõ. - Mắt bà chánh liếc lem lém vào rá trứng. - Đến vụ gặt rồi bà đồ không giả thóc là thế nào, hả?
- Dạ, bà biết đấy, hai năm qua lụt có cấy hái được gì. Năm nay đê lại vỡ. Văn Chỉ cao thế còn ngập, ruộng không bỏ thì làm thế nào. Xin bà thư thư, cháu mới lo được từng này…
Liệu móc túi lấy mấy đồng bạc gói sẵn, để lên bàn. Mắt bà chánh lại quét nhằng nhằng.
- Ngần này mới chỉ đủ vốn. Ba thúng thóc cơ mà. Phải thúng rưỡi nữa mới có lãi chứ. Tôi không lấy lãi, làm phúc cho làng để chết đói à?
- Dạ, nhưng thóc mùa rồi bị mủn do ngâm nước lụt bà tính lãi hạ cho, nhà cháu phải trả gấp rưỡi thì thiệt quá.
- A, nhà anh đi cả huyện gieo chữ, gặt về bao nhiêu bạc, mà còn bài bây, hả? Người ta tôn sư trọng đạo lắm kia mà.
- Nhưng mấy năm đê vỡ liền liền, công cho thầy hạ lắm rồi. Mà chữ nho mất giá… Bà cho cháu thư thư dăm bữa rồi xin trả lãi đủ.
Hứa hẹn mãi, rã họng, mỏi mồm, bà chánh mới cho “y hẹn”, bảo người nhà cùng về gọi đám nặc nô Hà Nam rút.
Đêm ấy gia đình được yên thân, khỏi nghe thằng loẻo khoẻo khạc nhổ, thằng vạm vỡ tồ tồ trước cửa sổ gian bà đồ ngủ. Nhưng Liệu không thể ngủ nổi như mọi lần.
- Sao vậy? - Tý xoay cái bụng đã thây lẩy sang hỏi.
- Tức quá. Con mẹ chánh Cam cho khất nợ tạm nhưng riết đến nhục.
- Bảo sao?
- Thà là nó cứ phũ mồm thô kệch, thì còn đỡ. Đằng này lúc về lại nói chữ, bảo “quân tử nhất ngôn” đấy nhá.
- Ôi dào, tưởng gì… Thế mà cũng tức!
Tý cười khì rúc vào lòng chồng, một tẹo đã ngáy khò. Anh đồ không thể ngủ. Cơn tức đã phải nhường chỗ cho cái đói đang cồn lên, quặn cả ruột.
Mà ngoài sân trăng lại sáng quá. Những câu thơ chợt đến làm anh nhổm dậy, tiếng ngâm bật ra trong đêm…
Trời chưa sáng chừ. Lốm đôm những sao
Thời chưa gặp chừ. Vùi lấp anh hào
Cỏ chi trong hang tối chừ. Ai biết mà hái
Hoa lan trong rừng rậm chừ. Ai ngửi thấy hương
Thơ, nhất là thơ cảm khái thậm vô tích sự. Vì một đêm đang trầm tư u tịch như thế, nhà Liệu bén lửa, cái tàn tro từ hàng xóm bay sang. “Của cải” cháy tiệt, trừ cái nồi hông đựng nước giải. May là bà lão mù dở và vợ chửa được dắt chạy ra ngoài kịp.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #6 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 09:44:38 pm »

NỔI LOẠN
Bà Hai Cảo làm đồng về, vứt thịch mớ rau lợn cạnh cối đâm bèo, mặt mũi đỏ gay. Lên nhà trên, bà thấy ông khóa đang nhâm nhi, đùi rung tít.
“Phải nghèo, phải sạch mới chân nho…”, ông cao hứng ngâm. Bà khóa rít lên:
- Sạch với sẽ gì. Có ra ngoài kia mà xem, đứa nào nó viết gì lên tường nhà ông kia kìa…
Cầm sách Thánh hiền
Mồm liền lẩm nhẩm
Đi ra ngoài ngõ
Giẫm phải cứt trâu

Trên bức tường gạch mủn lỗ chỗ nhà ông khóa có mấy dòng nguệch ngoạc bằng vôi, có lẽ viết đêm qua. Giận run lên, nhưng nếp ứng xử của người quân tử không cho phép ông khóa mở mồm chửi đứa thối miệng. Tốt đẹp phô ra, chứ xấu xa bới tung lên để cả làng biết càng thẹn chứ ích gì. Nên chi ông quay vào sai người nhà đi xin vôi quét dấp đi. Khốn thay, người nhà còn có ai. Đã gọi là bần nho mà lị!
Ông khóa Cảo bèn lấy dao rựa cùn ra cạo. Cả đời đi học, chừng nay bốn chục còn đi học, cạo mất sức lắm. Mồ hôi toát ra, vừa đẩy con dao trên tường mủn, ông vừa lầm bầm chửi đứa phá thối. Nó chê ông học nhiều mà ăn hại đây mà. Thằng nào nhà có đỗ đạt mới hoắng thế…
Trong khu vườn bên kia ngõ, mấy chú choai vắt vẻo trên cây ổi đào ríu ran. Khoái nhất dĩ nhiên là Liệu, tác giả mấy câu vè nguệch ngoạc.
- Tao giẫm con bọ nẹt rát quá chúng mày ơi.
Liệu đứng trên cành rung rùng rùng như có bão, reo đắc thắng. Mấy đứa khác nắc nỏm:
- Thằng Liệu giỏi, nghĩ tợn thật.
- Kể thì vè chưa chỉnh nhưng nghĩ thế đã sướng chán.
- Này, ông tướng có vợ rồi đấy nhá!
Câu nói sau làm Liệu cụt hứng. Tụt xuống gốc, cậu lững thững về nhà, bắt đầu thấy hối. Thì ông khóa Cảo dốt nát, học nhiều mà chữ nghĩa tối mò mò, giã cối gạo, chẻ cành củi không xong. Nhưng thế thì có tội gì mà bêu? Vả lại ông còn là bạn anh Chước, là sinh đồ của thầy mình. Nhưng ai bảo ông ấy gạo, gạo quá, ngày đêm lẩm nhẩm mà có hiểu ý nghĩa gì đâu. Những ý nghĩ nửa ân hận nửa hả hê theo Liệu về nhà, nơi Tý đang đợi cơm.
Từ ngày anh Chước, rồi thầy mẹ theo nhau về chín suối, gánh nặng gia đình đặt cả lên vai vợ chồng Liệu. Con gái Xuân, gọi là cái Mẹt, và cu Chiểu, tức thằng Mo ra đời, lại thêm các cháu con anh Chước, gia đình bị đẩy vào chỗ không ngóc đầu lên được. Lúc nào cũng lo ăn. Cả nhà là một đoàn tàu luôn luôn hối thúc như cảnh tượng ngoài ga Gôi, bắt phải ngược xuôi bươn chải.
Bình sinh Tý đã như người đàn bà ra đời để làm lụng. Quần quật với mấy sào ruộng, tối ngày về lại chăm vườn tược, gà lợn, Tý không thấy nhọc, chỉ thỉnh thoảng eo xèo vì mồm ăn lắm quá. Nhưng Liệu thì khác. Ngược xuôi Thái La, Công Luận, Hạnh Lâm gõ đầu trẻ, ngày chạy ba bốn lớp, cậu không thể trốn được tuổi ngựa non. Ông thầy đôi tám không chững chạc hơn trò là mấy, thi thoảng còn sà vào đám chọc phá của mấy sinh đồ đã lộc ngộc vỡ tiếng. Phải giữ lễ trước các bậc nho cựu trào, làm bộ trịnh trọng trước học trò là một cực hình. Lắm lúc Liệu phải ra vườn đá bình bịch vào bụi chuối hay nhảy cỡn lên. Chí ít, là ngâm mấy vần thơ đầy hào khí nhưng bi phẫn của kẻ không gặp thời, những câu Tý chỉ cho là “dớ dẩn”.
Không còn người kiềm tỏa trong nhà, Liệu thấy như mình đã hư thân hơn. Cho nên, trêu xong ông khóa Cảo, hả hê chút ít rồi lại thấy mình không phải.
Nhưng ác hại nhất, là Liệu thấy mình như đã hư tâm hơn. Những câu ghi xương khắc cốt của ông đồ Trình dần bợt bạt, phôi pha. Đạo Thánh hiền đã không cứu nổi cả nhà. Học tài thi phận, chí cao mà có ai dụng? Bao giờ mới gặp người tri kỷ, để thờ phụng, để dốc sức như Bàng Thống, Khổng Minh gặp Lưu Bị xưa? Chữ Thánh còn đáng để ta nhai nhải, ghi tâm, trích dẫn, ví von hàng ngày, khi mà độ nhật toát mồ hôi không xong? Cho nên, hàng ngày bán chữ kiếm ăn, dạy lại những “chi hồ giả dã” nằm lòng, Liệu thấy mình như trâu nhai rơm. Mà mình là con người, đang độ lớn, chứ có như con trâu cày ruộng ngoài kia, tối về được nằm chân đống rơm là đủ Không lo thân, xoay chuyển được hướng đi, khéo lại như con trâu về già, người ta chọc tiết ồng ộc xong pha ra cho vào nồi ninh, là hết. Còn không được phong lưu bằng ông khóa Cảo…
Càng bức bối khi đọc Tân thư. Từ trước, chỉ biết chữ cụ Khổng, nhai nhải những điều người trước đã biết cả vài trăm năm. Xung quanh, những túc nho, học giả yêu nước bề bề, một lòng cho Tây Dương là giống lang thú, vì người nó lắm lông lá, không biết đến cái Đạo của ta. Nhưng sao nó cứ đánh đâu được đấy “ăn” xong trong Nam thanh toán nốt Bắc Kỳ, coi quan quân ta chả ra gì. “Sang ta chỉ là cặn bã của Đạo Nho thôi. Có thấy cũng theo trung nguyên, nhưng phong kiến ta có bao giờ được Trung Hoa coi trọng bằng các triều ở Cao Ly, Nhật Bản đâu?”. Có lần Liệu nghe được câu ấy trong buổi anh Chước gặp mặt mấy người bạn, bèn nhớ nằm lòng. Cái ý phê phán vật cũ, nhận biết cái mới nảy mầm, ngọ ngoạy trong đầu. Mấy quyển sách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu như mũi tên bắn vào hệ thống Nho học cụ đồ để lại, làm những mảng miếng chữ nghĩa rụng xuống lả tả. ở làng thì bụng đói chân tay bí, ra đến ga Gôi, đến tỉnh Nam Định, thấy những việc người Tây họ làm, thì đức tin phải lung lay thôi. Những trung tâm lớn như Hà Nội, Sài Gòn thì sự kính tín càng dễ suy sụp.
Không suy làm sao, khi mà ở chính Trung Hoa, nơi đẻ ra đạo Nho, người ta theo cả mấy nghìn năm, mà đám cách tân còn mọc sủi ầm ầm. Dù nhà Mãn Thanh còn trị vì, nhưng trí thức, thanh niên tiến bộ bên ấy đã trông sang phương Tây. Lương Khải Siêu lấy hiệu Ẩm Băng, ý nói trong lòng nóng quá phải uống băng cho hàn bớt. Cuốn Ẩm Băng thất của ông khiến lòng Liệu ngổn ngang, rã rời.
Đả kích lối thi cử hủ bại, gọi bốn trăm triệu đồng bào mình là bốn trăm triệu cầm thú, họ Lương tự nhận mình là cái đích cho muôn mũi tên của bọn hủ nho bắn vào. Sĩ phu náo loạn vì những phát đạn tiên sinh bắn ra. Ai lại đang dầy dầy quốc đạo, đường đường trung tâm vũ trụ, mà ông ta rước về những tư tưởng của Mông-tét-ski-ơ, Rút-xô, Von-te. Bá đạo chứ còn gì. Tà đạo ấy chứ lị. Mấy cái lão những lông đầy người ấy là ai. Cần gì những thứ của bọn Tây Dương mũi lõ?
Những mầm nghịch thấm vào Liệu mỗi lúc một tẹo, cựa quậy, lớn lên trong sự chèn ép của chân nho. Ít ai, kể cả ông đồ Trình, lại ngờ được người đầu tiên rước “bá đạo” ve nhà là anh Chước. Một hôm Liệu bị anh lôi ra đám rau ngót cuối vườn, thì thào:
- Hôm nay thi hạch, quan trường ra đề luận Tử Lộ và Quản Trọng ai giỏi hơn ai…
- Hỏi gì mà hỏi lạ thế? - Liệu ngạc nhiên.
- Lạ chỗ nào, chú nói anh nghe?
- Tất nhiên là Tử Lộ hơn. Ông ta môn đồ cụ Khổng, chính đạo rành rành. Quản Trọng có giỏi đến mấy cũng chỉ là phường bá đạo thôi.
- Thế mà anh Cung ở Nho Quan lên, học trò cụ đồ Huyền, lại luận Quản Trọng hơn. Kể thì dũng cảm thật, dám nói ngược các cụ. Mà anh thấy Quản Trọng có nhiều cái mới lắm.
- Dũng cảm nhưng thi trượt đầu nước cho mà xem…
- Anh cũng chán sự thi cử lắm rồi. Nhả chữ phun châu như con vẹt, mà nhà vẫn chả đủ ăn. Có khi anh đi buôn…
Liệu tròn mắt, như thể không nhận ra người anh hàng ngày. Tú Chước nói rất hăng về những biến pháp, tân pháp trong lịch sử, bọn Thương Ưởng, Quản Trọng nghịch ngợm, phá cách thế nào: Anh khuyên Liệu đọc Công ước(1), Vạn pháp tinh lý(2), những Nam sử, Địa dư, Toán pháp
- Cả mấy tờ Đông Dương tạp chí, Đại Việt quan báo, Đại Việt công báo nữa. Nhất là Đăng Cổ tùng báo rất lạ, không như trong trường ốc mình đâu.
Đang hăng thì trong nhà ới ra. Hai anh em quay vào tú Chước không quên dặn em:
- Đừng nói gì với thầy nhá. “Thủ tử thiên đạo”(3) mà.
Từ hôm ấy, luống rau ngót sau nhà thành chỗ Liệu vểnh tai ra nghe anh nói về “mưa Âu gió Mỹ”, sách “Trung Quốc hồn” của Lương Khải Siêu. Cả một chân trời mới mở ra. Liệu bắt đầu lần mò sang những sách về Lui Kốt-suýt, nhà cách mạng Hung-ga-ri, quyển “Ba người anh kiệt nước” của Man-di-ni.
Chúng như có thuốc kích thích, đọc xong muốn bắt chước nhân vật để tang nước mất, đi làm cách mạng để ở tù. Cứ quay cuồng vậy mà ông đồ không biết, phần bị giấu, phần nhà lắm việc, vắt mũi chả đủ đút miệng, lấy đâu thì giờ hỏi han con.
Anh Chước mất, để lại một hòm sách. Rất lâu sau đám tang, ông đồ mới mở hòm, lấy ra cuốn vở xem kỹ rồi thở dài: “Anh con không sang Nhật được, phí quá?”.
Cuốn vở có tên “Phương châm cứu nước”, ghi chữ nho, đặc những điều trần mà đám sĩ phu mới ở Trung Hoa đang sùng sục đòi áp dụng: mở trường kiểu mới, bỏ lối thi truyền thống, cưỡng bách học tập lập hội buôn, áp dụng kỹ thuật của người âu, cải lương phong tục ta…
Những điều anh Chước viết là một đòn giáng nặng vào người ở lại. Liệu vừa sợ vừa xa bố, cảm thấy nghiêm cẩn cũ kỹ quá, trong khi ông đồ đêm ngày lo con út đi xa dần những nguyên tắc của mình. Liệu mất người bày tỏ những “cái gì” với “tại sao”, mà ông bố cũng hoang mang lắm, không biết có nên gò thằng bé đi mãi con đường cũ…
Năm 1917, bố và anh đi cả, Liệu chả còn ai để kiềm tỏa. Dù đã vợ con, cậu vẫn là chú nghé ngứa sừng. Cái mầm tân học lớn dần khiến Liệu cứ phải chọc ngoáy, quấy phá những bậc tiên nho trong vùng.
Thỏa chí đấy, hả hê đấy, nhưng chỉ được chốc lát ông khóa Cảo ù lì cũ kỹ, chẳng có tội gì nữa mà hành thêm. Thi hỏng rồi, muốn thi tiếp không được mà việc mở trường bán chữ ngày càng khó, càng rẻ. Mà chữ chỉ là chữ thì để làm gì, mình không trọng chữ nữa lại cứ dạy mãi được a…
______________________
Chú thích:
1. Contrat social của J. Rousseau. Nay dịch “Khế ước xã hội”?
2. Esprit des lois của Montesquieu. Nay dịch “Tinh thần pháp luật”.
3. Giữ đạo trời cho đến chết.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #7 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 09:47:30 pm »

PHƯƠNG NAM VẪY GỌI
Trượng phu chống kiếm đi thì đi
Đừng như nhi nữ lúc phân ly…

Liệu cứ tưởng mình lẫm lẫm ra đi được ngay, nếu vợ níu lại thì rút gươm cắt phăng ngay vạt áo mà tiến vào sương gió. Dễ như bỡn. Nhưng đâu có thế. Anh thấy mình cũng yếu mềm, lâm ly thổn thức như thói thường.
Để tang chồng hơn một năm, bà đồ cũng đi theo, tới cái chốn có cả con trai cả, để lại trên đời mớ cháu cho cậu út. Không phải chăm mẹ lòa, Liệu lại sớm gánh lấy vai bố. Hĩm Mẹt và cu Mo lọt lòng quặt quẹo thiếu sữa mẹ dù Tý rất khỏe mạnh. Ông giời thế mà ác? Bỏ đấy mà đi tức là để nợ cho vợ, rất là không nỡ…
Nhưng không đi thì sao? Sinh nhai, dù cố cách nào không thể có cửa gỡ ra. Luôn luôn là cái gánh nặng lo ăn, cả đời không bỏ xuống được. Và cái làng quê thì quá lắm tục lệ, sống quanh quẩn không chịu được. Như anh Đích, tầm tuổi mình, nhìn cây cột ghi một năm ba chục cái giỗ mà mặt mũi bạc cả. Không trốn giỗ được nhà ai, mà ai trốn giỗ nhà mình thì cũng nằm lòng, sao lũy tre làng nó thắt con người ta chặt vậy. Lên Hà Nội gửi bài cho tạp chí Nam Phong, Liệu thấy sao đời người đàn ông ở tỉnh nó nhẹ nhõm. Độc lập, không phải ra kính vào bẩm, thích chào ai thì chào; mình cũng có thể sống như bọn nhà báo tự do được lắm chứ. Khối thằng danh nổi mà thực lực đâu so nổi với mình, chỉ được cái cô đầu thổ đĩ là thành thần.
Thế thì đi đâu, thế nào, với ai, và nhất là lấy gì để đi?
Liệu thiên về phía Nam, nơi cuộc sống thoáng đãng, ít “mùi” Nho học hơn Hà Nội. Sài Gòn, với những lề luật của xứ thuộc địa, nhất định là mở chứ không khép hờ hờ như đất lề quê thói. Và kiếm ăn hẳn là cũng dễ, “xúc cái rổ xuống nước cũng được mớ cá to” kia mà.
Và về phần chí hướng, Liệu cũng thấy khuôn khổ tự do trong Nam thích hợp với mình hơn. Dù những bài báo, ký nhiều tên khác nhau, đem lại chút vinh danh cho anh ở làng, nhưng Hà Nội vẫn cứ chật hẹp thế nào. Những tộc người từ một làng quê lên sống bằng một nghề thủ công, dựng đình đền, đem cả thành hoàng lên thờ, nó tạo ra cái bí bức. Liệu cũng đã bớt phớn phở với những tư tưởng của Lương Khải Siêu, thấy nó “nửa vời”, không đến nơi. Mà anh thì quá ghét thằng Pháp, thấy nó đứng đâu chỉ muốn đem đất chỗ ấy xúc đổ đi. Đi Nam, vào chỗ “mùi Tây” nặng hơn, tức là phải ngửi hít, chịu đựng những thói thực dân của chúng nó nhiều hơn rồi. Mà mình phải sống được chứ không thể thành cái xác bón cây cao su như đám phu mộ đang kìn kìn vào trong ấy…
Liệu thấy như bị bó chân. Lắm lúc mặt đần thối, đi đường làng dẫm cứt trâu, chả khác ông khóa Cảo Cứ miên man chả rứt ra được. Cô vợ trẻ tất nhiên chả thích chồng lang bạt. Nghèo thì cũng có nhà có cửa rồi, ở nhà rau cháo có nhau chả hơn à…
Cú hích để anh rời khỏi quê nhà là từ ông Bùi Trình Khiêm, bạn thân anh Chước, một thời dạy Liệu học. Là nhà nho có danh vọng nhất nhì vùng Vụ Bản, ông Bùi lại thấm thía con đường cụt của đạo Thánh hiền, nhất quyết đoạn tuyệt với khoa cử ngay từ khi bỏ thi Hương. Học trò ông nhiều người đã chuyển theo quốc ngữ, vào trường Pháp - Việt hay sang ngạch kỹ nghệ, buôn bán. Ít năm sau, ở Hà Nội, thông Vôi (Nguyễn Hữu Thu), ký Bưởi (Bạch Thái Bưởi) đã được coi là vĩ nhân khi rời bỏ đám nho sinh ưa bạo động, trở thành nhà tư sản hàng đầu Bắc Kỳ.
Ông Bùi yêu mến chú hậu sinh vừa là trò vừa là đàn em, bàn rằng: Nam Kỳ là đất thuộc địa, chính sách nới rộng, tư tưởng mở mang hơn. Ta vào đấy kiếm ăn dễ, lại đoạn tuyệt thói thủ cựu, có khi cậu như cá gặp nước.
***
Tháng 9 năm 1923, tàu Caravellas, thường gọi là chiếc “Năm-sao-cụt” rời cảng Hải Phòng vào Sài Gòn. Lộ trình thường mất ba bốn ngày, gặp bão lốc sống được là may. Tàu chở bò xuất khẩu, khai thối không thể tả. Khách, là đám “đi thêm”, có vợ chồng ông Bùi, hai con, Liệu và vài anh bạn. Năm người trong “phái đoàn ông Bùi” được ngủ trong phòng chủ tàu có độc chiếc giường, giá thuê mỗi ngày một đồng bạc Đông Dương. Nhưng sự chật chội, nhớp nhúa và mùi nước đái bò không làm Liệu ngán mấy. Ngổn ngang trong lòng chàng trai hai mươi hai tuổi là bao nhiêu hy vọng.
Caravellas không phải tàu khách nên chả có ai tiễn. Hú lên hồi còi dài, nó đủng đỉnh rời bến. Đứng trên boong, nhìn cầu cảng xa dần, Liệu chợt cồn lên nỗi rưng rưng. Phía đuôi tàu là phố xá, chả nhìn thấy đâu cái làng Vân Cát bé tẹo nghèo khó, ngôi mộ của thầy mẹ, anh trai đã sang cát. Tý liệu có chạy gạo đủ cho các con cùng cháu, hay sẽ sang Thái Bình cắt rau má như chị Riêu. Và ngôi nhà, đã đôi ba phen cháy rụi…
Khỏi Đồ Sơn thì mọi tâm trạng bay biến. Chỉ còn nôn ọe, choáng váng, xây xẩm. Có cái gì như lưỡi câu móc vào ruột kéo ra, rút tuột mẩu bánh mì hồi sáng. Một lúc, mật xanh trong bụng cũng không còn, nhưng cơn nôn khan cũng chả buông tha. Căn phòng nhỏ tanh tưởi, ai nấy nằm như lũ gián chết. Liệu ra đứng ngoài boong tàu.
Sóng đâu mà lớn thế. Như núi chờm qua. Cả cây nước từ trên trời trút xuống. Thấy người khách trẻ hãi, vào buồng tránh rồi lại chạy ra, anh mạch lô bảo từ đây là chỗ lắc mạnh rồi. Chẳng có núi nào cản nên sóng từ xa cứ nhè tàu mà bổ.
“Phái đoàn” bảo nhau cố chịu, bốn ngày đến nơi sẽ thư sướng, tha hồ ăn mặc gấp nghìn lần ở quê.
Nhưng sao đám thủy thủ đều hối hả vậy, hết ca không ăn cơm mà chỉ nhá bánh mì, tiếp tục làm việc Ai cũng thất sắc, vẻ khẩn cấp hiện rõ là thế nào. Nghe đâu máy hỏng, tàu bị thủng, phải hàn. Anh mạch lô trẻ, từ đầu lúc nào cũng nghêu ngao hát, chui từ buồng chỉ huy ra hét chõ vào buồng máy:
- Quan tư ra lệnh lúc nào kéo còi mới được cắt phao đấy!
Thôi. Thế là chết rồi! Bất đắc kỳ tử giữa biến khơi, đến nấm mồ cũng không có. Bà Bùi oẹ khan, cố cầu Giời khấn Phật. Bất giác Liệu cũng “Nam mô A Di Phật…”, “Lạy Bà Chúa Liễu, con là người làng Vân Cát đây, bà đừng vật chết chúng con ạ”( ).
Trong cơn cồn cào là hình ảnh vợ con, những con người yêu mến ta và ta hằng yêu mến. Sự nghiệp ngắn quá thế. Ta mới có mấy bài thơ tỏ chí trên Nam Phong… Đời ngắn thế ư? Tình đoạn thế ư? Không được chết vì tay những kẻ ta hận thù thế này thì uổng quá.
Chừng như Trời Phật nghe thấy, nên sóng bớt to bể êm hơn. Tàu đã chữa xong, bơm được nước ra còn máy lúc chạy lúc hỏng. Lênh đênh, ngắc ngoải mãi ngoài khơi, thế rồi cũng vào được tới Đà Nẵng sau bảy ngày.
Ngày thứ mười sáu thì cặp Sài Gòn. Năm thầy trò lên bờ xanh xao, tanh tưởi. Nhưng chỉ sau bữa cơm no, Liệu đã có thể ngâm rống lên
“Mãi mãi phồn hoa kim thế giới
Lịch triều khai thác cố phong cương”
(Thế giới ngày nay đầy mắt phồn hoa,
Bờ cõi ngày xưa đã từng khai thác từ triều vua này đến triều vua khác).

Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #8 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 09:49:25 pm »

THỢ NỬA MÙA
Ông Bùi Trình Khiêm có người bạn là Lê Đức, chủ trương tờ Nam Kỳ kinh tế. Ông Đức có hơn mẫu vườn ở ngoại ô Sài Gòn - Chợ Lớn, đang thiếu nhân công. Vậy là thầy trò có thể tha hồ múa bút hay đánh cây, làm cỏ. Bằng không, ra buôn bán nhì nhằng ngoài phố đợi thời phất lên cũng được chứ gì. Chuyển sang thương mại là một xu hướng của đám nhà nho thất thế. Nghĩ đến nghiệp lớn đang chờ, thì hùng tâm tráng trí lại lên ầm ầm.
Nhưng trước hết phải làm chầu hủ tiếu. Sau đó, chải sạch quần áo để hết những tanh tưởi hôi hám trên tàu. Đi kiếm sống cũng phải bề bề thể diện, vừa giữ cho mình vừa giữ cho người mình sẽ nhờ cậy. Rồi cả đoàn đóng xe kéo đến địa chỉ đã được cho.
Căn nhà hoang tàn, như vừa có trận bão cuốn qua. Ông chủ, thiểu não hơn cả khách, cho biết do làm chính trị, ông bị mật thám khám nhà, phủ Thống sứ Nam Kỳ gọi lên bắt ký vào nghị định trục xuất về Bắc. Bơ vơ giữa Sài Gòn đắt đỏ, phái đoàn nho sĩ Nam Định giạt về Mỹ Tho rồi sang Sà Đéc.
Sa Đéc có cụ Võ Hoành, cũng là một chính trị phạm bị an trí, sống bằng nghề thuốc. Cụ Võ rộng nhà rộng bụng, có thể cho họ dung thân ít lâu. Hàng ngày Liệu tán thuốc, thái đỗ trọng, xay tam thất, rầu ruột ngâm những câu thơ cảm khái. Thơ cảm khái thì sẵn vô cùng.
Áp Tết rồi. Xung quanh rậm rịch mổ lợn gói bánh tét. Ngoài sông vắng hẳn những con thuyền khẳm trái cây. Thầy trò ông Bùi đi dạo phố, ngắm những cửa hàng của người Hoa đỏ ối lạp xường, đàn trẻ nhấm kẹo bông mồm nhoe nhoét mà cám cảnh vô cùng.
- Sẩy nhà ra thất nghiệp là đây, Liệu ạ.
Ông Bùi rầu rĩ thở ra trong khi Liệu để tâm vào bàn thờ thiên trong góc chợ. Khói hương nghi ngút, màu giấy phong bao thật tươi mắt. “Hay là chúng ta viết câu đối…”, anh reo lên.
- Nhưng cậu vẫn thương hại bọn bần nho bán chữ kia mà.
- Thưa thầy, đến nước này thì mình phải thương lấy thân mình thôi.
Miệng nói, chân hăm hở rẽ vào hàng tạp hóa.
Ông Bùi cũng hăng lên dốc túi mua mấy băng hồng điều, cây bút lông lớn và thỏi mực tàu. Ngần ngừ trước cái nghiên, hai thầy trò quyết định chẳng xa xỉ làm gì, ra mé chợ nhặt mảnh bát vỡ còn hơn.
Cái góc phố họ chọn đông người qua lại, trước một gian hàng đã đóng cửa ăn Tết. Giải chiếc chiếu lem nhem, Liệu xắn tay mài mực. Cũng may thầy trò mang cả áo lương theo nên trông ra dáng ông đồ ông Bùi ngồi bằng tròn lấy tờ báo ra thử bút. Nhưng sao tay cứ run bắn, mặt hết tái dồn sang đỏ. Được một lúc thì gác bút, chìa ngón cái tay phải nhăn nhó: “Dập đã mấy tháng rồi mà không hồi nổi. Liệu viết đi. Ấy, khoan đã…” Lại phải chạy đi mua thẻ hương. Bắt đầu một “nghề” mới, cách kiếm ăn mới, không cầu khấn mấy câu thì thần thánh nào ban cho cái may. Đoạn mào đầu không thiêng liêng lắm nhưng không đến nỗi báng bổ, vì Liệu chợt nghĩ đến đền Ngọc Sơn ngoài Hà Nội. Cụ Nguyễn Siêu viết “Tả Thanh Thiên” lên Tháp Bút là muốn tỏ ước vọng vòi vọi “viết lên trời xanh” của kẻ sĩ, mình cũng có ước vọng đấy chứ.
- Viết chữ gì bây giờ, thầy ơi? - Liệu cất tiếng.
- Thì cứ những câu thông thường ấy thôi. Không cần cao thâm làm gì.
Tông cựu tà ma ra khỏi cửa
Nghênh tân phúc lộc rước vào nhà
Liệu nhoay nhoáy thảo vào đôi băng giấy điều, chữ nhỏ và bay bướm, nét đậm nét thanh rất điệu, đoạn treo lên. Đang soạn một đôi câu đối khác thì có tiếng trầm trồ “Hảo a” Hảo a”, ông Tàu mặt tròn trĩnh đứng gác một chân lên hè ngắm nghía, miệng khen không ngớt.
- Tiên sinh viết đẹp hà. Phết phẩy rất có hồn hà.
- Dạ, không dám…
Liệu nhún mình đúng kiểu chân nho không coi lời tâng bốc hay đàm tiếu vào đâu, phóng bút tiếp.
Tết đến nhà nhà vui con trẻ
Xuân về thôn xóm chúc ông bà
Đấy chỉ là những câu sáo mòn, đối không hẳn đã chỉnh, ngoài kia Liệu và đám bạn vẫn chỉ trỏ cười chê, nay cóp lại mà được khen nắc nỏm. Những là sâu xa, những là hàm súc, nhiều ý tứ bên trong lắm. Dân “ở trong” dễ tính thật. Vài người nữa xúm lại, kẻ không biết thì tò mò, người có chút chữ thì tán tụng. Ông người Tàu đợi cho câu đối ráo mực, cuộn lại, bảo “Tôi lấy đôi này dán cửa bếp. Nhưng hơi nhỏ. Phiền tiên sinh viết cho đôi đại tự dán cột nhà”. Thấy Liệu nhăn nhó, ông vỗ túi xường xám:
- Tiên sinh khỏi lo. Tôi có tiền. Tôi mua giấy lớn, bút to, tiên sinh phóng tay đại tự mới hả.
Ông ta cứ nhì nhèo, rằng bấy lâu ở Sa Đéc không ai biết viết câu đối đẹp, rằng được chữ tiên sinh là có phúc lớn cả năm. Có biết đâu rằng “tiên sinh “ đang bí. Từ nhỏ đến giờ toàn tập trong vở, có “viết” đại tự bao giờ. Đó là một thử thách rất lớn, ai không rành thư pháp hở cơ ngay, như đô vật lấm lưng trắng bụng trên sới.
Cũng may ông Bùi đứng ngoài đỡ hộ:
- Xin ông thông cảm. Thư pháp không phải không biết. Nhưng gia đình chúng tôi có một lời nguyền từ tổ tiên để lại là không viết đại tự bán? Chỉ làm từng đôi nhỏ thế này, chơi cho vui. Các vị cho bao nhiêu cũng được…
- Thế thì tôi đành chịu. - ông khách trả tiền đôi câu đối nhỏ rồi bỏ đi.
Từ sáng đến trưa không bán thêm được đôi nào.
Người người cứ tụ rồi lại tán, có khi chê gàn, có khi khen chân nho giữ đạo nhà. Rồi cuốn chiếu thu “nghiên”, rửa bút lủi thủi về. Đau nhất là ông Bùi, rất thạo đại tự mà không múa bút được vì cái ngón tay chết tiệt. Liệu đau xót nghĩ đến cha, anh, giận mình chê cánh bần nho bán chữ giờ mất cơ kiếm ăn. Mấy xu đôi câu đối chả đủ tiền giấy mực, đúng là chó cắn áo rách.
Về đến nhà, thì những miệng đang chờ. Cụ Võ Hoành nghỉ hàng, Tết không ai bốc thuốc. Liệu tần ngần rồi dứt khoát bảo ông Bùi:
- Thầy ơi, em phải đi thôi!
Tàu thủy Sa Đéc - Mỹ Tho trống hoác như dạ dày người khách ngồi gần buồng máy cho ấm.
Người bán vé đến, Liệu phải vật nài mãi mới bán lại được chiếc đồng hồ ông Bùi cho làm kỷ vật được ba đồng bạc, đủ tiền về Mỹ Tho rồi bắt xe lửa về Sài Gòn. Tiếc lắm. Nhưng phải độ thân trước đã.
Sài Gòn sáng rực. Pháo nổ đì đẹt, người đi lại sao mà diện, mà đẹp, trong khi mình chỉ cốt ấm. May ông chủ nhà 80 đường Bonard rất tốt, đón khách vào nhà. Không gian có mùi nhang, cành mai trong lục bình làm vợi nỗi cám cảnh trong lòng người xa nhà. Nhưng lại ốm mới chết. Tê phù, chân tay liệt như không phải của mình. Phong tê thấp, cái chứng quái ác người Bắc hay mắc khi vô Nam đã hỏi thăm đến Liệu. Anh không thể ngồi dậy, người múp míp như túi nước, ấn tay vào nhũn nhùn nhùn. Và hôi thối vì không thể ngồi dậy đi vệ sinh. Cũng may hàng ngày có người dọn dẹp, lau chùi hộ, chứ không thì căn gác bị lầm tưởng là cái nhà cầu không ai quét. Thật ra thì Liệu không cám cảnh nhiều lắm, niềm vui ra giêng có việc làm anh khấp khởi.
Đó là tập sự nghề khắc dấu đồng, theo học những thợ đàn anh trong nhà. Cầm dùi sắt, chạm đồng, xước sát, chảy máu luôn tay, Liệu chẳng quản. Khốn thay anh không phải người khéo. Thế nên, phần vì thương mến, ông chủ cứ phân thêm những việc nhà cho nhẹ nhàng hơn. Thỉnh thoảng ông rủ Liệu đi ăn hủ tiếu, xem hát bội. Với một người Nam Bộ bình thường, những nhận xét của Liệu được xem là rất sắc sảo. Được tôn trọng, coi là nửa tập việc, nửa là chú em, mà Liệu không thấy thoải mái. Người ta tốt. Nhưng cứ thế này anh sẽ không học được nghề mà vẫn mang ơn nuôi ăn.
May là thuê chung ngôi nhà có ông phó may. Liệu bèn xin sang học nghề mới với cái cớ chân tay lóng ngóng, e tốn công dạy dỗ của thầy. Bây giờ là đốt bàn là, đơm khuy, thùa khuyết, dọn vải vụn, chạy đi mua chỉ… Tuy lặt vặt, anh có tâm trạng đỡ là người ăn theo, kiếm tiền một cách sòng phẳng hơn. Có lẽ Liệu sẽ thành một thợ may khéo? Không chừng sẽ thành ông chủ tiệm lớn, hàng ngày tươi cười đứng đón các bà các cô tới đo ướm, cũng nên…
Tối đến, còn chút thì giờ, Liệu sẽ ngâm thơ cho mấy ma-nơ-canh nghe. Những cô nàng ngực nở bụng thon bằng nhựa, bằng gỗ sẽ vui lòng thưởng thức tâm sự của “anh hùng mạt lộ” suốt đêm…
Nhưng chứng tê phù giã bẹp mọi mong ước. Các khớp ngón tay đau đớn. Đầu gối to tướng, đỏ bóng. Chỉ cần ra Bắc, nơi khí hậu kém ẩm thấp hơn là ta sẽ khỏi. Nhưng tiền đâu mà ra? Nằm lại thì thuốc ai bố thí? Được người cơm cháo, dọn rửa thế này, là phúc đã lớn tày ngôi phủ thờ Bà Chúa Liễu ở quê rồi.
Tráng sĩ đau lòng thân ỷ lại
Anh hùng thẹn mặt cảnh vô nhan
Mặc dầu ai biết, ai không biết
Mắt thiết nào trông thấy ruột gan.

Trong căn gác tối om, hôi hám, tiếng ngâm của kẻ cuồng sầu thảm như vọng từ cõi âm lên.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #9 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 09:50:00 pm »

GẶP MAY
Tư Trinh, ông bạn già đã lênh đênh nửa đời trên bể cả, mở mồm ra là “dân chủ” với “cộng hòa” lại chẳng biết lấy một mảnh i tờ nào. Dù không có chữ, ông vẫn là cứu nhân độ thế cho Liệu trong cơn khốn quẫn. Không hiểu hết nỗi niềm nhưng trân trọng, ông sẵn sàng nghe những lời tiêu cực của kẻ sĩ bị hãm vào bĩ cực. Thỉnh thoảng ông giở mình, đấm lưng cho anh, đổ cái bô nặng mùi dưới gậm giường.
Bẵng mấy hôm, làm Liệu khắc khoải trông. Rồi Tư Trinh đến với chiếc bánh ngọt. Đút cho anh ăn từng mẩu, ông lại bắt đầu “hầu chuyện”. Nghe Liệu ư ử những “anh hùng mạt lộ” với “tráng sĩ lỡ thời”, ông khoái chí lắm.
- Khẩu khí? Khẩu khí quá?
Tư Trinh vỗ đùi đánh đét và bắt Liệu chép lại.
Mai ông qua Sài Gòn - Bến Thành, sẽ gửi hai bài thơ “đầy cảm khái” cho tòa báo “Nam Kỳ kinh tế” Báo hại “tráng sĩ” phải ngồi dậy run rẩy múa bút, mỗi cử động là một cực nhọc đau đớn.
- Ký vào đi! Cậu phải ký chữ gì ác liệt vào chứ…
Ông giục toáy lúc Liệu đương choáng váng. Chẳng nghĩ được cái tên oai hùng hay bi thảm hơn, Liệu điền hai chữ “Đẩu Nam” xuống dưới thư. Ngoài Bắc, qua những Nam Phong với “Thực nghiệp dân báo”, người ta đã biết đến “Đẩu Nam” rồi.
Gửi thư đi và mong kết quả là một cái thú. Nhưng căn bệnh hành làm sự thú vị giảm đi nhiều. Thêm nữa là nỗi thắc thỏm. Từ dạo học nghề, Liệu giấu biệt cái đuôi thi sĩ, sợ làm trò cười cho người xung quanh.
Cũng may bệnh lui dần. Có ai ngờ giống tỏi, thứ tỏi Bắc nhỏ củ mà cay sực lại có tác dụng vậy. Cứ cơm và tỏi, Liệu đã nhúc nhắc được những việc riêng cho mình.
Đang tập tễnh xuống gác, anh giật mình nghe chú học việc gióng to: “Nhà mình có ai là Đẩu Nam đâu nhỉ… Thế mà lại có người hỏi, đúng địa chỉ này…”.
Mừng rỡ nhưng không thể hấp tấp, Liệu bước ra, làm bộ rất từ tốn. Ông khách còn trẻ, vẻ mặt cứng cỏi thưa rành rẽ: “Tôi xin gặp Đẩu Nam tiên sinh”.
- Ông ấy vừa đi vắng. - Liệu nói thác. - Nhưng dặn tôi có điều gì cứ nói lại. Ông quen ông Đẩu Nam ạ?
- Tôi cũng không quen. Nhưng đọc Nam Kỳ kinh tế thấy hai bài thơ của tiên sinh, thấy thích bèn đến tòa soạn hỏi địa chỉ. Đây đúng là số 80 đường Bonard chứ ạ?
- Đúng thế.
- Tiếc quá. Thế thôi, tôi cảm ơn ông và xin phép vậy!
- Nhưng ông đã đến đây thì cứ lên gác đã. Có chuyện gì tôi sẽ thưa lại ông Đẩu Nam.
Đưa khách lên gác, Liệu khấp khởi mừng. Thơ đăng có hào nhuận bút đã đành, lại còn được người đọc để ý đến. Là tri kỷ hay là kẻ đến để phản bác đây? Trong phòng chỉ có mỗi chiếc ghế vải, mời khách ngồi mà Liệu cuống lên. Chiếc bô dưới giường may đã dọn, nhưng hẳn còn lưu cữu lại hương khăn khẳn, thứ mũi anh đã rất quen.
- Thưa, xin lỗi, tôi chính là Đẩu Nam. Ban nãy phải giấu bạn thợ vì không tiện nói…
Ông khách trẻ ngớ người. Ai ngờ Đẩu Nam tiên sinh còn trẻ và khốn khó thế này. Anh ta xưng là H.T, đang dịch sách tại nhà ông Trần Quang Nghiêm, Hội trưởng Hội Khuyến học Nam Kỳ.
Tôi rất cảm kích cái khẩu khí của anh, - H. T nói. - Thú thật, người Nam Kỳ đơn giản, tôi ít tri kỷ lắm. Đã lâu mới gặp giọng “anh hùng tráng sĩ”, bèn lập tâm đi tìm cho được.
H. T người Quảng Ngãi, một vùng quê nghèo kiệt, có chút chữ nghĩa chẳng thi thố vào đâu, bổ vào Sài Gòn, nơi không khí báo chí, học thuật thông thoáng, mới mẻ hơn. Thấy khách cám cảnh với những khốn khó của mình, Liệu bỏ thói hàn nho, cũng bộc bạch những tâm sự bí bức đã lâu.
Nào chông gai trong thi cử. Nào những “tác phẩm” đã được in hay còn đang “thai nghén”. Nào những kiến văn về phận nước nhà đang tìm đường, ảnh hưởng của hai chí sĩ Trung Hoa Khang Hữu Vi, Lương Khai Siêu. Tất cả làm H. T trầm trồ.
- Đúng là con hổ đang bị nhốt trong cũi. - Khách quả quyết. Tôi phải tiến cử anh với ông Trần Quang Nghiêm mới được.
Hai “tiên sinh” tiễn nhau bịn rịn mà không thể hồ hởi ra mặt. Trước những con mắt của bạn nghề, Liệu không thể lộ gốc gác, thân phận. Phải giữ đường lui chứ.
Hai hôm sau, cánh thiếp may mắn bay đến. Đơn giản, đó chỉ là tấm bìa ghi danh, ông Trần mời Đẩu Nam tiên sinh ăn cơm, nói chuyện tại khách sạn Cửu Long Giang. Mừng rỡ nhưng cũng e ngại và phiền phức quá. Bộ dạng tiều tụy, không che được thì đành vậy. Nhưng quần áo tề chỉnh thì lấy đâu.
Liệu lôi dưới gầm giường đôi giầy da đem từ Bắc vào, lau hết bụi. Chiếc áo the thâm bạc phếch trên mắc, khí lôi xuống mới hay thiếu ba khuy nách. Và đi tắm cho hết cái mùi thằng tê phù. Trời không rét mà Liệu run rẩy, run nhất vì chẳng còn chiếc áo nào mặt lót bên trong.
Khởi hành sớm. Không thể trễ trong cuộc gặp này. Đi bộ, mà không thể bước rảo, vi tay phải khép chặt vào sườn kẻo rơi vạt áo. Đôi chân lâu ngày không đút vào giầy bị da cứa, chả mấy chốc phồng đỏ. Đau đấy nhưng mặt mũi, bộ điệu vẫn cứ phải đàng hoàng, đáng bậc “tiên sinh”.
Cửu Long Giang là khách sạn sang nhất Sài Thành hoa lệ. Trước cánh cửa gương lộng lẫy, mấy chú canh cửa mặc đồ trắng, đội mũ đỏ, chân quấn xà cạp đỏ đứng lừng lững nghiêm nghị. Không hỏi han lời nào nhưng các chú “củ soát” ông khách khác giai cấp từ đầu đến chân. Qua khỏi cánh cửa, Liệu cẩn trọng đưa mắt quan sát, tiến đến cô lễ tân thơm nức hỏi chỗ.
Phòng dành cho khách đặc biệt cũng quá lộng lẫy. Những đèn chùm, xô pha, trần nhà chạm trổ chim chóc hoa lá như đè chụp lấy kẻ nghèo. Tường nhà ốp kính nên quay đi đâu cũng không trơn khỏi bộ dạng của mình. Dưới ngọn đèn sáng trưng, H. T đứng cạnh người đàn ông thấp bé đeo kính gọng vàng. Liệu tiến lại, cúi mình chào và nghe lời giới thiệu của H. T.
- Tôi rất sung sướng được gặp ông.
Me xừ Trần Quang Nghiêm trịnh trọng nói và giơ tay ra. Liệu vừa động tay đáp lễ thì vạt áo không khuy thõng xuống, cái bụng ủng phở ra. Cửu Long Giang sang trọng thế mà thiếu tiện nghi, chả có cái lỗ nẻ nào để ta chui xuống. Thôi thì cứ đành điềm nhiên, đằng nào người ta cũng đã biết thân phận mình.
Ông Nghiêm là người lịch lãm, lơ đi như không thấy gì. Chủ khách yên vị. Cái bàn che đi sự hở hang làm Liệu tự tin hơn. Anh cảm ơn sự lưu ý của “quý ông”, lưu loát tự bộc lộ mình, trả lời những câu hỏi của ông Nghiêm và cũng bày tỏ lại những quan tâm khác. Đã biết cả hai bên, H. T ở giữa, là cây cầu tuyệt vời nối lại những lúc bị hụt nhịp. Tự giới thiệu hoàn cảnh, công việc, chuyện nở ran lên khi chuyển sang mục” thời thế, xã hội. Qua tuần rượu thứ nhất, Trần Quang Nghiêm tin rằng anh hàn sĩ trước mặt chính là người mà ông, hội đoàn của ông đang rất cần.
- Sài Gòn thiếu những người như ông. Còn ông đang cần Sài Gòn. Hãy đừng nghĩ đến chuyện ra Bắc…
“Me xừ “ nói thế khi chia tay “tiên sinh”.
Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM