Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 01 Tháng Mười, 2023, 02:31:09 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cõi người  (Đọc 37706 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #10 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 09:50:51 pm »

NỔI DANH VÀ NỔI CHÌM
Quan hệ mới với Trần Quang Nghiêm và hội Nam Kỳ khuyến học giúp Liệu thoát khỏi cảnh cá mắc cạn. Rời bỏ những bàn là, kim khâu, dùi sắt dùi đồng, anh được cầm cây bút, tận dụng hết sở học, tài năng, ý chí. Tình yêu của anh hướng vào dân tộc đang bị đô hộ cần được canh tân, còn lòng căm thù dành cho thực dân thuộc địa, lũ quan lại, phú hào.
Tháng 6 năm 1924, tức là chừng chín tháng xa quê, Liệu được Quốc Biểu giới thiệu vào làm ở “Nông Cổ mín đàm”, tờ báo có dư hai chục tuổi, vào loại già dặn ở Nam Kỳ. Chủ báo là Lê Thành Trường bổ Lâm Hiệp Châu làm chủ nhiệm, Trần Huy Liệu làm chủ bút. Hai tiên sinh làm thuê tương đắc nhau về quan điểm chính trị, xác định một xu hướng tranh đấu. Nghĩa là, chí hướng chả đồng hành quái gì với tên tờ báo uống chè nói chuyện làm ruộng, đi buôn. Họ công kích chính sách thuế, những thủ đoạn bóp nặn, bóc lột, những lề thói khinh rẻ người bản xứ, sự hèn hạ trong đám quan liêu.
Lệ thường, báo ra phải đưa bản đầu tiên đến Ty Kiểm duyệt, bị gạch bài nào thì đưa bài khác lấp, đến khi thấy “an toàn cả” mới in hàng loạt và phát hành. Ngay số thứ nhất tiếp quản báo, anh chủ bút hăng máu đã viết một bài nẩy lửa về tiếng bom của liệt sĩ Phạm Hồng Thái mưu sát toàn quyền Merlin ở Quảng Châu, Trung Quốc. Kiểm duyệt bỏ ngay làm Liệu phải lấp bằng một bài vô thưởng vô phạt.
Liền mấy số, cứ thấy bút danh “Đẩu Nam” là bị đục. Liệu thay tên ký là “Côi Vị”, tức non Côi sông Vị ở quê nhà Nam Định, nhưng Ty Kiểm duyệt cũng chẳng để sổng.
Cứ để trống những chỗ bị đục bỏ, không lấp nữa. Ta phản đối mà lại phân bua được luôn với thế gian. - Liệu bàn với Lâm Hiệp Châu.
“Bài cùn “ ấy có hiệu quả. Người đọc càng thương, càng mua báo nhiều. Dù sao lúc ấy trên trường báo Nam Kỳ chưa mấy tờ nói chuyện chính trị, tranh đấu cho kẻ nghèo, quyền lợi dân tộc.
Thuê phải “lũ” chủ nhiệm, chủ bút thú dữ như thế, Lê Thành Trường cứ phát sốt phát rét. Quá bằng rước hổ về ngồi trong nhà. Dù số phát hành tăng, có lãi, ảnh hưởng báo lớn, nhưng chả bõ bèn với chuyện phải đương đầu với các thế lực chính trị và đám phú hào. Đã bao lần Liệu, Châu được chủ báo nhắc chỉ nên mon men gãi ngứa thôi, chớ nên gây sự đánh lớn. Nhưng hầu như “Nông Cổ mín đàm” số nào cũng bị đục bỏ vài ô.
Giọt nước tràn cốc là bài kiểm duyệt để lọt, tố cáo địa chủ Trần Trình Huy cậy của giết người, lấp liếm tội. Dư luận ầm cả lên làm gã công tử Bạc Liêu ức lắm. Bên ngoài đâm đơn kiện báo, bên trong nhắn nhe đe dọa, Huy làm Lê Thành Trường mất hết kiên nhẫn với hai thằng làm loạn. Báo bị đòi lại người ra khỏi tòa soạn ở phố Pellerin.
Lại sểnh nhà ra thất nghiệp, Liệu theo Lâm Hiệp Châu đến tá túc phố La Reyniere. Ăn ở nhờ bạn, còn bạn lại nương vào vợ rơi vợ hờ của một Hoa kiều ở Chợ Lớn. Thế mà hai cái mồm mới vẫn rất to tiếng đấu lý đấu luật với kẻ có quyền. Đám công chức quản lý báo chí cứ phải nghe liên tù tì những câu kiểu:
“Sao bảo tự do ngôn luận, bình quyền bình đẳng mà các ông bịt mồm người ta nói sự thật?”.
“Những tư tưởng lớn của cách mạng Pháp chỉ áp dụng bên chính quốc, còn ở đây các ông cấm ngặt chứ gì?”
Báo bị đòi nửa tháng, thì Liệu “lách” được quyển Ngòi bút sắt. Theo luật thuộc địa, sách không bị kiểm duyệt như báo, chỉ phải nộp sáu quyển cho Sở Mật thám, Ty Kiểm duyệt và tòa án. 24 giờ sau khi nộp, những sở, ty, tòa này không ra lệnh cấm hay tịch thu, sách được phát hành rộng rãi. Dựa vào điều này, Liệu ra báo dưới dạng sách để khỏi bị kiểm duyệt.
“Sách” Ngòi bút sắt lọt lưới, ra số đầu vạn bản, không nằm trên giá mà đến từng hang cùng ngõ hẻm trên tay trẻ bán báo. Đầy những tin tức nóng, giọng điệu công kích mạnh mẽ, bán chạy như tôm tươi.
Nằm ở phố La Reyniere, Liệu đã có tiền đưa người đàn bà cho nương nhờ, tối tối có thịt quay ăn và cười rinh rích chuyện xỏ mũi được nhà cầm quyền. Mỗi tuần là một sự chờ đợi hiệu quả, nỗi vui sướng hả hê, rồi lại lao vào chuẩn bị số sau, những cú đòn mới.
Dĩ nhiên là động đất rồi. Ra tới vạn bản, Ngòi bút sắt ngập tràn cả Sài Gòn - Chợ Lớn chứ ít gì. Danh tiếng “tác giả” “sách” nổi như cồn. Miếng ăn thường nhật không còn là mối lo cho kẻ sĩ nữa. Nhưng mà nhấp nhổm. Thấp thỏm đợi đòn. Được tuần nào ngày nào hay chừng đó, thế nào nhà chức trách cũng xuống tay.
Chẳng phải đợi lâu. Ngòi bút sắt tập 2 đang in dở ở nhà Testelin thì ông chủ hủy hợp đồng. Đem chỗ khác, họ nhận, nhưng hôm sau lại gọi hủy, mấy nơi đều thế. Và có cái thư mời, kính gửi mơ-xi-ơ Trần.
Sở Mật thám ở phố Catinat có cái cầu thang xoáy trôn ốc lên tầng thượng, leo chóng mặt. Trong ký ức cái chính trị phạm, đây là một sản phẩm thật thông minh của trí óc mật thám: lên đến nơi thì đầu óc và chân tay đều bủn rủn, trí “tranh đấu” dễ nhụt vài phần. Liệu không thể ngờ mình còn phải leo lên cái chỗ chó đẻ ấy nhiều lần nữa.
Trong căn phòng rộng có bàn giấy, bộ xô pha. Người Tây có tấm lưng tròn trĩnh, ngắn ngủn chừng như không biết có khách, đang quay mặt ra cửa sổ. Sự chờ đợi gây ra tâm lý mình bị bỏ rơi, thậm chí là khinh rẻ. Mấy phút trôi qua, chừng như đòn cân não đã ngấm, “cái lưng” mới quay lại.
- A, chàng thanh niên, mời anh ngồi.
Đấy là chánh mật thám Arnoux, nụ cười tủm tỉm, có nét hồn hậu không hợp chút nào với nghề nghiệp. Giọng Bắc rất sõi:
- Anh ở ngoài Bắc phải không? Tỉnh nào?
- Tôi ở Nam Định. - Liệu trả lời, nghĩ “các anh còn lạ gì nữa…”.
- Ừ, tôi ở ngoài ấy cũng đã lâu, rất có cảm tình với người ngoài ấy. Năm nay anh bao nhiêu rồi ấy nhỉ?
- Hai bốn tuổi.
Câu trả lời cộc lốc làm Arnoux bỏ ngay vẻ hồn hậu.
- Tôi đã nhận thư anh rồi. Tôi là một người già cả mà anh ăn nói, viết lách không có lễ phép gì hết. Anh tưởng người Tây thì không cần lễ phép ư? Người Tây cũng lễ phép lắm. A mà tôi rất thích người Bắc vì người Bắc rất lễ độ. Đâu có như anh? Hay anh định dọa tôi? - Arnoux gầm ghè, giọng đàn áp - Anh phải biết rằng trước kia làm đại lý Hải Ninh, tôi đã một mình sang trại giặc khách buộc chúng phải trả lại bà đầm chúng bắt cóc đấy. Hãy thận trọng, chàng trai ạ.
“Chàng trai”, xuất thân Nho giáo, chả hề muốn nghe bài học về phép lịch sự tí nào, bèn tranh thủ lúc Arnoux ngưng lời, nói luôn:
- Vâng, nhưng mà hôm nay tôi được ngài gọi đến đây, điều mà tôi muốn biết, như đã viết trong thư, là có phải ngài đã ra lệnh cấm các nhà in cho in tập Ngòi bút sắt của chúng tôi không? Chúng tôi đã làm rất đúng luật nhà nước. Ngòi bút sắt in ra, đưa nạp bản. Hai mươi bốn giờ sau các ông không ra lệnh tịch thu, chúng tôi mới phát hành kia mà. Nghĩa là như mọi quyển sách khác, Ngòi bút sắt không hề phạm luật.
Vẻ hòa dịu trở lại trên gương mặt béo tròn.
Arnoux nháy mắt cười khanh khách:
- Tôi biết thừa Ngòi bút sắt của các anh ra sao rồi. Nó là một tờ báo trá hình. Quyển sách quái gì mà ngoài bìa lại đề giá bán hàng tháng, hàng năm, tên chủ nhiệm, chủ bút? Sách gì mà lại có các bài theo chuyên mục?
- Nhưng có ai quy định sách không được phép có các mục như ông nói đâu.
- Cứng cỏi nhỉ. Lại còn giở lý nữa đấy. Nếu các anh nói gì phạm luật thì sách sẽ bị tịch thu và người ra sẽ vào tù.
- Chúng tôi chỉ nói sự thật.
- Thì các anh cứ nói sự thật. - Viên chánh mật thám đủng đỉnh rất đểu. - Muốn in thì in tôi có cấm đâu.
- Nhưng nhà Testelin đang in Ngòi bút sắt 2 thì họ nói ông có lệnh cấm in. Nhà Jules Việt ở Sài Gòn, nhà Á Đông ở Chợ Lớn đều bảo Sở Mật thám gọi dây nói đến. Hôm nay các ông đã nói rõ là không cấm in, thì xin cho tôi mấy chữ để nhà in họ khỏi sợ, kiếm cớ không in báo…, à, in sách cho chúng tôi.
Arnoux im lặng, rồi dứt khoát:
- Không? Tôi không cấm và cũng không phải viết.
Hắn khoát tay, ra điều chấm dứt câu chuyện.
Quân chó đểu Thủ đoạn hèn hạ? Từ phố Catinat đi ra, Liệu tím bầm người vì căm cái lệnh mồm đê mạt của Arnoux. Ngòi bút sắt không thể chết. Anh và bạn bè đi tới những nhà in nhỏ đang thiếu việc. Đâu cũng nhận lời trước, từ chối sau. Người của Sở đã theo họ từng bước.
Vài ngày sau, hai tờ La Cloche Félée (Tiếng chuông rè) và l’Essor Indochinois (Đông Dương đột khởi) ở Sài Gòn loan tin Ngòi bút sắt bị giết. Cái chết không do đao kiếm, không có máu chảy, do một thế lực “vô hình” quyết định. Rồi đồng nghiệp Việt Nam hồn, tờ báo có xu hướng dân chủ bên Pháp cũng đăng lại vụ này, chậm hơn.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #11 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 09:51:57 pm »

GIẾT BÁO
Lại “nghỉ phép” bất đắc dĩ. Lang thang chõ mũi vào các sạp báo. Thấy có sự kiện gì chực đưa tin với bình luận, rồi sực tỉnh ra là mình chả có quái gì trong tay. Và mồm miệng thì đậy lại, treo lên. Không thể kéo dài được. Và cũng không thể quay về phố Bonard cầm kim khâu nữa. Liệu không phải là một người “cần mẫn”, dù là để nuôi gia đình. Chỉ có làm nghề chữ nghĩa anh mới có chỗ “thả” chí hướng của mình ra. Vả, tiền nong nó đem lại, dù chả dư dật, vẫn đỡ hẻo hơn phần anh thợ tập việc. Mà Liệu đang cần tiền ghê gớm. Tý đã vào Sài Gòn với chồng, để lại ở quê hai nấm mộ Mo, Mẹt. Cu Goòng, sau này đặt là Trần Huy Diễm - sắp ra đời, phải đón cháu ái vào trông. Nhà mấy miệng ăn trông cả vào những bài báo gửi lay lắt, bị đục bỏ nhiều hơn được đăng.
Liệu về đầu quân lại cho ông Trần Quang Nghiêm, cầm tờ Pháp - Việt nhất gia. Nghiêm không có chủ trương chính trị hay xã hội gì rõ rệt. Công việc làm ăn, chăm lo cho đồn điền cao su chiếm nhiều thì giờ, ông phó mặc tòa soạn cho “mấy thằng có nghề”, Liệu và cộng sự được tự do lựa chọn, bố trí bài vở.
Tờ báo tiếp tục giọng cũ của những “Đẩu Nam”, “Côi Vị”, “Nam Kiều”, đương đầu với cánh Lập hiến có xu hướng thỏa hiệp với thực dân. Sau số kỷ niệm một năm ngày cụ Phan Chu Trình mất, Pháp - Việt nhất gia lại làm làng báo thuộc địa loạn xà ngầu.
Những viên quan nhũng, những tây đầm khinh khi người ta, những sắc thuế vô lý bị chỉ trích. Trong sa lông, những đôi mông tròn trịa nẩy tưng lên, điện qua lại tới tấp. Phải có ai đó chịu trách nhiệm?
Cuối tháng tư năm 1926, quản lý Lê Thành Lư hộc tốc về tòa soạn. “Ông Nghiêm đòi lại báo để làm cơ quan ngôn luận cho đạo Cao Đài”.
Tin quá sét đánh làm Liệu bàng hoàng. Bọn Lập hiến, bọn tham quan không bị chửi nữa, tha hồ vỗ tay đây. Anh trầm ngâm rồi bật thốt lên:
- Hay mình giết tờ báo đi. Đừng để nó sống nhục.
Với lại cái tên “Pháp - Việt nhất gia” cũng nên chôn nó đi.
Kể thì việc định đoạt có đôi chút ngần ngừ. Trần Quang Nghiêm là chỗ Liệu mang ơn, đổi phận học việc cho anh sang chỗ đắc địa là trường văn trận bút. Kiếm được tiền, có chút danh phận, là phải nhớ đến ông ta rồi. Nhưng còn những yêu ghét của mình, vì cái ân ấy mà tháo đổ đi đâu được. Làm báo mà không đem cái lý tưởng xã hội của mình vào thì hóa ra công chức ăn lương a, chưa kể làm bồi bút…
Đêm cuối tháng tư, đương giao mùa, là lúc Liệu viết như chưa bao giờ được viết. Những bài “đinh” trên bốn trang báo đều của anh, chỉ chèn. vào vài chuyên mục nhỏ. Hoàn toàn tự do. Nói thẳng, nói hết, không phải tìm câu chữ để nguỵ trang cho ý tưởng nữa. Nghĩ đến những trang báo bị kiểm duyệt gạch xanh đỏ chằng chịt, Liệu trút hết hận ra. Đầu tiên, là chửi chính cái chủ trương Pháp - Việt nhất gia mà tờ báo mang tên. Những bài sau vạch tội nhà băng Đông Dương và chế độ thuộc địa. Thứ tự do ngôn luận trá hình, thực chất là bóp nghẹt báo chí, mị dân, bị vạch trần ở loạt bài khác.
“Mài óc” suốt đêm, cho Lê Thành Lư chép lại, xong đốt hết bản thảo. Tảng sáng thì xong, mệt và đói đến bã người. May có tiếng rao ngoài đường Liệu và Lư vừa ăn vừa nói chuyện “giết báo” làm ông sực tắc khó hiểu quá.
Pháp - Việt nhất gia số cuối ra một vạn số, in luôn một lúc chứ không chạy thử máy nữa. Sáng ra, khi Sở Kiểm duyệt dòm ngó đến thì từng chồng báo từ nhà in đã ra đến ngoại thành để tràn về Lục tỉnh. Nhân viên sở đang cặm cụi gạch xanh đỏ lên tờ báo duyệt thì ngoài phố đã như có đám cháy.
Khắp Sài Gòn - Chợ Lớn, sen đầm, cảnh sát được huy động đến tận các xóm nghèo.
“Pháp - Việt nhất gia đơi ơi ơi… Báo đơi ơi ơi…”.
Trẻ bán báo vừa cất giọng đã bị xô lại bắt. Các hàng sách báo bị lục tung. Không lúc nào nhà cầm quyền lại sợ Pháp - Việt nhất gia như bây giờ.
Nhưng phố Sabourain, nơi đặt tòa soạn thì vắng lặng. Hai đầu phố, cảnh sát, sen đầm đứng cấm người qua lại. Từ trụ sở đi ra, ai cũng bị khám xem có đem báo ra ngoài không. Trên ban công gác hai nhà 37, kẻ vừa giết báo nhìn xuống con phố vắng không nhịn được cười khi thấy ông quản lý đi nghênh ngang đợi người đến bắt. Thiêng liêng hiên ngang thay là những người cùng chí hướng…
Trần Quang Nghiêm từ Biên Hòa đâm bổ về, loạng choạng lên cầu thang. Không buồn bắt tay “tên” chủ bút, ông chỉ xấp Pháp - Việt nhất gia còn lại trên bàn, thất thanh:
- Các ông giết tôi rồi. Nó còn dữ gấp mấy tờ Việt Nam hồn bên Pháp nữa kia.
Liệu bần thần. Đấy là giây phút thử thách nghiệt ngã hơn cả lúc anh bị lôi về Sở Cẩm.
Cơn bão sau “trận đột kích Pháp - Việt nhất gia” cuối cùng cũng lắng xuống. Hậu quả không đến nỗi nặng nề như những kẻ gây náo loạn dự tính, nghĩa là chẳng phải nằm bót. Chế độ thuộc địa, do ảnh hưởng cua những đạo luật ngôn luận bên Pháp, cho phép các nhà báo được hưởng những quyền tự do nhất định. Thế là Liệu được nhởn nhơ, để mà toàn tâm toàn ý cho Dông Pháp thời báo của chủ nhiệm Nguyễn Kim Đính, con người đang khốn quẫn nhưng còn đầy tham vọng và nghị lực.
Cuối năm 1924, Đông Pháp thời báo ra tuần ba kỳ, mỗi số có 1300 bản, bị đè nghịt dưới hệ thống báo chí thân thực dân. Căn nhà hai tầng phố Mạc Má Hồng (Mạc Mahon) kín mít như chuồng bò, vừa là tòa soạn, trị sự, lại đặt luôn máy in báo. Hàng ngày Liệu ngồi thu mình trước cái bàn viết ngay của, “nhả ngọc phun châu” trong tiếng máy rầm rập. Thỉnh thoảng, lại đứng lên lễ phép tiếp những anh Chà Và, sét ty được chủ phái đến đòi nợ, ký biên nhận vào sổ, nói rằng Nguyễn Kim Đính đi vắng. Ông chủ báo trốn trên gác cũng cặm cụi cày.
Buổi trưa hai quan báo đánh chung hào phở, múa bút sang chiều thì đầu trống rỗng, chân tay rã, cảm giác đói cũng bay mất. Nhưng tối đến thì rất sênh sang. Liệu và Đính được xe hơi đón về ngôi nhà to đoành của ông B. H. ở Gia Định, ngủ nghỉ phòng riêng, tán gẫu nơi phòng khách và đi dạo trong vườn hoa được chăm sóc cẩn thận.
Đông Pháp thời báo bị kiện. Tòa kết tội “phỉ báng cá nhân”, phải bồi thường danh dự mười vạn đồng. Viết đúng sự thực cả, có điều “cá nhân” đó có cả tiền lẫn thế lực để làm lệch cán cân công lý. Những chủ nợ khác nghe phán quyết lao đến tòa đưa đơn kiện theo kẻo mất phần nếu báo bị tịch thu tài sản. Nguy cơ trắng tay khiến Nguyễn Kim Đính sụp đổ. Còn Liệu, ăn lương chủ bút, tiếp tục bao thầu bài vở, lo cho đến ngày sập tiệm hẳn.
Có ai ngờ lối thoát lại đến từ một cuộc cãi vã trên phố Catinat. Cô giáo nọ vào hiệu Bom-bay mua vải xảy chuyện to tiếng rồi xô xát với chủ hiệu người Ấn. Báo chí Sài Gòn bắt được thổi to lên, có bình luận và biếm họa đi kèm. Phong trào tẩy chay hàng Bom-bay nổi lên trong toàn thành phố, nhất là đám thanh niên. Người ta quay lại với bông, đũi nội hóa làm khách thương Ấn Độ mếu dở.
Cái thủ thuật của Đông Pháp thời báo dựa trên sự tinh quái nghề nghiệp hơn là chính kiến xã hội.
Khi các báo nói xuôi mà mình nói ngược một tí - hơi hơi thôi, chứ ngược hẳn đâm vô lý - thì dễ được độc giả để ý. Cũng cổ động tẩy chay Bom-bay, khuyến khích lòng căm phẫn của đồng bào, Đông Pháp thời báo đưa ra lập luận khác: không chấn hưng sản xuất trong nước thì hàng nội sao thay thế được hàng ngoại. Cuộc tẩy chay như lửa rơm, mấy ngày đã tàn, người ta mới để ý đến cái sự hơi hơi ngược trên. Ừ nhỉ, nếu bông cứ sùi, đũi cứ rút chỉ, lại bán đắt, thì cạnh tranh hàng Bom-bay thế quái nào được. Đông Pháp thời báo thế mà tỉnh táo, cao kiến. Đội ngũ ký giả của họ chắc phải lọc lõi lắm mới dám “nói nghiêng” thế chứ. Đồng nghiệp cười trừ, độc giả ủng hộ, số phát hành lại tăng vọt.
Qua khỏi cửa tử, nhưng làm thế nào để sống mạnh mẽ mới thật khó. Tính mãi tòa soạn quyết định leo dây, “chơi” đồng nghiệp. Nước cờ oái oăm này bắt đầu từ nhận xét về sự khập khiễng, quê mùa trong giọng điệu những tờ Lục thanh tân văn, Trung lập… Tuy là cái nôi của báo chí Việt Nam, được hưởng quy chế nghề nghiệp của thuộc địa, nghĩa là thông thoáng hơn hẳn ngoài Bắc, nhưng Nam Kỳ lại có mặt bằng báo chí lộn xộn kinh khủng. Những vị “chánh chủ bút” cỡ Lương Khắc Ninh, Trương Duy Toàn, Lê Hoằng Mưu của các tờ trên đều xuất thân thầy tuồng, thầy cải lương, học hành rất không hệ thống. Tính thời sự rất ít, báo của họ có những mục buồn cười: tóm lược tiêu thuyết tình ái, trinh thám, tường thuật đưa đón “quý quan”, các cuộc thi xe đạp, thi sắc đẹp. Lổn nhổn nhất là những bài giải thích “Tam Quốc Chí”, “Tây Du” hay “Càn Long du Giang Nam”, nó cũ kỹ, ngô nghê không thể tả. Trí thức Tây học, những kẻ sĩ từ xứ Bắc, đàng Trung vô đều coi thường, ít khi đọc loại báo này.
Đông Pháp thời báo mọc ra mục “Phê bình văn chương các báo”. Lời mào đầu rất khiêm nhường. Rằng mục đích chỉ nhằm nhặt cỏ trong vườn đồng nghiệp. Rằng, đã của đồng nghiệp thì thái độ nhặt sẽ rất xây dựng, thân ái. Nhưng mới được có mấy số, thiên hạ biết ngay những ông chủ bút Trung lập với Lục tỉnh tân văn ngồi phải tổ kiến lửa rồi.
Phát hiện rất nhanh những sai quấy ngô nghê, Liệu châm thêm những lời bình, câu văn vần thâm thúy. Thầy tuồng, thầy cải lương bị chơi tìm cách chửi lại, càng phô ra sự kém cỏi. Làng báo rộn rạo, anh này vui vẻ tán thưởng, anh kia hậm hực ngậm bồ hòn, chỉ làm số phát hành của Đông Pháp thời báo tăng nhanh hơn, còn Liệu thì như gặp lại ông khóa Cảo ở quê dạo nào.
Nhưng sức mạnh của một tờ báo căn bản phải dựa trên ý kiến chính trị - xã hội của nó. Trong hai năm 1925 - 1926, có bao nhiêu sự kiện động trời đê mà tường thuật, bình luận, kêu gọi: cụ Phan Chu Trinh từ Pháp về nước, cụ Phan Bội Châu bị bắt ở Thượng Hải giải về Hà Nội, dân chúng biểu tình đòi thả, toàn quyền Varènne sang Đông Dương… Đỉnh cao sôi nổi là đám tang Phan Chu Trinh, mười bốn vạn lượt người đi đưa. Đông Pháp thời báo vọt lên mười một nghìn bản in. Chủ báo không còn là con nợ mà có tiền tậu đồn điền, lập nhà in. Về mặt chính trị, ông ta vào đảng Lập hiến, có chân trong Hội đồng Thuộc địa. Báo ngả hẳn sang chủ trương bắt tay thực dân, điều anh chủ bút chả hề thú vị.
Liệu phải đi, với nỗi cám cảnh phải rời tòa báo mình vừa đưa lên tột đỉnh phát hành. Ngày 15-8-1926, đăng xong bài cáo biệt bạn đọc trên Đông Pháp thời báo, anh rời khỏi trụ sở tòa soạn lộng lẫy ở 200 đường Espagne (Tây Ban Nha). Chỗ đến là nhà một người bạn ở làng Hương Điểm, Bến Tre. Được vài ngày, chức dịch địa phương gọi người nhà lên cảnh cáo vì chứa chấp một kẻ mà chính quyền không ưa.
Lại tha vợ con đi…
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #12 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 09:52:52 pm »

ĐẢNG THANH NIÊN
Qua các cuộc đấu tranh, động lực chính vẫn là thanh niên. Họ là những học sinh ở nhà trường, công nhân ở xí nghiệp, công chúc ở công sở, trí thức làm các nghề tự do, nông dân ở miền xung quanh sài Gòn - Chợ Lớn. Họ thuộc các tầng lớp tiểu tư sản, dân nghèo, tư sản, địa chủ, vô sản mà. Chủ yếu là tiểu tu sản trí thức ở thành thị. Có điều là, họ sẵn lòng yêu nước, đầy nhiệt tình, nhung không có ai lãnh đạo, chẳng biết đi theo đường lối nào. Họ ủng hộ đảng Lập hiến vì thấy đảng này cũng đòi tự do dân chủ. Họ hoan hô Monin, chỉ biết Monin là người Tây tốt với nhân dân thuộc địa. Họ rất yêu mến Nguyễn An Ninh, nhưng cũng không biết Nguyễn An Ninh sẽ dẫn đi tới đâu. (Hồi ký Trần Huy Liệu 1991, NXB Khoa học xã hội).
Trong bối cảnh ấy, “họ”, tức đám thanh niên đầy nhiệt huyết - thấy vô cùng cần phải có một chính đảng riêng của mình. Thật ra nên coi đây là cái sân chơi” của lứa tuổi, chứ chưa đến thì, hay đã quá thời, trở nên thực dụng rồi, con người ta lại cần những thứ khác. Tóm lại, thanh niên yêu nước chúng mình nên xúm lại “lập” một cái gì… Phải đẻ ra một cái gì chứ không thì không thể chịu được!
Ngoài ảnh hưởng của Nguyễn An Ninh - từ Pháp về, các tờ Việt Nam hồn (cũng ra bên Pháp), Đông Pháp thời báo, các bậc yêu nước nòi Nho như hai cụ Phan, phải kể đến những người Pháp có tư tương chống thực dân. Chủ tờ La Voi Libre (Tiếng nói tự do) là Ganosky, người chuyên chủ trương đâm chích vào tập đoàn thống trị Pháp ở Nam Kỳ. Anh người Corse này rất mạnh, trong cuộc tỷ thí bảo vệ danh dự, từng đâm bị thương võ quan thị vệ của thống đốc Cognac. Nhưng “lắm võ” hơn, “mọc sừng mọc bướu” phải là luật sư Monin, cầm tờ L’Indochine (Đông Dương). Monin xin phép khai hội ở rạp chiếu bóng Đa Cao, thực chất là mít tinh nói về nỗi nhục mất nước. Trong khuôn khổ cuộc họp không thể nói hết, ông Tây này bèn biến nó thành biểu tình, nói thác với Sở Cẩm là mời mọi người về nhà mình ăn tiệc. “Tiệc” là bài diễn thuyết về quyền tự do, dân chủ, “ăn” xong rồi thì mời quý vị về nhà… Những vụ việc ấy làm điên đầu nhà cầm quyền, trong khi đám thanh niên thấy thú vị và phấn khích lắm. Tóm lại, là phải có “nhân cốt” để đẩy “phong trào” đi xa nữa. Nhóm phái thôi ư?
Phải là “Đảng” mới hả?
Một ban Sáng lập được chọn ra, kêu gọi tự do ghi tên vào đảng. Liệu nhớ mang máng lúc đăng trên Đông Pháp thời báo, tên đảng là Thanh niên, nhưng trong đám tang Phan Chu Trinh lại trương lên tấm băng dài “Đảng Thanh niên Việt Nam”.
Tối khai hội, một đảng viên Lập hiến hỏi “đảng chúng ta” đã đệ đơn xin phép chính phủ chưa, liền bị Bùi Công Trừng “xạc”, rằng hỏi gì mà ngớ ngẩn, ra chiều nịnh Tây; việc gì phải xin phép. Đại diện đảng Phục Việt ngoài Bắc phát biểu chào mừng được vỗ tay như sấm - đông có mây, tây có sao, anh em nhà cả mà.
Ban Trị sự (ban chấp hành) do Nguyễn Trọng Hy làm chủ tịch, Trần Huy Liệu phó. “Ban bệ” cử xong đâu đấy lại có người nêu câu hóc búa thế chúng ta theo chủ nghĩa gì đây nhỉ? Đang nhăn nhó, ủy viên Phan Trường Mạnh nói bằng tiếng Tây: “chủ nghĩa Lập hiến chứ còn gì nữa” Chả ai vỗ tay hay phản đối gì, tuy đều có động cơ lập đảng để làm đối trọng với đám Lập hiến.
Hồn nhiên đến nỗi khi Monin bảo các anh là đám theo chủ nghĩa dân tộc, Liệu phấn khởi đi phô với bạn: “A chúng mình theo chủ nghĩa dân tộc chúng mày ạ”. Thực ra, với ai không biết, Liệu là một người theo cái chủ nghĩa ấy từ trong căn cốt, dù sau này có trở thành Quốc dân đảng hay Cộng sản.
Ngày 24-3-1926, các yếu nhân Thanh niên nhao lên vì ba sự kiện lớn: Phan Chu Trinh mất, Nguyễn An Ninh bị bắt, biểu tình đón Bùi Quang Chiêu - lãnh tụ Lập hiến ở Pháp về. Thanh niên có lực lượng, huy động tới 6 vạn người đón Chiêu, nhưng nghe “xừ” này diễn thuyết có câu “Pháp Việt đề huề” thì tổ chức ngay một cuộc mít tinh khác chửi lại, mà chỉ sau đó có ba tiếng đồng hồ. Cuộc đối kháng bắt đầu, nhưng đến ngày đưa đám cụ Tây Hồ, Thanh niên và Lập hiến vẫn đứng chung tên tổ chức sự kiện quy tụ đến 14 vạn người này.
Thanh niên tập hợp nhanh, bốc lên mạnh, thì làm xong vài vụ động trời tất dẫn đến phân hóa. Có đảng viên tham ô tiền quyên góp xây mộ cụ Phan. Dự định làm chuyện gì, Tây nắm rất dễ, có ai giữ bí mật đâu. Dễ đến nỗi chúng chả thèm bắt “tên” nào. Sau những tổn thất vì ngây thơ trong tổ chức, đảng quyết định rút vào bí mật. Nhưng cũng chả được lâu, chính quyền mò ngay ra được, đem kết án với tội tụ tập quá 19 người. Tại tòa, được luật sư Monin cãi cho, những người đầu têu chỉ bị phạt 200 quan tiền Tây, chống lên đến Thượng thẩm thì trắng án.
Đảng Thanh niên, thực chất là một phong trào yêu nước như vô vàn phong trào lúc đó, đến lúc tan cuộc. Hơn 20 năm sau, trong khói lửa kháng chiến, trong hồi ký, Trần Huy Liệu xác định vị trí của nó:
Trong khi ở bên Pháp, anh Bùi Công Trừng đã có dịp thay mặt cho đảng Thanh niên ký vào bản tuyên bô của tổ chức Việt Nam độc lập. Bản tuyên bố này, mặc dù về mặt quan điểm hồi đó có những chỗ phải xét lại nhưng về hệ thông và ý thức của nó, chủ nghĩa dân tộc đã được hình thành trong tư tưởng của thế hệ thanh niên đương thời. (Hồi ký Trần Huy Liệu 1991, NXB Khoa học xã hội)
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #13 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 09:55:37 pm »

MỚI THẬT ĐI TÙ
Xe bịt bùng tiến vào cầu cảng Lang Tó, không hú còi. Thật ra chẳng cần hú còi, vì lính kín đã xua hết mọi người trên lối xuống. Rồi cánh cửa kín mít mở, nhả ra lốc nhốc đám tù. Ai cũng tập tễnh, thâm tím, người nọ dựa người kia, đầu phủ khăn mặt trắng che chiếc sọ bị cạo nham nhở từ hôm ở khám Lớn.
- Đả đảo chủ nghĩa đế quốc Pháp!
- Cách mạng thành công muôn năm!
Những tiếng hô bất ngờ dội ra từ cánh áo xám.
Dù bị bịt kín tin tức, ai đó kịp loan tin tàu hôm nay chở tù đi Côn Đảo. Người nhà vẫn ra kịp để tiếp tế trao đổi một cái nhìn. Liệu có còn đường mà về…
Đứng trong bạn tù, mồm hô khẩu hiệu, Liệu nhận ra vợ trong đám đông. Dù đã quen với “thứ” đi nằm khám của chồng, Tý cũng phải bật khóc khi trông thấy mái đầu lởm chởm. Đám người nhà, như bầy gà dạn dĩ, bị xua đi lại xông vào “đống thóc”, tức là những người sắp lên tàu Armant Rousseau ra đảo.
Hai người một xích tay, họ bị dồn xuống hầm hôi hám, ẩm thấp. Phía trên là thành tàu, có những lỗ tròn hắt sáng, với tới được. Nhưng với làm sao khi chân còn thêm cái cùm.
Đã bao lần Liệu xác định cho mình một thân phận tù đày. Anh đã “quậy” đến thế, thì lãnh đủ là đương nhiên. Chứ còn gì. Làm báo, anh đã công kích chế độ, hô hào độc lập, chơi chính quyền những đòn đau. Lập đảng Thanh niên, làm tổng bí thư, anh chủ trương chống Pháp và chống luôn đảng Lập hiến của đám đại địa chủ. Đất Nam Kỳ kể ra còn rất “độ lượng” với Liệu. Bao lần ra bót Catinat đối mặt với chánh cẩm Arnoux, năm 1927 bị thống đốc Bros ký nghị định trục xuất, đã vào khám Lớn rồi lại thoát. Cái giọt nước tràn đầy cốc là các vụ khởi nghĩa Yên Bái, Phú Thọ của bạn đồng chí Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu.
Đảng Thanh niên tan rã, tất nhiên chẳng ai tuyên bố - vì cứ đánh trống ghi tên là vào được, bộ ba thân thiết ly tán. Nguyễn Trọng Hy quay lại nghề dạy học. Bùi Công Trừng đi Pháp, trở thành cộng sản rồi sang Liên Xô. Chơi thân với các bạn ở Nam Đồng thư xã ngoài Hà Nội, Liệu vào Quốc dân đảng, làm đại diện của tổng bộ Nam Kỳ.
Việt Nam Quốc dân đảng thành lập chính thức tối Noel 25-12-1927 tại ngôi nhà bên hồ Bảy Mẫu ở Hà Nội, đa phần là thanh niên trí thức. Ngay hôm đó mục đích hoạt động của đảng đã thành đề tài tranh luận gay gắt. Nhóm Nhượng Tống, Nguyễn Khắc Nhu chủ trương chế độ quân chủ lập hiến. Nguyễn Thái Học (đảng trưởng), Phó Đức Chính nhấn mạnh nền dân chủ đại nghị, còn Lê Văn Phúc, Nguyễn Hồng Sơn lại muốn đưa thêm vào khái niệm cách mạng xã hội, cách mạng thế giới. Ý tưởng của nhóm thứ nhất nhanh chóng bị gạt đi, hai ý sau được thống nhất rằng trước làm cách mạng quốc gia, sau làm cách mạng thế giới.
Trần Huy Liệu ở xa, không can dự vào những tranh luận đó, cũng chả cùng đồng chí chuẩn bị cho một cuộc “không thành công cũng thành nhân”. Năm 1930, bạo động Yên Bái thất bại. Nguyễn Thái Học và các đồng chí lên máy chém. Nguyễn Khắc Nhu nổi dậy ở Phú Thọ không thành, tự tử đến lần thứ ba mới chết được. Trong Sài Gòn, Liệu uất ức vì không được hy sinh cùng, hay chí ít là chia sẻ những nguy nan. Nhưng anh chả phải đợi lâu. Tòa án Nam Kỳ, do tình thế cấp bách, “tặng” anh cái án 5 năm cấm cố ra Côn Đảo.
Căn ngục lắc lư. Làm quen xong với bộ cùm, Liệu bắt đầu nghĩ lung. Tý cùng hai con Diễm, Vân chắc phải xé lòng khi nghe tiếng còi tàu rời bến. Đất Nam Kỳ cưu mang anh liệu có tiếp tục cưu mang vợ con anh? Liệu không hề hối đã đi theo thầy Bùi Trình Khiêm ngày ấy. ở lại quê nhà, dẫu bây giờ có thể không bị tra chân vào cùm, phỏng có ích gì nếu không lập được thân trai, không giúp được ai…
Dòng suy nghĩ vừa hùng tráng vừa lo âu bị cắt đứt khi một anh nôn thốc vào người cùng cặp cùm với mình. Như điện truyền, cả hầm tàu đầy tiếng nôn mửa. Mật vàng mật xanh ra nhơn nhớt rồi cũng hết, cứ oẹ khan từng cơn. Mùi hắc ín trộn với mùi tanh tưởi thành một thứ xú tạp không thể tưởng.
Mà sao ngoài kia trời xanh thế…
Trông trận khua vang khắp địa cầu
Riêng ai nằm xó bãi Hòn Cau
Sa cơ vẫn thẹn mình thua sức
Vì nước thêm thương bạn mất đầu.
Chưa chút công lao trong dịp truởc
Còn nhiều cơ hội với mai sau
Ai về nhắn hỏi người trong ấy
Gánh nặng đường xa đã đến đâu…

Tâm trạng bí bức lao tù, căm thù đế quốc bên ngoài dai dẳng áp vào Liệu. Suốt năm năm trời anh làm bao nhiêu bài thơ kiểu như thế, những vần thơ sau này rơi vãi khá nhiều.
Nhưng đấy chỉ là tâm trạng. Liệu không thể ngờ ra Côn Lôn, anh được hưởng một cuộc sống vật chất không đến nỗi nào. Thịt cá có lúc ê hề, gông cùm chả phải lúc nào cũng xủng xoảng. Việc đi lại trong từng khám khá thông thoáng. Nhưng dù sao cũng là đời thằng tù, cấm cố, khác hẳn những lúc “nếm náp” vị khám Lớn trong đất.
Sau này ra tù về Hà Nội, Liệu “kể” lại cho công chúng đời sống ngoài đảo trong thiên hồi ký “Côn Lôn ký sự”, đăng báo rất ăn khách. Không căm hờn chứa chất quá, cũng chả thi vị hóa, “Côn Lôn ký sự” có giọng điệu bình thản, tỷ mẩn những chi tiết nhân bản.
Nụ cười ở trong nhà tù nhiều khi rất có ý nghĩa. Trong đầu óc chứa muôn vàn những nôi đau đớn cùng muôn vàn những điều căm tức do một cuộc thất bại gây nên, gặp nhau muôn ôm nhau mà khóc nhưng lại thay cho trận khóc bằng một nụ cười. Người nhận nụ cười ấy thấy như bị một luồng điện truyền khắp mình, cũng trả lời bằng một nụ cười khác. Những người ở xã hội ngoài thường được tiếp xúc với nhau một cách dễ dãi nên trong khi gặp nhau ít gây cho nhau được cái cảm giác sâu xa, chớ những người ở trong nhà tù, năm chừng mười họa nhờ cái khe cửa hay cái kẽ vách mà xa nhau có dịp gần nhau, thì cái giờ khắc ấy không thể lấy tiền bạc mà đánh giá được. Lắm lúc gặp nhau ở tận xa xa, chỉ được trông thoáng nhau coi vóc người gầy hay béo, sắc mặt buồn hay vui đê đoán sức khỏe cùng tinh thần của nhau. Lắm lúc mình trông thấy bạn mà bạn không trông thấy mình, cũng cứ việc nhìn cho tới khi không còn tăm bóng.
Năm năm trời ấy, Liệu đã chuyển từ lập trường Quốc dân đảng sang Cộng sản, dù trong xương tủy anh vẫn là người “Dân tộc chủ nghĩa” như luật sư Monin đã “định danh” hồi còn ở Sài Gòn. Anh có khối rắc rối sau này vì sự thay đổi ấy.

Âm mưu vượt biển, tìm tri âm mới, so đo lại tư tưởng, tình cảm là sinh hoạt thường ngày. Nó còn sôi nổi, bận tâm trí hơn nỗi lo đối phó với đám cai ngục rất nhiều. Không ngờ là Liệu lại khỏe ra, rắn rỏi hơn những ngày trong đất, trừ lần ngã…
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #14 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 09:56:12 pm »

NGƯỜI TÙ CHĂM HỌC
Khám Lớn Sài Gòn đã vào đêm. Ngọn đèn hành lang soi lờ mờ bóng người lính gác bất động. Thỉnh thoảng anh ta đứng dậy, xốc súng đi rảo qua các phòng giam. Tiếng ngáy, tiếng chép miệng, nghiến răng như một bản hợp xướng kinh khủng, khúc “sô lô” là tiếng rên của người bị đánh ban ngày.
Mò mẫm trong xó tối, Liệu lôi ra mảnh báo tiếng Pháp. Lợi dụng ánh đèn ngoài kia, và lúc người lính gà gật, anh đứng hẳn dậy xem. Đến một chỗ ngắc ngứ thì ngẩn người ra, cứ thế tần ngần, cuối cùng Mò mẫm đến cuối phòng, lay người dược sĩ bị bắt vì tội làm thuốc giả.
- Này, hỏi tí đây. “Anh-đê-păng-đăng-xơ” là gì?
- Là “độc lập” - người dược sĩ lầu bầu, trở mình ngủ tiếp.
- Nhưng “anh-đê-păng-đăng” cũng là “độc lập” kia mà…
- Một đằng là tính từ, một đằng là danh từ. Còn gì nữa không?
- Còn một đoạn nữa nhưng tối quá.
Tiếng thì thào làm vài người thức dậy. Góc bên kia có tiếng càu nhàu:
- Thôi bố trẻ ơi, để chúng con ngủ ạ.
- Rõ là con mọt, đêm xuống mới cót két.
- Đ. mẹ thằng nào phá giấc ông… Mai cho một trận?
Một thường phạm nổi cáu làm Liệu lo lắng, lui về chỗ. Cái bọn chuyên lấy đấm đá đạp làm cơm ăn nước uống hàng ngày, anh ngán lắm, dù ngoài kia có lúc chỉ huy cuộc mít tinh cả vạn người. Mảnh báo lại bị dúi vào xó, để mai lôi ra.
Ấy là vào năm 1927, những hoạt động chính trị tạm lắng xuống với Liệu. “Lắng xuống” vì anh phải nằm bót sáu tháng, “trận phủ đầu êm dịu” của chánh cẩm Arnoux với kẻ quậy phá nguy hiểm.
Nhưng khám Lớn có cái hay, là chỗ để bồi bổ sự học. Liệu rất tự tin khi dùng tiếng Việt và chữ nho, nhưng lỗ mỗ về tiếng Tây. Vào khám thiếu tự do mà anh không phát điên, có lẽ vì nhờ cái đức “mọt sách bẩm sinh”.
Vào Nam Kỳ, xứ thuộc địa Pháp, sinh sống, thực hành chí hướng đều bằng chữ nghĩa, Liệu thấy có quá nhiều thứ mình còn thiếu. Thực dân sang đây đô hộ người Việt, đặt chế độ cai trị tàn ác khiến anh căm thù. Nhưng nước Pháp - với tư tưởng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”, những nhà triết học của thế kỷ Ánh Sáng - hấp dẫn anh. Trước đó, những “tinh thần pháp luật”, khế ước xã hội”, rồi nay là “Tư bản luận”, “Lịch sử tiến hóa nhân loại”, “Lịch sử tư tưởng thế giới”… anh đã đọc qua tiếng Hoa của Thương vụ ấn quán Thượng Hải. Nhưng chỉ là ông đồ non mà làm báo ở Nam Kỳ thì thiếu hụt quá.
Thời làm chủ bút Đông Pháp thời báo, Liệu lấy tin khá nhiều ở báo chữ Tây. Trước khi đưa người biết dịch, anh hay tò mò “điểm” những từ quan trọng, đoán nội dung tin, hễ khớp với bản dịch mà thấy mình mò đúng thì khoái chí lắm. Liệu nhất định phải học tiếng Pháp. Không hệ thống cũng được. Nhưng lúc thì “cày” một nghìn ba trăm chữ về đám tang Phan Chu Trinh, lúc vợ đòi sữa cho con, đành chịu. Có ai ngờ được tập trung để học mà cũng khó thế.
“Dịp tập trung” ấy là sáu tháng khám Lớn ông Arnoux dành cho. Thày dạy có thừa. Bạn tù giỏi tiếng Pháp rất nhiều, dư thời gian và sẵn sàng bảo học, có khi hai ông thầy cãi nhau trước mặt trò.
Khó hơn là tài liệu. Sách vở giáo trình thì Tây cấm ngặt. Đành gom nhặt những mẩu báo gói đồ tiếp tế, “nghiên cứu” rồi đem hỏi, có khi “nghiên cứu” cả trong hố xí. Bên ngoài, Tý rất chịu khó gửi cho anh những gói đồ tiếp tế mà báo gói nhiều hơn cá khô, muối lạc.
- Từ này nghĩa là gì?
- Trật tự câu này thế nào?
- Mệnh đề nào là chính?
Cái mạnh của Liệu là kiến thức chính trị, kinh nghiệm sống. Thầy giáo bổ sung nghĩa từ, giảng văn phạm là anh “thủng”, trước biết ý nghĩa câu văn, sau có thông tin về ngoài đời.
Sang năm 1929 lại có dịp tập trung lớn, lớn chưa từng thấy, tòa Nam Kỳ cử đi bồi bổ kiến thức.
“Khóa chuyên tu” dài những năm năm, “trường” biệt lập, không có vợ con eo xèo, đám nặc nô đòi nợ, cũng chả lo viết báo kiếm sống. “Trường” Côn Đảo cách đất hàng trăm cây số, Liệu được phân về “lớp” Hòn Cau còn hẻo lánh hơn, tha hồ tập trung.
Côn Đảo tuy xa nhưng không phải không có liên lạc Nhân vợ một mã tà về Sài Gòn, Liệu nhắn Tý đang bán rau ở chợ Bến Thành gửi cho quyển từ điển Larousse. Thay cho những mảnh báo tiếng Tây, anh có hẳn người bạn nhỏ dầy cộp, cầm nặng tay, có điều giấu giếm khó. Một chương trình nghiêm ngặt được đề ra: mỗi ngày học 200 từ với đầy đủ nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa rộng. Gốc dừa, vườn chuối, bãi cát là vở, mẩu gạch, khúc que là bút, đâu đâu cũng chi chít chữ viết. Trong một tháng, Liệu học được 6000 chữ. Nhịp độ “nhồi” sau đó chậm lại vì cái đầu đã “đầy” dần. Hai năm ở Hòn Cau, vốn tiếng Pháp của anh tăng vùn vụt, chỉ trừ sáu tháng nằm liệt vì chuyến rong chơi xuống hang yến.
Có lần bạn tù trêu, thách Liệu nhớ hết nghĩa của một từ rất hóc hiểm. “Lời giải” đâu ra đấy làm anh em phục lăn, gọi anh là “tự vị sống”. Dường như chả biết sốt ruột, bí bức là gì, “nhai” từ điển chán, Liệu tấn công sang sách, từ chính trị sang văn học.
Nghiền “Tội ác của Sylvestre Bonnard”, một tuyệt tác của Anatole France - đến mười lần, anh điên cả người vì chưa cảm nhận được cái hay trong câu chữ.
Do cách học đặc biệt này ở “trường Côn Đảo” mà khi “tốt nghiệp” anh học trò đã đọc hiểu thông, viết chưa thạo, còn nghe và nói không được chuẩn. Nhưng thế cũng đã đủ để xông vào trường văn trận bút sôi nổi sau đó.
Cảnh tù ngục bí hãm sinh ra cho con người những phẩm chất tuyệt vời. Ông đồ non nhất định phải học tiếng Tây và vẫn nhất định phải làm báo.
Là thư ký tòa soạn “Hòn Cau tuần báo”, Liệu góp bài với “Tiếng sóng bể”, “Bàn góp”, những tờ báo viết tay độc nhất vô nhị trên thế giới. Đây cũng là thời kỳ manh nha nhà viết sử tương lai. Dựa vào trí nhớ, anh viết về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên (1917), khởi nghĩa Yên Thế. Bạn tù Quốc dân đảng Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Phúc, Nguyễn Phương Thảo (sau này là trung tướng Nguyễn Bình) xem và góp vào đấy khá nhiều ý. Bên “phe” Cộng sản, Ngô Gia Tự, trước cuộc vượt biển bất thành, đã bao đêm ngồi ngoài bãi cát nghe anh tâm sự về mộng viết sử. Trần Huy Liệu không thể ngờ rằng sau này, sau những tột đỉnh vinh quang, thăng trầm trên đường đời còn là cái cớ để anh trở thành người viết sử chuyên nghiệp.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #15 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 09:57:36 pm »

CÚ NHẢY
Tết Tân Mùi 1931 không ngờ lại khá nhờn mép. Rượu, thịt, hoa không thể nói là ê hề, nhưng những gì nuôi trồng được trong vườn, chuồng, đã tiềm tiệm lắm rồi. Tiết canh vịt, tiết canh chó nhắm rượu nấu lấy ngay từ mồng một; đời tù còn có gì mà kiêng chứ. Rau tươi thì tha hồ, do đất đai và công sức không thiếu. Về tinh thần, những buổi ca bài chòi, thi làm vè câu đối, liên hoan văn nghệ rất sung túc. Sau tuần rượu thịt, không muốn ngủ trong khám hầm hập hơi người, tù “vương vãi” ngoài bờ đá, bụi cây, có người ra tận mép sóng, chả biết mơ mộng hay thổn thức. Hòn Cau rộng và thoáng lắm, sẵn tre gỗ đóng bè, nhưng vượt biển về đất thì không dễ tí nào. Ngoài kia, ngoài xa ấy, có những dòng nước quẩn, không phải sức máy đố đi tiếp. Vài chuyến xuất phát êm ả, hôm sau lại thấy quay về. Bởi vậy lính coi ngục chả bao giờ lo tù trốn.
No cơm ấm cật mà không giậm giật chân tay thì cũng cuồng người. “Tòa soạn” “Hòn Cau tuần báo” bèn xướng lên chuyến chơi xuân, mệnh danh là “Cuộc du lịch vòng quanh thế giới”. Nó có nhiều ý nghĩa những đại loại từa tựa như trong đất, anh em sau khi vào cao lâu Chợ Lớn thì kéo nhau xuống Xóm Lách làm chầu bài chòi.
Đích được nhắm là phía trái đảo, sau mỏm Bồ Đề, sườn núi dốc tụt ngay xuống biển. Cái chỗ hiểm trở vô cùng ấy nhiều hang hốc không thể leo lên được, mà leo xuống cũng vô phương. Mùa thu, chim yến từ phương Bắc xa xôi vượt cả vạn dặm biển về đây nhả dãi xây tổ, đến lúc ấm áp lại bay đi cả đàn.
Tổ yến bằng lông và dãi, hình như có cả máu chim nữa, người mơ mộng trông xa bảo như cánh hoa hồng dính vào vách đá.
“Đoàn du lịch” dù được miễn phí, được cả một tờ báo làm “quảng cáo”, rốt cục chỉ có bốn tên ghi danh: Phạm Tuấn Tài, Đào Khắc Hưng, Hoàng Trác và Trần Huy Liệu. Mồng sáu Tết, vào đúng chủ nhật đoàn khởi hành, người đi tiễn tặng nào hoa nào thơ dậy mùi lắm. Liệu xốc túi cơm nếp và nước uống buộc quanh người, lấy bộ điệu kịch sĩ vẫy chào anh em:
- Ở lại mạnh giỏi nhá. Đến châu Mỹ chúng tớ đánh điện về. A này Di, “Hòn Cau tuần báo” số tới đừng trinh bày hết, để lại một chỗ cho bài tường thuật chuyến du lịch nha.
“Thế nào cũng có cả thơ nữa đấy”, Liệu vứt lại câu cuối cùng rồi rảo cẳng theo bạn đồng hành. Sau lưng anh, con chó mực vẫy đuôi sủa nhăng nhẳng.
Đến chỗ vòng qua mỏm Bồ Đề, cả bọn đứng lại vẫy chúng bạn thêm một lần nữa. Trên đầu là bầu trời xanh. Màu của tự do đấy ư?
Núi đất thoai thoải đã hết. Giờ là đá lô xô rất khó đi tuy chưa dựng đứng như thành vại. Chân dò dẫm tìm chỗ đặt, tay chống gậy lấy thăng bằng, ai nấy thở như kéo bễ. Cũng may gió chẳng bao giờ thiếu, bay hết mồ hôi. Nhưng nhìn xuống bể thì hãi quá bởi vậy cả bọn đều gằm mặt xuống đá. Cái tư thế lò dò ấy rất chóng mỏi. Trưa đến, tìm được chỗ thoải tàm tạm, mọi người cùng nhất trí hạ trại. Đồ ăn thức uống dọn ra. Nhìn quanh không thấy con chó mực đâu, ai cũng cười chê nó “ngại khó”.
Hưng hề hề:
- Kỳ này lấy được mấy tổ yến, cầm bằng chúng mình là vua. Chả tiến đi đâu, tiến ngay cho mình…
- Chả dễ xơi. Không có dây với quang treo thì chỉ có mỗi cách đằng vân.
Câu nói của Trác làm Hưng cụt hứng. Trác ra trước cả bọn, biết nhiều chuyện hơn. Tỷ như đi lấy tổ yến thế nào, nghe rợn cả người. Lũ Tây ngoài đảo cũng hủ lậu, năm nào cũng kiếm tổ yến nộp cho cấp trên trong đất, cố nhiên không phải bằng công sức chúng. Giá tổ yến tính bằng mạng tù. Từ trên đỉnh núi, người tù được thả xuống vách bằng quang treo, cổ đeo túi, tay cầm đèn mò mẫm cậy tổ, không còn gì mới được kéo lên. Thằng đội Bốn chỉ huy nhóm khai thác rất ác, bắt người leo xuống tụt bỏ hết quần áo để không giấu giếm tổ vào đâu được. Lấy được bao nhiêu chiếc đều phải ghi vào biên bản cẩn thận, tổ yến quý hơn vàng mà.
- Tớ không nhìn thấy bao giờ, chỉ nghe kể, nhưng hình dung lại đã rợn tóc gáy. - Trác nói.
- Nhưng xuống được tổ yến một phen thì có gãy chân cũng thỏa… Chuyện kể hết đời không hết, nhỉ.
Nghe Liệu bảo thế, Tài xua tay phỉ phủi cái mồm, và giục lên đường kẻo lại căng da bụng chùng da mắt.
Đường mỗi lúc mỗi khó. Nhiều đoạn phải bò. Mắt, tay, chân cứ căng ra mà bám, dò từng bước. Mồm mũi tranh nhau thở. Vì quá nguy hiểm nên ai cũng cẩn thận. Vòng vèo hơn trăm mét, ra được chỗ bằng hơn, hết căng thẳng rồi, thì thật là sung sướng. Đó cũng là lúc tai họa ập xuống.
Cái tảng đá Liệu tì gậy vào để tìm chỗ đặt chân ấy trông vững chãi, nhưng đất bên dưới đã bị nước mưa đêm trước xói nhẵn. Sức nặng làm nó long ra. Liệu mất đà nhào xuống.
Ba người đồng hành thấy anh bay một đoạn, rơi huỵch xuống đất rồi lại nẩy lên. Vừa nẩy vừa lăn, đến một lúc thì ngừng lại, nằm như bao thóc. Sợ hãi, bất lực, Hưng, Tài, Trác nhìn theo mếu máo.
Chết chứ còn sống thế nào. Bỗng từ tám mươi mét phía dưới, “bao thóc” động đậy, tay chân vẫy vẫy, ới lên rất yếu ớt. Chưa kịp nghe ra lời, họ thấy máu trong đầu Liệu phọt ra, phun cao đỏ ngầu. Rồi im hẳn. Những người tù lập tức quay về khám.
Gần tối thì Liệu lơ mơ, rồi tỉnh trở lại. Dưới lưng anh bập bềnh, dằng dịt cái gì, hình như là tấm võng đan bằng cây leo không biết đã tự bao nhiêu năm. Liệu gắng nhúc nhắc nhưng chỉ được cánh tay. Cổ chân sưng to bằng cái lọ, mỗi lần dập dình chỉ muốn hét lên. Khát quá. Xé họng. Nhưng Liệu chỉ có máu, máu dính bệt bộ quần áo vào người. Lo vô cùng. Nhỡ bộ võng thiên nhiên đan dệt dưới lưng không chịu nổi sức nặng ngoài bốn chục ký.
Bên trên vách đá lấp ló những tổ yến, đứng dậy với tay ra là cạy được. Dưới lưng, biển xô sóng hung dữ vào bờ đá, ngã xuống không chết đuối cũng vỡ đầu.
Đêm nay ngộ nhỡ không có ai xuống cứu, ta chết khát mất…
Nhưng những lo sợ với “ngộ nhỡ” ấy còn xa xôi quá Những tiếng “quà quà” xôn xao đều đều trên đầu, ngay bên cạnh làm Liệu lạnh người. Đàn cắc ca, loài chim ăn thịt, đánh hơi máu tanh đã sà xuống. Chúng nhảy chuyền, kêu mãi những tiếng trầm trầm xào xạo, hẳn là đang đợi bữa tiệc. Cái “xác chết” này sẽ bị rỉa thịt, móc mắt, rứt từng mảnh môi giập ra… Không thể được. Liệu cố gắng lấy hết sức kiệt vẫy vẫy bàn tay, tỏ cho lũ ác điểu biết “nó” vẫn còn sống. May là đàn cắc ca không sà xuống, vì Liệu không thể chống cự, dù chỉ đôi ba con. Tối mịt thì chúng bay đi.
Liệu đã có thể nghỉ. Đang thiêm thiếp thì nghe “hứ” tràng dài trên đỉnh núi. Dù chết đến nơi, anh dồn hết hơi hú lại.
- Còn sống. May quá anh em ơi còn sống.
Tiếng reo dội lên trên núi. Đám đông đốt đuốc, dòng dây thả Nguyễn Phương Thảo và Phạm Hữu Phùng bám vào vách đá lần xuống. Thảo vốn là dân anh chị Hải Phòng, gặp Liệu rất phục, coi như một “đại ca”, cố nhiên không phải về võ nghệ. Giờ đàn anh gặp nạn, kiểu gì Thảo cũng phải xuống tận nơi. Hạ xuống “võng”, họ cho Liệu uống nước, thận trọng gói anh vào chăn, buộc lại cẩn thận để bên trên kéo lên. Trong ánh đuốc chập chờn, thằng lành khiêng thằng què, cả bọn trông như một đám ma tới nghĩa địa, cái nghĩa địa có sự sống.
Nghĩa là đã thoát chết. Nghĩa là Liệu đã được thiên nhiên vĩ đại che chở, giật lại từ tay tử thần. Nhưng anh sẽ sống thế nào với hai lỗ thủng sâu hoắm trên đầu. Không ai nói ra, nhưng Liệu đọc được ý nghĩ này trong mắt mọi người: cái trí thông minh này hỏng mất rồi. Để thử xem nó có hỏng thật, Liệu bèn bảo Hoàng Thúc Di lại, đọc cho bạn chép bài tường thuật “chuyến du lịch vòng quanh thế giới có tiết mục nhào lộn” đưa “Hòn Cau tuần báo”.
Non nước trông vời đã bấy lâu
Nhào lăn một chuyên dám kêu đau
Mấy lần hang thẳm chim chào khách
Trăm thước non cao đá thử đầu
Đổ máu vẫn chưa nhòe vết cũ
Nằm gai còn tính những mưu sâu
Vang trời hú với ai đồng chí
Nhiệm vụ chưa rồi dễ chết đâu
.
Lại còn thơ nữa chứ. Đúng niêm luật và vẫn hài hước, ý chí “ra gì”.
Liệu được ra nhà thuốc nằm, do anh Đàm, một y sĩ nhà binh Pháp, cùng chân tù coi sóc. Nhờ mấy lá cao và thuốc lá, hai lỗ thủng trên đầu đầy thịt dần lên. Được một tuần, đang ngồi, bỗng máu phọt thành vòi xuống đầy mặt. Đàm chạy vội đến nhưng không biết làm thế nào cho nó cầm lại. Lần này Trần Huy Liệu chết thật rồi.
Đang trân trối chịu trận, ông bếp Ngọc chạy lại. Ông bảo thế là may. Hồi nấu ăn cho cụ Đề Thám, ông đã thấy mấy nghĩa quân bị như vậy, rồi đều bình thường trở lại. Bằng không ra, máu độc đọng lại trong đầu, đến trời rét nó sẽ hành cho đau đến chết thì thôi.
Ông bếp Ngọc nói đúng. Hai lỗ thủng hàn kín miệng, thành sẹo lớn trên đầu. Liệu nghĩ ngợi, học hành vẫn sáng láng. Có điều chân sái không vào khớp được nữa, thành thử đi “chấm phẩy” suốt đời.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #16 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 10:00:38 pm »

NGƯỜI TÙ ĐA CẢM
Đời tù ở Côn Đảo đi đâu thì cũng vẫn trời nước bao quanh, vượt ra ngoài chút chút đã mênh mông trùng dương đầy nguy hiểm. Bởi vậy, những chuyến tàu tiếp tế lương thực thực phẩm, mang tù mới ra, chở tù mãn hạn về, cùng những cánh thư, sách báo kèm theo đều là sự kiện lớn.
Đảo đã có dân, lập nhà thương, bưu điện, nhà thờ, vài trụ sở dân sự phục vụ bộ máy quản lý. Tiệm buôn không có, trừ cửa hàng tạp hóa tối cần thiết của một người Hoa, có phép của chúa đảo. Năm 1933, Liệu nhận tin tàu Sài Gòn ra mang theo lời thăm hỏi của bạn bè trong đất. Người chuyển những lời nhắn quý báu ấy là Phạm Thị Hồng, cô hộ sinh người Bắc, đến nhận công việc ngoài đảo với mẹ già và người em họ tên Phạm Thị Bách.
Tù chính trị “đời mới”, như đám Quốc dân đảng của Liệu hay Cộng sản của Ngô Gia Tự, có khác với các cụ “đời cũ” thời Duy tân, vô khám, dù khám giữa trời nước, còn có thể nghĩ đến ngày về. Họ không bị dập tắt ý chí, còn giữ nguyên lý tưởng về dân, về nước. Gặp chỗ thích hợp, họ tìm cách gieo cái “mầm” ấy xuống. Phạm Thị Hồng chưa từng chính trị chính em gì nhưng đã tình nguyện làm một cánh thư cho đám cách mạng, thời là người tốt, vậy nên bắt vào. Vả chăng được trò chuyện, dù cách mặt, cách hẳn lời - với phụ nữ sung sướng lắm. Hồi xem kịch ở khám II Côn Lôn, Liệu còn viết cả mười trang thư đến anh tù đóng vai nữ để gửi lòng mình kia mà. Tình cảm, dù là tình gia đình hay những luyến ái lãng mạn nếu không có chỗ trút, thể nào nó cũng nổi loạn.
Liệu viết cho Hồng những bức thư cuốn tổ sâu, đặt trong cống rãnh, cầu tiêu, lỗ cửa khám sát với nhà thương. Cũng theo đường ấy, sách vở “bò” vào, mang theo vô vàn niềm vui. Nhân đọc một quyển sách nói về phụ nữ, Liệu thảo luận với Hồng về cách nghĩ cũ kỹ trong đó. Không ngờ cô khán hộ lại rất mạnh bạo trong quan niệm nữ quyền. Từ đây, “búi chỉ” tình cảm tở dài mãi ra, nào chuyện thời tiết, bãi cát vích bò lên đẻ, nào chuyện cách mạng, những tên tuổi, sự kiện, hôm nay vợ mã tà Lịch sinh con trai hai cân chín… Hồng dần dà chịu ảnh hưởng tuyên truyền, còn anh tù sung sướng thấy có người ăn nhời mình.
Sáng nào cũng vậy, nghe tín hiệu gõ vào thùng phân của người “giao thông”, Liệu lập tức chạy ra xem có thư không. Cô hộ sinh chắc vui tính, vì ký tên là “Thần giết thời giờ”, có ý làm khuây khỏa cho mấy anh tù. Còn Liệu ký “Hải Khách”, người bất đắc dĩ phải làm khách chốn trời biển. Sau những “nhân sinh”, “thế giới quan” nghiêm trang đến nhàm chán, họ chuyển sang thơ phú. Hồng đi chơi đảo, tắm bể, sinh tình làm thơ, nhờ Liệu sửa chữa.
Kể thì còn non nớt, không khỏi có chữ bấy tứ mòn, nhưng làm Liệu hứng khởi vô cùng. Đang thằng tù lại có người đụng đến sở trường của mình mà. “Bản thảo” được thêm bớt, nhiều chỗ tả cảnh tả tình, làm ra vẻ anh đang đi chơi cùng cô. Rồi dưới những dòng chữ quen thuộc gửi từ nhà thương vào có tên ký mới: “Nam Hoa”, thỉnh thoảng kèm theo một gói bàng quả. Vậy là thứ quả hiếm hoi trong sân nhà thương, ngoài tác dụng bổ sung vitamin, chữa tiêu chảy cho người đang trong chỗ khó, còn làm ngất ngây anh đàn ông đa cảm. Vị chát đọng lại trong lưỡi, sao mà tê mê đến vậy.
Những tâm tư đương tràn ngập tìm được chỗ trút giống như dòng nước cứ tuôn trào. Lúc “bên ngoài” muốn biết “bên trong” trải qua một ngày sống thế nào, liền được đáp lại hẳn bằng một thiên nhật ký ghi tỷ mỉ 24 giờ. Liệu vừa đọc “Lời sám hối của một đứa trẻ thời đại” của Alfred de Musset, thấy sao mà hợp với lòng mình vậy, đã xuất thần trong con chữ. Dễ hiểu là anh đã gặp sự đồng thanh tương ứng đến nhường nào từ “ngoài kia”.
Tuy vậy, có một ý nghĩ, có thể là khó hiểu với nhiều người, là anh muốn trì hoãn cái giây phút gặp mặt sau bao nhiêu cách lời lại, càng lâu càng tốt. Nặng lòng, cảm thấy không phải với người vợ trong đất quá chăng? Sợ rằng mình đang trong lao tù, được cả một tấm tình cảm nặng trĩu nó áp lực lên thì nặng quá, không “mang” nổi chăng? Tất cả đều có thể. Nhưng chắc chắn Liệu có cái quan niệm giữ lại những ấn tượng tốt đẹp đó, để ủ cho dậy men, thời hạnh phúc hơn, ấn tượng cũng bền hơn. Anh sợ cho cái đẹp mong manh sẽ tan biến lúc “mục sở thị” nhau, chẳng thà cứ để nó tồn tại trong tưởng tượng là hơn.
Thực tế sau này đã cho thấy cái chủ ý đánh “lừa mình” ấy của Liệu sáng suốt. Anh đã giữ được những cảm giác êm đềm, đẹp đẽ trong suốt những ngày lao tù, để rồi khi được sổng ra, cái hạnh phúc ở bên nhau bằng xương bằng thịt càng lớn.
Không nhiều, nhưng đã trên một lần họ có cơ hội thấy nhau. Liệu đã thả bàn tay ra không nắm nó lại. Một dịp lễ “Cát tó” - quốc khánh Pháp, đám quản giáo muốn tạo không khí nhẹ nhõm, cho phép tù chơi “văn hóa văn nghệ”. Chính trị phạm ở khám II diễn “Người biển lận”, hài kịch của Molière. Xem xong thì được ra sân chơi. Bên ngoài cánh cửa sắt là hàng quà bánh của vợ mã tà bán, có một người trông phong độ có vẻ là “Thần giết thời giờ”. Được anh em báo lại, Liệu ngần ngừ chả dám ra, rồi cũng đến lúc “bóng hồng” khuất. Nếu giả xưng làm con chiên để mỗi sáng chủ nhật được ra nhà thờ thời có cơ gặp nàng, Liệu cũng có thể nhưng lại chả làm. Hoặc khai có bệnh để ra nhà thương, nơi Hồng rất ân cần với tù chính trị. Thiếu gì cách để ra bệnh, ví như ngậm nước nóng trong mồm, phình má ra đoạn đấm vào mang tai, mặt sẽ sưng to ra, ửng đỏ như người mắc quai bị. Quai bị là bệnh lây, nguy hiểm rồi, thầy thuốc cho ra nhà thương, cách ly luôn.
Liệu chả làm theo những cách ấy. Con người tranh đấu trong ông, đối diện với một tâm hồn non tơ đầy trắc ẩn và nhạy cảm đã nhường chỗ cho chàng thi nhân lãng mạn. Liệu sợ thực tế phũ phàng, rồi lại thất vọng như Mị Nương gặp Trương Chi chăng? Hoặc giả người ta lại thất vọng; mình đã chẳng kèm nhèm đôi mắt, lúc này lại bẩn thỉu hôi hám. Chẳng thà cứ chỉ nghe tiếng sáo mà vọng về nhau được mãi…
Nhưng đã có lúc Liệu phải tiếc cho sự cố chấp cố tình của mình. Hồng bị khám nhà, thẩm vấn vì một gói quà trong đất chuyển đến theo đường bưu điện, đề tên cô và nhờ gửi cho một tù chính trị. Có sự liên hệ trái phép nào thì gia đình người ta mới cậy giúp như thế chứ. Liệu cuống lên. Hồng có làm sao, nhỡ mà không đủ khôn khéo hay cứng cáp để đương đầu… Nhưng anh lại chỉ có thể tỏ sự quan tâm bằng thơ, cái thứ vô tích sự nhất trên đời, bài “Vườn hồng mưa gió”.
Lơ lửng vườn ai một đóa hồng
Đêm qua mưa gió có gì không
Nhớ nhung bạn mới ngoài song sắt
Phảng phất hồn hoa giữa giấc nồng

Nóng lòng chờ đợi tin xuân đến
Thăm lại vườn xưa viếng chư ông
Thơ họa lại từ bên ngoài cho biết vườn có bị gió mưa nhưng hoa hồng không bị tổn thương. Và cũng chả có “chư ông” nào ở đây sất. Hai “thông tin” đủ làm ngây ngất tấm lòng đang rưng rưng của anh tù lãng mạn.
Những ngày dịu ngọt đến đê mê ấy đã kéo dài với tôi đến gần một năm thì Hồng có lệnh đổi về Sài Gòn. Có cần gì phải nói nhiều những quyến luyến truởc lúc chia phôi! (Tôi muôn tìm mấy chữ khác, nhưng không được). Và những tâm tình dám bạo dạn trỗi lên trong những bài thơ xướng họa.

Đôi ngả quan san người dẫu cách
Mấy thiên tâm sự bạn như gần
Xa nhau, vội hẹn ngày sum họp
Cái nợ trăm năm trả trả dần
Và cũng trong dịp “giai nhân một đi không trở lại” này, tôi đã nói rõ với chị Hồng biết Hải Khách là ai và mấy lời giới thiệu với vợ tôi lúc ấy đương ở Sài Gòn.
Ngày chị Hồng bước chân từ Côn Đảo xuống tàu về Sài Gòn là ngày nào tôi đã quên mất, chỉ còn nhớ là 8 giờ sáng ngày thử ba. Một hồi ba tiếng trông báo hiệu tàu chạy hòa nhịp với tiếng đập của trái tim tôi như vỡ lồng ngục. Tối hôm ấy tôi nằm lịm trên chiếc sàn xi măng không chiếu, nghe một ông bạn già nằm bên gõ phách hát bài Tỳ bà hành đền câu:
Đông thi thiên nhai luân lạc nhân
Tương phùng hà tất hồi tương thực
(Cùng một lứa bên trời lận đận
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau)
Câu hát tình cờ ấy đã thấm sâu vào lòng tôi bấy giờ. Thế mà cho đến ngày tôi viết thiên hồi ký này tôi và Hồng vẫn chửa một lần gặp mặt nhau.
(Hồi ký Trần Huy Liệu. NXB Khoa học xã hội 1991. Tình trong ngục tối)
Những hồi tưởng trên, Trần Huy Liệu ghi lại giữa núi rừng Việt Bắc, khi đang “ngồi chơi xơi nước” trên những cái “ghế” có chức danh rất kêu.
Tại sao Liệu không gặp mặt Hồng ngay, ngoài lý do “ưu tiên cho sự tưởng tượng lãng mạn” nêu trên?
Tại sao ông muốn cô hộ sinh trẻ gặp mặt người vợ rất mực giản đơn, thuần phác, một mực hy sinh cho chồng của mình?
Chả thể nào nói rõ ra. Tất cả chỉ là dự cảm. Có thể Liệu coi Hồng như em gái - cái điều quá dễ “xác định”. Cũng có thể ông đã hình dung Hồng như người sau này sẽ làm bề em sau người vợ cái của mình. Và ông sẽ cùng chăn gối, mơ mộng với cô.
Nhưng tất cả mọi tưởng tượng lúc này đều còn quá nhỏ nhoi so với những gì diễn ra sau này.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #17 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 10:06:18 pm »

HAI CỤ PHAN
Trong tâm trí những thanh niên yêu nước, Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh là những tên tuổi thật đậm đà. Về mặt tư tưởng, các cụ thực tiễn, tiến bộ hơn hẳn những sĩ phu đồng trang búi tóc củ hành chỉ biết tụng Thánh hiền, ghét Tây thì bài trừ luôn những tiến bộ của thế giới. Dân trí đi trước hay độc lập đi trước, dựa vào Nhật cùng máu đỏ da vàng hay tự lực bằng ý chí để đuổi thực dân…, đó là những điều quá rắc rối với những ai chỉ có bầu nhiệt huyết sôi sục. Nhưng cái điều đưa cả trăm thanh niên ưu tú Đông du để học lấy kỹ nghệ tiên tiến thì quá hấp dẫn. Ngoài đường đi nước bước, hai cụ còn đầy đức hy sinh và tinh thần quật cường, chịu đựng lao tù thống khổ không sờn chí. Tài học, nhất là tác phong sống của họ cũng là cái để lớp hậu sinh noi theo. Liệu rất thích “chi tiết” nhà ái quốc Phan Bội Châu còn là một khách đa tình, được tổng đốc Thượng Hải nể phục, có lẽ vì có cái gì đó “giống” anh.
Kính trọng khi ở xa xa. Nhưng lúc gần gụi lại không hẳn như thế. Những năm hai mươi, viết chung một tờ báo, ở cùng nhà, hai anh bạn Trần Huy Liệu và Sông Hương (Bùi Công Trừng) đã choảng nhau ê hề vì mỗi anh thích một cụ.
Chẳng hạn, Trừng khen:
- Anh đã nghe cụ Tây Hồ (Phan Chu Trinh) diễn thuyết chửa? Hai bài “Đạo đức luân lý Đông Tây” và “Quân trị và dân trị” nghe mới sướng làm sao…
Thì Liệu bẻ lại:
- Anh thấy Đông Pháp thời báo đăng bài thơ cụ Sào Nam (Phan Bội Châu) tặng trạng sư Bonard bán chạy thế nào không?
Trạng sư Bonard cãi cho Phan Bội Châu trước tòa đại hình Hà Nội, khiến Tây phải giảm tội, đưa cụ về an trí ở Huế. Thời kỳ “ông già Bến Ngự” bắt đầu từ đấy. Hôm đăng bài thơ trên, hơn vạn bản Đông Pháp thời báo bán hết veo, trẻ bán báo kiếm khối tiền nhờ cho những người chậm chân thuê báo xem lại.
Hai ông trẻ nghèo tiền bạc mà giàu nhiệt huyết cứ cãi nhau vặt như thế. Trong thâm tâm, Liệu biết Trừng không phải không thích cụ Phan Bội Châu, nhưng cả hai chung thần tượng nó buồn cười thế nào. Nhằm ngày Khải Định vừa làm lễ mừng thọ tứ tuần và sang Pháp, Trừng và Liệu đều khoái trá với lá thư cụ Tây Hồ hạch bảy tội đáng chém của vua bù nhìn.
- Có thế chứ. Chúng mình là loại thanh niên đầu trò phải đến thăm cụ mới được. - Trừng nói. - Biết đâu lại được mấy chữ…
Hai anh em sửa bộ tươm tất, đến phố Pèllenn gõ cửa nhà ông Huỳnh Đình Điển. Người yết kiến cụ Tây Hồ đông quá, ra vào như mắc cửi. Sau khi giới thiệu tên tuổi, nghề nghiệp, địa vị, ai cũng nghe cụ khảo: “Anh đã đọc Dân ước của Lư Thoa(1) chưa?”.
- Thưa cụ, rồi ạ.
- Thế còn Vạn pháp tinh lý, của Mạnh Đức Tư Cưu(2) ấy?
- Cũng rồi ạ.
- Anh Ninh anh ấy cũng đọc rồi đấy.
Nguyễn An Ninh đi từ Pháp về cùng chuyến tàu thủy với cụ Tây Hồ, và cũng được bạn thanh niên ưa thích. Nhưng Ninh chưa phải một thần tượng, nói thế nghe lãng xẹt thế nào. Cụ lại mắc bệnh chỉ nói chứ không thích nghe. Ai đấy muốn dứt mạch để hỏi sâu về một chỗ nào, cụ tỏ ý không vừa lòng.
Nhược bằng muốn cãi lại, thì: “Tôi không nhờ anh được cái gì cả?”. Câu ấy đã vài người “được nghe”, quen tai đến nỗi một hôm choảng nhau vặt, Liệu đem ra đối đáp lại Trừng, hai ông trẻ ôm bụng mà cười. Tuy thế họ đều thích thú khi nghe cụ chửi Khải Định và đám trí thức đã quan liêu hóa.
Thế rồi, sau khi qua mấy câu vấn đáp kể trên như một “công thức”, chúng tôi chỉ còn được kính cẩn ngồi nghe hàng giờ những điều giảng dạy của cụ về dân trí, dân quyền, dân đức và chấn hưng thực nghiệp… Thật ra, nhũng câu này nếu chúng tôi được nghe cách đây non vài mươi năm thì chắc là thú vị đấy! Nhưng chuyện mà chúng tôi muôn nghe lúc này thì lại là những chuyện thế giới sau cách mạng Tháng Mười, phong trào đấu tranh của công nhân Pháp, phong trào cách mạng đương lên ở Trung Quốc. Đã vậy, cụ cứ nói liên miên, không để chúng tôi có thì giờ tham gia ý kiên.
Cũng trong khi nói chuyện, chúng tôi hỏi thăm đến một vài danh nhân trong nước đương bôn ba hải ngoại thì theo lời cụ nói, mỗi người đều có một “bệnh nặng”. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau một cách hóm hỉnh và ghé tai nói thầm với nhau: “Còn cụ có mắc bệnh gì nặng không?”. Dẫu sao, trong câu chuyện của cụ Phan bấy giờ vẫn còn những điều làm cho chúng tôi thích thú, là mỗi khi cụ chửi Khải Định và Phạm Quỳnh. Có lần khâm sứ Pát-xki-ê từ Huế vào Sài Gòn có mời cụ Phan Văn Trưởng, chủ nhiệm báo L’ An nam lên hỏi chuyện. Cụ Phan Chu Trinh tỏ ý phàn nàn và nói với chúng tôi: Mình thì nó lại không mời lên để nói cho nó biết! Nói tóm lại, tác phong của cụ Phan Chu Trinh không làm cho một số thanh niên trong đó có tôi cảm lắm, mặc dầu vẫn tôn quý cụ.
(Hồi ký Trần Huy Liệu. NXB Khoa học xã hội, 1991)
Phan Bội Châu lại khác. Bậc tiền nhân tôn kính ấy không quá cực đoan, gân guốc. Có chủ kiến nhưng lắng nghe dịu dàng, cụ làm người tiếp chuyện cảm thấy tự tin, mạnh dạn giãi bày khúc mắc, để rồi được trao đổi, tỏ bày lại. Liệu chưa gặp Sào Nam mà đã nức nở với vế đối cụ điếu Tăng Bạt Hổ “… đã đánh bằng bút, đã đánh bằng lưỡi, đã đánh bằng óc, hầm hầm quyết đánh bằng kiếm, cờ hồng rực rỡ họ da vàng”. Từ hồi ở đảng Thanh niên rồi sang Việt Nam Quốc dân đảng, đến khi đi tù Côn Đảo, anh đã có những liên hệ khá mật thiết với cụ qua thư từ, những bạn bè, đồng chí…
Cuối năm 1928, Đảng bộ Việt Nam Quốc dân Đảng ở Nam Kỳ phân công tôi làm Kỳ bộ trưởng, tôi phái anh Tô Chấn(3) ra gặp cụ Phan và mang theo một bức thư viết tay của tôi. Lần này anh Chấn gặp cụ Phan trong một chiếc đò ở sông Hương. Theo lời anh Chấn thuật lại thì cụ có cảm tình với Việt Nam Quốc dân đảng hơn Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, mặc dầu cụ có người con rể là Vương Thúc Oánh, là một trong những yếu nhân của Đảng Thanh niên hồi ấy. Cũng theo lời anh Chấn, lúc này ngoài món tiền trợ cấp của báo Tiếng dân mỗi tháng 5 đồng ra, cụ không còn nguồn sống nào khác. Hôm gặp anh Chấn, cụ bỏ một đồng bạc ra sai cậu Đệ (con thứ hai cụ) lên chợ Đông Ba mua rượu và lòng lợn về đánh chén. Cậu Đệ mua rồi, còn tiền thừa đưa lại cho cụ, cụ đếm từng xu rồi cất cẩn thận vào trong ví. Chúng tôi nghe chuyện rất cảm động và có đề ra việc quyên tiền giúp cụ, nhưng việc chưa làm xong thì những biên cố khác đã xảy ra phải ngừng lại. Thế rồi cho đến ngày bị bắt ở tù và bị đày ra Côn Đảo, tôi vẫn chưa có dịp gặp cụ Phan Sào Nam mặc dầu đã có thư tù đi lại. (Hồi ký Trần Huy Liệu 1991, NXB Khoa học xã hội)
______________________
Chú thích:
1. Contrat social của J. J. Rousseau.
2. L’Esprit des lois của Montesquieu
3. Anh ruột Tô Hiệu, bị bắt sau vụ mưu sát toàn quyền Pasquier không thành, án khổ sai chung thân. Trở thành cộng sản ở Côn Đảo, cùng Ngô Gia Tự thả bè trốn và mất tích.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #18 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 10:08:41 pm »

Mãn hạn tù Côn Đảo năm 1934, Liệu về quê rồi lên Hà Nội viết báo. Nhân có hội chợ ở Huế, anh vào đất Đế Đô trú ở Hương Giang thư quán của Hải Triều. Chơi sông Hương nghe hò mái nhì, thăm lăng tẩm, anh đều háo hức. Tất nhiên thế nào cũng phải đến ông già Bến Ngự.
Vừa nghe xưng tên, cụ Sào Nam ôm chầm lấy anh, mừng rỡ giới thiệu với mọi người trong “nhà”.
“Nhà” có ai, toàn tù chính trị thất cơ giạt về, ngày ngày xay xay giã giã làm hàng xáo, kiếm đủ sống rất khó. Như cụ Phan, với sáu đồng trợ cấp mỗi tháng của báo Tiếng dân thì chả còn khoản nào, đãi khách phải tằn tiện lắm. Dầu vậy “nhà” rất vui, như mái ấm của một gia đình, với ông chủ hiền từ, không quá quắc thước, xét nét. Nhưng Liệu cũng thấy cụ nhìn người quá đôn hậu. Lại có dịp để so sánh với Phan Chu Trình.
Đêm đến, không khí lắng lại sau cuộc rượu tay đôi, có thêm cụ Mai Lão Bạng. Biết Liệu đã chuyển sang lập trường cộng sản, cụ Phan cũng “mừng”, và chuyển đề tài sang chủ nghĩa xã hội.
Cũng khác với những lần tiếp chuyện cụ Phan Chu Trinh, tôi được phát biểu tự do, cởi mở. Cụ cũng nói chuyện chậm rãi, thân mật! Qua câu chuyện, tôi thấy cụ Phan vẫn đứng trên lập trường dân tộc chủ nghĩa không hơn không kém: Có điều là trong nhận xét người và việc, cụ tỏ ra dễ dãi hời hợt quá. Theo cụ thì hầu hết ai cũng tốt cả, cũng yêu nước, cả đến bọn Bùi Quang Chiêu ở trong Nam lúc ấy đã ra mặt phản động rồi, cụ cũng chưa thấy hết cái xấu xa của nó. Tôi nhớ lại những tranh ảnh treo dán ở nhà cụ hồi ấy còn có cả những bức họa của tờ báo Tribune Indochinoise (Diễn đàn Đông Dương) năm trước của bọn Lập hiến Nam Kỳ đả kích Lê Quang Trinh. Tôi cũng không lạ gì sau này có lúc cụ nghe tên Phạm Tá viết bài khen thằng Chatel thống sử Bắc Kỳ. Chúng tôi hỏi cụ thì cụ nói:
“Tôi có biết gì đâu! Nghe Phạm Tá nói tốt, thì tôi “cũng tưởng là nó tốt thật”. Nói tóm lại, cụ nhìn người xét việc không sắc lắm nên dễ bị lừa bịp. Đến đây tôi lại thấy cụ Phan Tây Hồ, về nhãn quan chính trị có phần sắc hơn cụ Phan Sào Nam. (Hồi ký Trần Huy Liệu 1991, NXB Khoa học xã hội)

Chàng thanh niên thấy cụ chân thành, nhân đạo nhưng không chặt chẽ, đôi lúc đá sang không tưởng hay lối bác ái Gia tô giáo. Cụ bắt anh nghe hết cuốn sách đang viết dở về chủ nghĩa xã hội. Đến khổ.
Liệu ngã ngửa ra rằng cụ rất loạng choạng.
Bạn đọc thân mến! Nếu ai chưa có dịp gần cụ Phan thì sẽ không thể ngờ được rằng cụ Phan của chúng ta cho tới ngày ấy vẫn chưa biết chữ quốc ngữ. Tôi hỏi người thư ký của cụ thì được biết những tác phẩm của cụ bấy giờ thường do cụ viết bằng chữ nho rồi mới dịch ra quốc ngữ hay chữ nôm. Khổ cho tôi đêm ấy cứ phải ngồi nghe đọc quyển chủ nghĩa xã hội mà cụ đương viết dở hết trang này đến trang khác mà không hứng thú một chút nào. (Hồi ký Trần Huy Liệu 1991, NXB Khoa học xã hội)
Sáng ra, phờ phạc vì mất ngủ, Liệu đành thưa thật. Rằng, sách về chủ nghĩa xã hội đang bán hiện có rất nhiều, mà cũng có dăm bảy trường phái. Rằng cụ hiện ở hoàn cảnh tù giam lỏng, chật hẹp, ít được thảo luận, tưởng không nên viết về môn này. Cho nên, tốt nhất là cụ cứ viết những chuyện cách mạng cụ đã từng trải, chưa in được ngay nhưng để đấy vẫn là của vô giá. Cụ đã chả làm một “Hậu trần dật sử” kể về cuộc khởi nghĩa chống quân Minh của Trần Quỹ theo lối tiểu thuyết rất được ham đọc đấy là gì…
Đó là những điều quốc dân đang cần ở. Cụ lúc này, nhất là thanh niên.
Liệu “vận khí” nói một mạch rồi “kết luận”. “Choang” thế là tàn tệ, thậm chí bất kính chứ gì.
Tưởng ông già Bến Ngự sẽ giận, buồn. Phải tay cụ Tây Hồ mà xem… Nhưng Phan Bội Châu không để bụng, lại còn hứa “sẽ làm ngay việc lớn này”. Cụ tiễn Liệu ra ngõ rất bịn rịn, còn anh bùi ngùi nghĩ khó có dịp gặp lại ông già.
Cái ấn tượng hai cụ Phan để lại trong lòng Liệu, ngoài khí phách dân tộc lẫm liệt chung, về tác phong, sinh hoạt là khá tương phản, dù các cuộc gặp cách nhau cả chục năm. Sau này hình dung lại anh thấy hơi buồn cười với cái cảm giác cụ Quảng Nam thì nhọn hoắt, cứng cỏi, còn cụ Nghệ An nồng ấm, đôn hậu.
Năm 1926, Liệu và các bạn đã tổ chức rầm rộ đám tang Phan Chu Trinh, mười bốn vạn người đi đưa. Không hẳn gần gũi, nhưng cụ là một biểu tượng của lòng yêu nước, đáng để thanh niên đem ra mà kính phục.
Cái tình của Liệu đối với cụ Nghệ An hẳn là phải đậm đà, gần gũi hơn là với cụ Quảng Nam. Vì, như nhiều bậc hậu sinh đang tìm đường, nhiều khi chẳng tiện nói ra, anh vẫn ưa thích một bậc tiền bối có thái độ đối thoại hơn. Được nói, và được nghe nói hẳn là một cảm giác thú vị, khác hẳn với khi nghe một tiếng tăm lừng lẫy, ta tìm đến và chỉ được nghe những bài học từ con người đinh ninh chỉ có mình đúng. Huống chi, Phan Bội Châu là bậc quang minh chính đại. Đỗ đầu kỳ thi Đình, được đi đây đó, cụ tiếp thu những tư tưởng mới một cách có hệ thống chứ không “tráng men làm màu”. Xa cách hẳn lối khôn vặt khôn vãnh kiểu Trạng Quỳnh, Trạng Lợn - có người coi là một biểu hiện tâm tính Việt, cụ hành trạng đàng hoàng, phát ngôn thẳng thắn. Đúng là một nhân cách lãnh tụ, khiến một thời, ai cũng tưởng câu sấm “Nam Đàn sinh thánh…” ứng vào cụ. Sự yêu mến, thân thiết của Liệu với Phan Bội Châu khiến anh có những lúc giận cụ quá thể, mà chỉ là do nghe từ xa, lại qua những tin tức mô tả cái bên ngoài, chả lý đến tâm can người trong cuộc.
Ấy là vào năm 1939, trong cuộc du tình đến Huế của Liệu với Thu Tâm - cái cuộc mà tới tầm tuổi bảy mươi, bà ghi nhớ là là “lần thứ tư” và “cuối cùng”. Bà là Phạm Thị Bách, cô em họ của Phạm Thị Hồng, người nữ khán hộ ở Côn Đảo từ năm 1933. Như thường lệ, Liệu và Thu Tâm thường chọn những nơi xa xôi để gặp gỡ, chung sống. Tý thừa biết điều đó, nhưng dù sao cũng đỡ nặng nề hơn. “Khuất mắt trông coi” mà, dù bà có vẻ đã nhìn nhận Thu Tâm như “người em” trong nhà, đối xử phần nào ra vẻ một gia đình truyền thống ở ngoài Bắc, nơi đàn ông thường có hai ba vợ. “Lần thứ tư” diễn ra ở kinh thành, nơi sông núi hữu tình, có nhiều dinh thự, cảnh trí đáng xem, nhiều con người đáng gặp. Tâm tình lãng mạn của Thu Tâm rung động mãnh liệt trước cảnh đẹp của lăng Tự Đức, bùi ngùi khi gặp những cung phi về già mà chửa một lần được đấng quân vương phủ ơn mưa móc. Buồn cười là dù có giấy thăm đại nội của tòa Khâm sứ mà hai người phải đi lại tới ba lần. Lần thứ nhất, chú lính mặc áo dấu không cho vào vì Thu Tâm bận áo vàng, màu áo chỉ có các bà phi được mặc. Lần sau, chiếc quần xa tanh đen lại là nguyên cớ ngăn cản; trong nội chỉ được mặc quần trắng. Giận dỗi, bực tức, nhưng trí tò mò vẫn thắng, khi người đàn bà trẻ phải mặc áo tím, quần lụa đi mượn “chả ra màu gì”. Công phu thế ấy, mà ấn tượng của Thu Tâm với vẻ rực rỡ của đại nội lại chả mạnh mẽ, nếu không nói là thấy nó nhạt nhẽo.
Cả ngày lang thang nơi đình tạ, ngắm nghía, hỏi han, họ trở về nhà, mệt người nhưng rạng rỡ, hạnh phúc. Thì có điện tín. Ngoài Hà Nội, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh) bảo về gấp. Đang tần ngần thì bạn Huế đến, Hải Triều, Nguyễn Cửu Thanh và Bùi Công Trừng mang theo xâu nem, bánh tráng và chai rượu thuốc. Chuyện vui lên, Thu Tâm bảo Liệu cho đến thăm cụ Phan Bội Châu nhưng bị gạt phắt.
- Không Không đi! - Liệu nói cộc lốc. - Đi một mình cũng không được. Đã bảo rồi mà lại.
Lúc Liệu ra ngoài có việc, Thu Tâm được hay rằng thống sứ Chatel vừa đến thăm Phan Bội Châu, tặng cụ hoa, nói chuyện xã giao, khi về bắt tay từ biệt. Cụ Phan đã chìa tay đáp lại, còn rung rung mấy cái tỏ ý thân thiện. Báo Tin tức của cánh cộng sản ở ngoài Bắc thuật chuyện với tít “Phản Bội Châu” to tướng. Liệu cáu kỉnh vì chuyện đó.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #19 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 10:11:52 pm »

Sách “Những ngày xa xưa ấy” in ở Mỹ, khi Thu Tâm đã là một bà cụ, thuật tiếp câu chuyện lúc Liệu trở về:
“Sau khi gật đầu chào các bạn, anh nhìn tôi tươi cười có vẻ như làm lành và hỏi: “Em đã dọn đồ xong chưa?”.
Tôi không trả lời câu ấy mà hỏi lại anh: “Anh nghĩ thế nào về việc cụ Phan bắt tay Chatel?”.
Anh Liệu đổi ra vẻ nghiêm trang: “Còn nghĩ thế nào nữa, cụ có lỗi hẳn đi rồi”.
Tôi cũng đổi vẻ nghiêm trang thong thả nói: “Đấy không phải là một cái lỗi mà chỉ là một sơ suất thôi”.
Anh Liệu: “Em có hiểu một cái bắt tay của nhà thủ lĩnh cho cả một nước là quan trọng như thế nào không?”
“Em hiểu chứ, nhưng em còn hiểu thêm rằng phép xã giao của Tây phương khi từ biệt một người nào họ quý mến để ra về thì họ phải đưa tay ra bắt để tỏ vẻ trân trọng thân tình với người ấy. Vậy thì trong trường hợp này cũng chỉ là một cách xã giao thông thường mà cụ Phan sử dụng chớ có sao đâu”.
Anh Liệu có vẻ giận:
“Theo lời em nói thì đó là hai người bạn thường đối với nhau. Còn cụ Phan đối với Chatel thì khác hẳn. Cụ là một người tù bị quản thúc còn Chatel đại diện cho nước Pháp, một kẻ có chức có quyền đến thăm một tù nhân của mình, có thể dùng cách xã giao thông thường được chăng? Lý luận của em nông nổi lắm”
“Đã đành như anh nói là phải, nhưng trong lúc bất thần Chatel đưa tay ra thì cụ Phan làm thế nào ứng phó kịp. Nếu cụ để cho bàn tay hắn rơi xuống thì hậu quả sẽ như thế nào? Không những đến với cụ mà còn có thể đến với cả kinh thành Huế này nữa, anh có nghĩ đến điều ấy không?”
“Đã dâng trọn đời mình cho một chủ nghĩa mà mình đã chọn thì còn gì phải suy nghĩ đến bản thân mình, nếu cụ có nghĩ đến mai sau thì hậu quả cái bắt tay ấy sẽ tai hại đến thế nào không?”
Tôi sầm mặt:
“Thì đấy! Các anh em đã trả nghĩa cho cụ Phan bằng mấy tiếng “Phản Bội Châu”, một kẻ đã hy sinh suốt đời cho Tổ quốc vì một chút sơ suất mà thôi”.
“Nếu em ở địa vị cụ Phan trong lúc ấy thì em sẽ cư xử như thế nào?”
Tôi điềm nhiên trả lời:
“Nếu được tin báo trước thì em sẽ dự liệu cách ứng phó trong mọi trường hợp. Thí dụ lúc từ biệt nhưng em sẽ chắp tay ngang ngực cúi đầu một cách lễ phép để từ giã hắn theo kiểu nhà vua. Ấy là chuyện được báo trước, còn nếu bất thình lình thì cũng chưa chắc!”
Anh Liệu cười:
“Nếu vậy thì em chưa phải là người cách mạng có bản lĩnh già dặn”
Tôi cũng cười theo:
“Thì em có là đảng viên cộng sản đâu”
Tất cả chúng tôi, kể cả ba người bạn đều cười xòa, xóa tan bầu không khí vừa tranh luận tưởng như đã đến lúc gay go(1).

Đoạn trích trên cho thấy Trần Huy Liệu là người nóng nẩy, cứng cáp, và Thu Tâm cũng thật sắc sảo.
Và thêm một điều nữa: đã đứng vào hàng ngũ cộng sản, Liệu vẫn coi Phan Bội Châu là thủ lĩnh, chí ít về mặt tinh thần, nên mới có đòi hỏi khắt khe đến vậy Liệu “mọc” ra từ trong phong trào quốc gia, và dù có “trở thành” gì gì, trong thâm căn, ông vẫn là một nationaliste - người quốc gia.
Năm 1940, trong nhà tù Sơn La, Liệu nhận tin Phan Bội Châu mất. Đau xót lắm. Một sự nghiệp lớn được dẫn dắt bằng một tư tưởng có căn bản hẳn hoi, chứ không phải cách mạng lối vá víu chằng đụp. Một nhân cách phóng khoáng, hồn hậu. Một nghiệp dĩ đang vun trồng bị dở dang, phải trở thành “ông già bến Ngự” hiền lành, đến bọn hương dõng trong làng xã cũng hạch hỏi được. Trong “Niên biểu” viết những ngày bị giam lỏng, con người ấy đã chân thành biết bao khi nhận lỗi trước quốc dân đồng bào. Cái tâm sự bi đát “biển xanh chưa lấp được mà chim tinh vệ cô độc đã rã cánh” nặng trĩu đoạn cuối cuộc đời cụ.
______________________
Chú thích:
1. Hồi ký “Những ngày xa xưa ấy” của Thu Tâm. NXB Thế kỷ 11022 Acacia Parkway #A Garden Grove CA 92640 USA năm 1998.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM