Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 08:02:29 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc tháo chạy tán loạn  (Đọc 78875 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #50 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 12:17:19 am »

Hôm sau, ngày 30 tháng 3 là ngày chủ nhật, lễ phục sinh. Ở Sài Gòn, Phan Quang Đán, phó thủ tướng, chính thức báo tin: quân cộng sản đã chiếm Đà Nẵng. Ở Palm Springs, California, tổng thống Ford tuyên bố: "Việc mất thành phố này là một thảm kịch lớn". Trưa ngày 30 tháng 3, nhiều tàu lớn chạy ra vùng biển Quân khu I; tàu Nhật Bản, tàu Việt Nam, tàu Mỹ và nhiều tàu kéo khác, tất cả 20 chiếc. Trong mấy giờ, những tàu này chở hết những thuyền, sà lan, xuồng đậu gần đấy. Một buổi chiều những tàu tuần tra nhỏ của Nam Việt Nam chạy dưới làn đạn pháo binh cộng sản để cứu nhưng người tị nạn còn chờ trên bãi biển. Quân Bắc Việt Nam tiếp tục nã pháo vào thành phố nhưng không bắn vào những người tị nạn và những tàu tuần tra này. Nhờ đó, khi họ nắm quyền, họ dễ được lòng tin.
Trong khi đó, những người ở trên tàu Oseola được chuyền sang những tàu Mỹ và buổi chiều thì rời cảng Đà Nẵng. Đến đêm, nhiều tàu, sà lan, tàu kéo hợp thành một đội tàu chở tới 50 nghìn người tị nạn, vượt quá sức chở rất nhiều. Do đó đã ngừng việc cho người lên tàu. Mười hai giờ sau, những tàu chưa chạy đi Cam Ranh chỉ còn có tàu của hải quân Nam Việt Nam. Giữa sự lộn xộn ấy, đô đốc Cang đang ở Sài Gòn quên không ra lệnh cho họ rút đi. Cuối cùng là Francis lúc ấy ở trên tàu HQ-5 phải đề nghị bằng rađio với tướng Smith ở Sài Gòn nhắc Cang đã đến lúc phải cho hạm đội nhổ neo.
Có rất ít nước và thực phẩm cho các tàu chở người tị nạn. Càng không có trạm cứu thương trong trạm xá. Tất cả những khách trên tàu, dù Mỹ hay Việt Nam đều phải tự xoay sở trong chuyến đi về phía Nam. Một thầy thuốc Việt Nam đỡ bốn em bé vừa ra đời dưới một lều vải trên boong tàu USS Miller. Bốn công dân Mỹ mới. Vì các em sinh trên một tàu Mỹ chạy ở hải phận quốc tế .
Chiều ngày 31, sáu tàu Việt Nam và Mỹ lại quay lại Đà Nẵng để đón người tị nạn. Hôm sau, nhà chức trách Sài Gòn đề nghị Liên Hiệp quốc can thiệp với Bắc Việt Nam cho những người tị nạn còn ở lại trong vùng họ kiểm soát, nhận thực phẩm và viện trợ. Nhưng tại Hà Nội, ngày 24 đã báo tin, chính quyền liên hợp đã được thành lập ở Đà Nẵng. Thật ra, tướng Tấn làm chủ tịch và chịu trách nhiệm ổn định lại trật tự. Nhiều viên chức cao cấp của các ngành cảnh sát và hành chính bị bắt. Thông điệp cuối cùng thật ngộ nghĩnh của tổng thống Thiệu trong thảm kịch này là: ông ra lệnh cho tướng Trưởng chiếm một đầu cầu trên một đảo gần bờ biển Quân khu I, để chuẩn bị phản công lấy lại cả quân khu ! Trưởng được bữa cười mũi vỡ bụng. Thất bại ở Quân khu I làm chính phủ thiệt hại rất nặng. Trong số 3 triệu dân, không đầy 60 nghìn người chạy thoát, phần lớn bằng đường biển, 16 nghìn lính trốn được nhưng bốn sư đoàn trong đó có sư đoàn lính thủy đánh bộ, sư đoàn thiện chiến nhất của Trưởng, không còn là đơn vị chiến đấu nữa.
Lãnh sự quán không có thể làm gì hơn. Mấy tháng sau Francis phải nhận là trong số năm trăm người Việt Nam giúp việc không biết có bao nhiêu người tản cư được. Còn Custer công nhận là chỉ có một nửa số năm trăm nhân viên tình báo có tên trong danh sách CIA là chạy thoát với người phụ hoặc không có người phụ việc. Chính quyền Ford đổ trách nhiệm về thảm hại này là do thiếu ngân sách tài chính cho Việt Nam. Nhưng những kẻ lỗi lầm chính là những viên tướng bất lực, nhất là những tướng của Sài Gòn. Sau khi hứa với Trưởng là không rút nhanh sư đoàn dù, Thiệu đã thay đổi như chong chóng trong một đêm. Không dành cho tướng của ông ta thì giờ để tổ chức lại việc phòng thủ: ít nhất hai lần. Thiệu đã thay đổi ý kiến về việc bảo vệ Huế. Ngoài ra, ông còn từ chối không cho nhiều tư lệnh và bạn đồng minh biết dự định của mình, tình hình này không cho phép giải quyết tốt những sự kiện xảy ra. Thiệu không phải là người duy nhất tỏ ra bất lực trước cuộc khủng hoảng.
Ngay sau khi Huế thất thủ, sứ quán Mỹ cũng bất lực trong việc điều khiển các nhân viên ở vùng có chiến sự. Francis tỏ ra hết sức chậm chạp, cứ đinh ninh như đã hứa rằng: quân đội Mỹ sẽ cho máy bay lên thẳng để cứu người tị nạn. Nhất là ông ta quá tin vào sức mạnh hão huyền của quân đội Nam Việt Nam và uy tín mơ hồ của chính quyền Thiệu, những đức tính mà Martin cẩn thận giữ gìn nhằm mục đích ủng hộ chính sách Nam Việt Nam của Kissinger và bảo vệ danh dự nước Mỹ trên phần còn lại của thế giới.
Việc thất thủ Đà Nẵng khẳng định Bắc Việt Nam đã có ý chí giành thắng lợi cuối cùng trước tháng tư. Tướng Dũng nhận được lệnh mở ngay cuộc tiến công vào Sài Gòn. Một ủy viên quan trọng của Bộ Chính trị vào chiến trường để duyệt kế hoạch quân sự. Đó là ông Lê Đức Thọ, người đã ký năm 1973 với Kissinger hiệp định Paris. Lúc chúng tôi viết những trang phóng sự, những chuyện chi tiết về cuộc tản cư ở Đà Nẵng thì quân Bắc Việt Nam tiến trên khắp các mặt trận, vượt qua những vùng đang tập trung người tị nạn. Các nhà chức trách Mỹ đắn đo, tránh né, cuối cùng bỏ rơi một số quan trọng những người Việt Nam giúp việc, mặc cho số phận.
Quân đội Nam Việt Nam tan rã. Số phận bị tiêu diệt trong giai đoạn này của cuộc chiến tranh lên tới 150.000 người. Phương tiện chiến tranh bị phá hủy hay bị quân đối phương thu đáng giá một tỉ đô la. Đầu tháng 4, lúc trận cuối cùng sắp diễn ra, trong một báo cáo gửi Hoa Thịnh Đốn, tôi ước tính quân Nam Việt Nam phải đánh một chọi ba hoặc bốn. Ngày 2 tháng 4, Colby, tổng giám đốc CIA, phải tự viết trong một báo cáo dành cho giới cao cấp nhất ở Hoa Thịnh Đốn: "Cán cân lực lượng ở Nam Việt Nam nghiêng rõ về phía cộng sản. Bạc nhược, thất bại chủ nghĩa đã hoành hành trong quân đội của Thiệu". Ngày 3 tháng 4 trong một báo cáo mới: "Chúng tôi nghĩ rằng trong mấy tháng nữa, nếu không là mấy tuần nữa, Sài Gòn sẽ sụp đổ về mặt quân sự hay là một chính phủ mới sẽ được thành lập, chính phủ này sẽ chấp nhận giải pháp theo điều kiện của cộng sản".
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #51 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 03:11:52 pm »

Phần Ba  :   SỤP ĐỔ

TRÁCH NHIỆM ĐẦU TIÊN


Trong khi Nam Việt Nam tơi tả như áo rách thì Campuchia đi vào sụp đổ. Ngày Đà Nẵng thất thủ, sứ quán Phôm Pênh báo tin tổng thống Lon Nol sắp đi "thăm hữu nghị" Indonesia và Hoa Kỳ. Bốn ngày sau, tổng thống Campuchia rũ rượi và nửa tê liệt lên một máy bay vận tải Mỹ và bay đi Thái Lan, chặng đầu của chuyến đi. Ông ta không bao giờ trở về nhà. Giờ sau đó, pháo binh cộng sản điều khiển súng, bắn vào trung tâm Phnôm Pênh, như họ muốn báo cho người Mỹ và người nước ngoài ở khu vực các sứ quán biết rằng đã đến lúc phải rút đi. Chập tối, vị trí tiền tiêu cuối cùng của chính phủ trên sông Cửu Long phía Đông Nam thủ đô, bị tiêu diệt và mười nghìn quân Khmer đỏ tiến về phía Bắc, tiếp cận với 30 nghìn đồng đội đã tỏa ra chung quanh Phnôm Pênh có quân chính phủ số lượng chỉ bằng một nửa, bảo vệ. Sau hơn một năm phản đối, cuối cùng Kissinger đã đồng ý với thỏa hiệp chính trị do Martin, đại sứ Dean và người Pháp dự tính từ lâu. Hoa Kỳ đồng ý cho Norodom Sihanouk trở về để bắc một cái cầu giữa những người quốc gia ở Phnôm Pênh và quân Khmer đỏ trong rừng.
Trong khi đó, một bi kịch diễn ra ở Sài Gòn. Cuối tháng 3 tướng Weyand và Graham Martin nghĩ nát óc để cố cứu Nam Việt Nam. Số phận mỉa mai, lúc họ trở lại Sài Gòn thì cũng là lúc Quân khu I và Quân khu II sụp đổ. Họ có biết bao nhiêu việc phải tìm hiểu mà thì giờ chỉ có hạn, họ không thấy rằng giờ cáo chung đã đến gần.
Ở sứ quán, hai phái đối lập nhau. Một bên là CIA và phái bộ quân sự, lần đầu tiên, thống nhất nhận định rằng tình hình quân sự đã bi đát. Một bên, đại diện là Lehmann và nhiều quan chức cao cấp bộ ngoại giao to tiếng bác bỏ tư tưởng thất bại chủ nghĩa ấy. Họ ủng hộ nhận định: có thêm một ít vũ khí, đạn dược, quân Nam Việt Nam có thể bảo vệ được nữa phía Nam của nước này và đi đến cuộc đàm phán "công bằng" với Hà Nội. Đúng là âm vang luận thuyết thất vọng của Martin.
Đúng lúc ông rời Hoa Thịnh Đốn, Weyand đã biết rằng Nam Việt Nam đang nguy to. Nhưng tính chất nhiệm vụ của ông không cho phép ông có sự bi quan đến thế. Ông được cử đến Sài Gòn đề tìm giải pháp không phải là không thực hiện được. Ông cũng không phải là một nhà quan sát hoàn toàn khách quan. Chẳng phải ông là vị tổng tư lệnh cuối cùng ở Nam Việt Nam cho đến ngày thực hiện chính sách Việt Nam hóa và ngày ngừng bắn đó sao ? Cũng như Kissinger, ông nghĩ rằng Hoa Kỳ có nghĩa vụ tinh thần giúp Nam Việt Nam đứng được cho đến phút chót, vũ khí trong tay.
Giới thân cận Weyand bị lệ thuộc vào những cam kết trước kia. Erich Von Marbod, người chịu trách nhiệm về chính sách tài chính của Lầu Năm Góc đối với Nam Việt Nam từ ngày ngừng bắn, muốn chính sách ấy được thực hiện. George Carver, nhân viên CIA được Kissinger coi là chuyên gia chính về Việt Nam, không được chuẩn bị tư tưởng để chấp nhận rằng những chương trình của Mỹ như "xây dựng đất nước hay “bình định nông thôn", lại không đi đến đâu. Đồng nghiệp của ông, Ted Shackley có những lý lẽ riêng để mong muốn sự sống còn của Thiệu. Là giám đốc chi nhánh CIA ở Sài Gòn cuối những năm 60 và đầu những năm 70, và từ một năm nay là giám đốc CIA ở cả khu vực Viễn Đông, ông đã bỏ nhiều công sức để làm cho chế độ Thiệu được như ngày nay.
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #52 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 03:21:23 pm »

Đi vắng nhiều tuần qua, Martin đã lạc hậu với những sự việc vừa xảy ra và dù sao ông cũng không sẵn sàng chấp nhận những điều dự tính buồn thảm của CIA và phái bộ quân sự ở Sài Gòn. Không nên quên, ông đã mất một người con ở Việt Nam và từ 18 tháng nay, ông bỏ tất cả uy tín của mình ra đề phục vụ chế độ Thiệu. Ngoài ra, quyết định của Kissinger cử tướng Weyand đến điều tra tại chỗ là một thách thức đối với năng lực và quyền hạn của đại sứ. Martin phải tỏ rõ ông có lý để tin vào việc đứng lên được của chế độ Sài Gòn. Dù chỉ là để ngăn cán ông tướng dẫm chân lên địa hạt của ông.
Những cuộc đấu tranh kiên trì bắt đầu từ lúc máy bay chở Weyand hạ cánh ở sân bay Tân Sơn Nhất. Lúc ông tướng và những người thân cận chuẩn bị xuống máy bay, Martin đòi xuống đầu tiên để những quan chức Việt Nam ra đón ông ở chân cầu thang. Điều đó làm cho họ không nghi ngờ gì về vai trò của ông, vẫn là người đại diện tổng thống Hoa Kỳ ở đây. Khi Martin về tới sứ quán, theo lệnh của Polgar, tôi đến báo cáo tóm tắt tình hình cho ông ta nghe. Tôi vào phòng ông làm việc, đem theo sơ đồ và bản đồ hành quân, nói với ông: ”Thưa  ông, ông Polgar bảo tôi đến trình bày tình hình với ông”. Martin khẽ gật đầu, gọi George Carver đang ngồi ở phòng bên sang cùng nghe.
Martin có nghệ thuật làm điên đầu mọi nhân viên dưới quyền đến báo cáo. Lúc nào cũng sẵn sàng cắt ngang, chữa lại và thậm chí làm nhục nếu cần. Do đó, ông không chuẩn bị chấp nhận bản báo cáo xám xịt của tôi, nhất là lại có George Carver ngồi cạnh. Bản báo cáo làm ngày nào ? Nguồn tin ở đâu ? Ông luôn luôn hỏi như vậy. Làm sao anh chắc được rằng tướng này, tướng nọ không nắm được quân ?
Sau một giờ, tôi mệt lả, chịu thua. Carver sau này an ủi tôi rằng tôi đã thuyết phục được Martin. Anh đã lầm. Cho đến giữa tháng tư, Martin vẫn tin rằng các lõm ở Sài Gòn có thể bảo vệ được. Không riêng gì Polgar và tôi thấy Martin xa lạ với tình hình. Bấy giờ sau khi rời tàu HQ-5, Al Francis, mặt gầy, mắt dại, râu đen kịt, đến sứ quán đề tường trình với đại sứ cuộc rút lui thảm bại ở Đà Nẵng. Ông vừa ngồi xuống ghế dài kê ở góc phòng Martin, vừa nói: "Thưa đại sứ, Đà Nẵng đã mất rồi. Đạo quân của tướng Trưởng không còn nữa . Martin tủm tỉm cười và lắc đầu. Chả là ông vừa được biết kế hoạch của Thiệu định đánh chiếm lại Quân khu I. Ông chưa sẵn sàng chịu tang cái chết của Đà Nẵng. Ông nói trầm rất khó nghe: "Không, Quân khu I sẽ không mất. Những nguồn tin của tôi khẳng định như vậy.
Thái độ dịu dàng và nhã nhặn, tự tin ấy làm cho Francis thoát khỏi sự dè dặt hàng ngày. Ông kêu lên: "Nhưng, thưa đại sứ, tôi vừa ở trên tàu hàng ngày trời với bọn tàn quân của Trưởng. Quân khu I đã thất thủ, tôi cam đoan với ngài như thế”. Martin ngồi yên một lúc, không nói gì. Ông đổi hướng nói chuyện, hỏi thăm sức khỏe của Francis trước khi tiễn Francis ra cửa phòng làm việc.
Từ đó, Francis không còn là đứa con cưng nữa. Tỏ sự bất đồng của mình với người đỡ đầu, trong lúc bối rối này, Francis đã mất quyền được ưu tiên cộng tác với đại sứ. Sau đó, Francis phải ngồi làm việc ở một phòng nhỏ gần cửa ra vào, không được phép vào phòng Martin nữa.
Trong tám ngày bận rộn túi bụi làm việc với Weyand, nhiều chuyên gia của Hoa Thịnh Đốn ngồi lý ở sứ quán, kiểm tra lại những tin tức mà ông tướng nhận được. Trong số các chuyên gia này có hai người là bạn thân lâu ngày của tôi: Dick Moose và Chuck Miessner, là đại diện ủy ban đối ngoại thượng nghị viện. Đó là những con người liêm khiết, có học. Tôi quyết định làm mọi việc để giúp họ. Tôi có may mắn gặp ngay họ lúc mới đến. Câu nói mở đầu làm họ chú ý. Tôi nói: "Tình hình quân sự không thể đảo ngược được. Quân Nam Việt Nam sẽ thua trận quyết định trong những tuần tới, nếu quân Mỹ không nhảy vào ! Phần còn lại sẽ nói sau”. Miessner cảm ơn về sự thành thật của tôi và cho tôi biết anh và Moose sẽ gặp tôi trước khi trở về Hoa Thịnh Đốn. Đó là mở đầu sự cộng tác của chúng tôi, sự cộng tác mà một tuần rưỡi sau, có những ảnh hưởng đến thái độ của quốc hội về cuộc khủng hoảng ở Việt Nam, đến kết luận của cuộc điều tra của Weyand. Từ lúc đặt chân lên đất Sài Gòn, Weyand dành tất cả nghị lực ra để tìm một chiến thuật mới để có thể cứu Nam Việt Nam.
Ảnh: Frederick Weyand, tư lệnh cuối cùng của MACV
« Sửa lần cuối: 28 Tháng Chín, 2010, 03:32:38 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #53 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 03:23:59 pm »

Một thay đổi về "chiến lược cố thủ” của Thiệu. Thoạt đầu, Thiệu định đặt phòng tuyến bảo vệ Sài Gòn từ Tây Ninh ở phía Tây đến Nha Trang ở bờ biển. Nhưng nay, do quân thù đã thâm nhập quá sâu vào phía Nam Quân khu II, nhất thiết phải thay đổi phòng tuyến ấy. Weyand đề nghị phòng tuyến mới chạy từ thị xã Phan Rang, bên bờ biển, đến Xuân Lộc. Vì không còn giải pháp nào nên Thiệu chấp nhận ngay ý kiến ấy. Ông ta chỉ yêu cầu Mỹ một việc: cho máy bay B-52 đến tham gia việc bảo vệ Sài Gòn. Lấy làm lạ về việc Thiệu còn ảo tưởng có thể nhờ vào những trận ném bom của Mỹ, Von Marbod giải thích cho ông ta rõ không thể được. Nhưng để an ủi Thiệu, Marbod sẽ gửi cho quân Nam Việt Nam một số phương tiện, vũ khí có hiệu lực cho không quân.
Biện pháp đầu tiên của Thiệu là đặt Phan Rang dưới quyền kiểm soát của tướng Toàn, tư lệnh Quân khu III. Toàn lại ra lệnh cho người bạn cũ là tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, nguyên tư lệnh Quân khu IV (bị thải hồi mùa Thu trước vì tham nhũng) thiết lập ở Phan Rang một sở chỉ huy tiền phương với một phần sư đoàn dù. Tiếp đó phải thu thập tàn quân những sư đoàn đã bị đánh tơi bời ở Quân khu I và Quân khu II. Tổ chức này rất ô hợp không thể chống lại đối phương. Việc chuyên chở thiết bị quân sự gặp nhiều khó khăn. Phải nhờ phái bộ quân sự Mỹ mới thực hiện được. Nhưng việc đó sẽ bị Bắc Việt Nam tô cáo là Mỹ lại vi phạm lệnh ngừng bắn vì đã cho cố vấn quân sự đến giúp quân Nam Việt Nam.
Tướng Weyand cũng đòi phải thay đổi chính phủ. Không phải là bỏ Thiệu (như cộng sản đòi) nhưng phải mở rộng nội các để có thể đại điện cho nhiều xu hướng chính trị trong trường hợp có đàm phán với cộng sản. Sau đó, vào ngày thứ hai hay thứ ba, họ ở Sài Gòn. Shackley và Carver đến dinh tổng thống để thăm dò phản ứng của thủ tướng Khiêm về ý kiến trên. Cũng như mọi lần, Khiêm hoan nghênh những đề nghị của Hoa Kỳ. Ông ta nhận sẽ gây ảnh hướng với Thiệu. Nếu tổng thống phản đối, Khiêm sẽ dọa từ chức để buộc Thiệu phải chấp nhận. Trong lúc đó, phong trào đối lập ở trong nước phát triển. Một ngày sau cuộc tản cư ở Nha Trang, thượng nghị viện Nam Việt Nam nhất trí thông qua một kiến nghị đòi thay đổi thủ tướng chính phủ. Nguyễn Cao Kỳ, nói đến cuộc đảo chính và mong giới quân sự ủng hộ.
Trưa ngày 2 tháng 4, Kỳ gặp Viên, tổng tham mưu trưởng, Viên xin nghĩ hai ngày, sẽ trả lời. Ngay chiều hôm ấy, Viên báo cho thủ tướng Khiêm và đề nghị Khiêm thăm dò người Mỹ xem có phải Hoa Thịnh Đốn đứng đằng sau âm mưu của Kỳ không. Trong giờ sau Khiêm hỏi Polgar. Polgar trả lời không úp mở. Người Mỹ không ủng hộ một cuộc đảo chính do Kỳ và bạn bè ông ta tiến hành vì không có ai trong bọn họ có đủ tính ôn hòa hay trung lập để có thể thương lượng với cộng sản.
Trong lúc này, Thiệu nghe nói âm mưu của Kỳ. Để đề phòng, ông ta quyết định thay đổi chính phủ. Thiệu rất giận Khiêm, nghĩ Khiêm biết nhiều về âm mưu đảo chính mà không cho Thiệu biết. Do đó, chiều ngày 3 tháng 4, khi Khiêm xin từ chức Thiệu chấp nhận ngay. Hôm sau Thiệu báo tin trên đài vô tuyến truyền hình việc thay đổi chính phủ. Nguyễn Bá Cẩn, chủ tịch quốc hội kiêm thủ tướng chính phủ "chiến đấu và đoàn kết dân tộc".
Các giới chính trị ở Sài Gòn thờ ơ với những thay đổi ấy vì Thiệu tiếp tục cầm quyền. Đại sứ Martin thì bằng lòng, tin rằng chính phủ mới sẽ giúp Thiệu tập hợp được chung quanh ông ta toàn thể nước này. Còn Polgar không phải là không đồng ý vì một trong những bộ trưởng quan trọng nhất, từ lâu, là nhân viên CIA.
Phần lớn đồng nghiệp của tôi tưởng rằng những sự thay đổi ấy sẽ có thể cứu được Nam Việt Nam và thuận lợi cho cuộc đàm phán công bằng với cộng sản. Ngày 1 tháng 4, tôi quyết định kiểm tra lại luận điểm ấy qua một thông tín viên rất tin cậy. Theo anh ta, không có gì ngăn cản Hà Nội tìm cách giành thắng lợi hoàn toàn.
Buổi trưa, Shackel, Polgar và phó của ông, John Pittman cùng chúng tôi ăn cơm. Trước những con tôm hùm và rau xà lách, tôi nhắc lại ý kiến của thông tín viên. Shackley bực mình bảo tôi thảo ngay một bản tường trình cuộc nói chuyện để ông đưa đến cho Weyand. Polgar tỏ vẻ nghi ngờ hơn. Ông không tin rằng cộng sản lại muốn phá hủy tất cả trong khi đó họ có thể thương lượng giành thắng lợi mà không đổ máu. Luận điểm của Polgar gây ảnh hưởng sâu sắc đến chính sách của Hoa Kỳ trong những tuần sau. Lạ lùng là luận điểm ấy không phải xuất phát từ hy vọng hão huyền của Nam Việt Nam, mà trái lại. Việc rút chạy khỏi Nha Trang sẽ làm cho Polgar khẳng định rằng không còn cách nào để khôi phục lại tình hình quân sự. Như thế phải cố gắng ngay để đi đến một sự thỏa thuận với cộng sản với bất cứ điều kiện nào. Ông quá tin vào giải pháp này và không hề nghĩ rằng ngay cả giải pháp ấy cũng không thể thực hiện được.
Ảnh: Trụ sở ban đầu của MACV ở 137 Pasteur, Sài Gòn, 1962
« Sửa lần cuối: 28 Tháng Chín, 2010, 03:47:14 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #54 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 03:24:54 pm »

Ngoài tình hình quân sự, một yếu tố khách quan làm cho Polgar càng tin rằng thương lượng là con đường duy nhất. Đó là sự lo sợ gần như chắc chắn về một cuộc trả thù của dân chúng đối với kiều dân Mỹ ở Sài Gòn. Nếu cuộc tản cư những người Mỹ trở nên cần thiết thì quân dội và dân chúng Nam Việt Nam có đứng dậy chống lại họ không.
Ngày 3 tháng  4 Polgar nhận được câu trả lời đáng lo ngại câu hỏi của ông. Sĩ quan Nam Việt Nam định bắt người Mỹ ở Sài Gòn làm con tin, để bảo đảm sự an ninh của họ trong trường hợp quân cộng sản chiếm thành phố. Cho rằng Thiệu không phải là người có thể tiến hành tốt cuộc đàm phán với cộng sản. Polgar quyết định đặt Hoa Thịnh Đốn trước trách nhiệm của mình và không hỏi ý kiến đại sứ, Polgar bảo tôi giúp ông làm một bản báo cáo theo hướng đó. Trong hai giờ, chúng tôi soạn xong mọt tài liệu, chưa bao giờ lọt ra ngoài sứ quán kể từ ngày ngừng bắn và có lẽ mãi mãi cũng không như thế. Chúng tôi viết: "Sự tồn tại của Thiệu được tính từng ngày. Thiệu mất lòng tin của phần lớn sĩ quan. Rất có thể có cuộc đảo chính chống lại ông ta sắp xảy ra, chưa biết chừng". Chúng tôi không xin phép thay Thiệu. Chúng tôi chỉ phát hiện có những lực lượng thuận lợi cho cuộc thương lượng và sẵn sàng chống lại Thiệu. Tiếp theo là "việc phân tích ý đồ quân sự của Hà Nội để củng cố cho lý lẽ đòi Thiệu phải rút lui. "Chúng tôi nghĩ rằng quân Bắc Việt Nam không định giành thắng lợi quân sự hoàn toàn. Họ bao vây Sài Gòn. Họ phá hủy tiềm năng quân sự của Nam Việt Nam rồi đàm phán. Điều kiện của họ ? Đó là việc đi đến một chính phủ liên hiệp nghiêng về phía cộng sản - cái cầu bật lý tưởng nhảy đến thống nhất, theo con mắt của Hà Nội".
Tóm lại, Polgar và tôi đưa ra nhận định rằng Hà Nội chú trọng giành thắng lợi qua đàm phán chứ không phải giành thắng lợi hoàn toàn bằng quân sự. Đó rõ ràng là một nhận đinh đầu cơ, ngược hẳn lại với tin tức tôi nhận được hôm trước của thông tín viên. Nhưng Polgar quyết định đi đến cùng. Ông cho là nếu chính phủ biết rõ ý đồ thực sự muốn thương lượng của Hà Nội thì chính phủ sẽ cho phép thay Thiệu, cho phép mở cuộc đàm phán với cộng sản và có nhiều biện pháp triệt để khác để tránh cho Sài Gòn mọi sự uy hiếp đang đè lên thành phố này. Tôi nhắc cho Polgar biết là những kết luận của ông trái với tin tức của thông tín viên gửi cho tôi là Hà Nội muốn đổ máu !
Nhưng Polgar vẫn giữ ý kiến: Bắc Việt Nam nghiêng về đàm phán. Một thắng lợi do đàm phán có lợi nhiều cho họ hơn. Sau khi đọc lại lần cuối cùng bản báo cáo, Polgar viết thêm một câu ngắn bằng bút chì: Những khía cạnh tích cực của một giải pháp chính trị không cho phép chúng ta được quên một trong những trách nhiệm chính của chính phủ Hoa Kỳ. Đó là việc tản cư trong trật tự kiều dân Mỹ và hằng nghìn người Việt Nam đã sẵn sàng hy sinh tính mạng bên cạnh chúng ta, đã tin tưởng vào những lời hứa hẹn của chúng ta và chữ ký của chúng ta dưới hiệp định Paris. Tiếp đó, ông ký vào bức điện và gửi thẳng đi Hoa Thịnh Đốn. Bức điện có hiệu lực.
Ngày 4 tháng 4, CIA và các bộ ngoại giao, quốc phòng tuyên bố chung trong một thông báo. Trong khi một cuộc tiến công quân sự nhanh chóng và quyết định có lẽ đang diễn ra, chúng tôi lại nghĩ rằng Hà Nội có thể chọn một con đường đỡ tốn kém hơn và cao giá hơn về mặt chính trị, hơn là tính đến sự sụp đổ sắp tới của Nam Việt Nam. Nhưng vấn đề quan trọng nhất - việc Thiệu ra đi mà Polgar cố làm cho đồng nghiệp hiểu, bị rơi tõm như câu chuyện nói với người điếc. Hai ngày Sau, Colby, giám đốc CIA gửi cho chúng tôi một điện tối mật. Ông nói rõ rằng chi nhánh Sài Gòn không được làm gì để gây cho Thiệu đổ. Những chỉ thị ấy không nói gì đến cuộc đảo chính vì Colby không bình luận gì về vấn đề này, nhưng đề cập đến những xáo trộn chính trị ở Hoa Kỳ và ở nước ngoài, nếu một lần nữa, người ta lại khám phá ra việc CIA, nhúng tay vào việc lật đố chính phủ. Colby viết: đó sẽ là một thảm họa đối với Hiến pháp và Nhà nước nếu chúng ta nhận được một bản báo cáo nào đó về sự kiện ấy". Ông nói rõ: "Đối với con mắt các nhà chính trị Sài Gòn, chi nhánh phải tỏ rõ là cơ quan bảo vệ đời sống và giữ gìn hiện trạng". Ông kết luận: “Nếu sự việc rắc rối, công việc của các anh là làm cố vấn. Còn tôi, tôi sẽ thu xếp mọi mặt để Thiệu và gia đình ông ta có thể yên ổn thoát khỏi và đến nơi mới tốt đẹp”.
Huấn thị của Colby làm cho Polgar hết sức thất vọng. Những điều căn dặn ấy có nghĩa là nếu chính phủ Sài Gòn thay đổi theo con đường hợp pháp như hiến pháp Nam Việt Nam qui định. Từ nay đến ngày ấy, giải pháp thương lượng hay cuộc đàm phán cũng không thể có được.
Ảnh: Lối vào trụ sở MACV, địa điểm đặt trụ sở đầu tiên, Sài Gòn, 1962
« Sửa lần cuối: 28 Tháng Chín, 2010, 03:57:25 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #55 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 03:27:06 pm »

THẢM KỊCH GIỮA TRỜI

 Tháng 4 năm 1975. Tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh. Ở sứ quán Sài Gòn, chưa có một kế hoạch tản cư đầy đủ sát thực tế, mà là một kế hoạch tản cư làm sẵn hàng loạt từ trước đã phân phát cho tất cả các cơ quan ngoại giao Mỹ trên thế giới. Đại sứ Martin không muốn làm một kế hoạch riêng cho Sài Gòn và Việt Nam, sợ việc đó sẽ bị coi là thiếu lòng tin vào tương lai và làm giảm sút tinh thần người Việt Nam. Trong các cơ quan của sứ quán, mỗi bộ phận chuẩn bị riêng, bí mật được đến đâu hay đến đó. Một kế hoạch tản cư cho mình. Người ta giấu nhẹm, ngay cả đồng nghiệp và người quen biết, cả với Hoa Thịnh Đốn, Honolulu, Bangkok và Manila. Nhưng không ai chấp nhận hoàn toàn thảm họa cuối cùng sắp tới. Những bài học rút ra từ những sự kiện bi thảm khi thất thủ Đà Nẵng và Nha Trang, không được ai nhớ cả.
Nhưng những con số còn kia. Tổng số người Mỹ, cả quân nhân và dân thường còn sáu nghìn người. Nhân viên người Việt Nam làm việc trong các cơ quan khác nhau do sứ quán chịu trách nhiệm lên đến 17.000 người. Cộng với gia đình họ (mỗi gia đình mười người) là 170.000 người. Còn phải cộng thêm 93.000 người Việt Nam cộng tác lúc trước với người Mỹ và gia đình họ, như vậy là 930.000 người. Tổng cộng hơn một triệu người tị nạn phải đưa đi Một nhiệm vụ hết sức nặng nề nếu so sánh với cuộc di tản năm 1954 sau chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất: Phải hơn ba tháng mới chớ hết 80 vạn người. Ở Chi nhánh CIA, bắt đầu nghiên cứu khả năng sử dụng người tị nạn sắp rời Việt Nam để làm tình báo sau này. Những người này sẽ hợp thành những mạng lưới tình báo sống trà trộn với nhân dân sau khi Việt Nam bị cộng sản chiếm đóng. Một tổ chức người tị nạn sẽ được thành lập ở Bangkok nhằm mục đích đó, theo mẫu tổ chức của CIA đã thành lập cho những người di cư ở Đông Âu.
Ngay ở Việt Nam, một quan chức CIA phụ trách phản gián cho rằng phải xây dựng tức thì một mạng lưới tại chỗ để cung cấp cho CIA tin tức về hoạt động của chế độ cộng sản. Ở Sài Gòn, tình cảnh bi đát của những người tị nạn sống chen chúc trong trại đón tiếp hay trong những nhà ổ chuột ở ngoại ô bắt đầu làm cho Martin suy nghĩ. Thảm kịch này có thể làm nổ ra những hoạt động chính trị sôi nổi.
Trước đây, Graham Martin là đại diện bộ ngoại giao bên cạnh ủy ban tị nạn của Liên Hiệp Quốc. Ông biết rõ sự thất vọng của những kẻ phải lìa bỏ quê hương. Giám đốc hãng Hàng không thế giới Ed Daly khuyên ông nên làm một việc gì đó đối với người tị nạn. Daly, đã không tiếc tiền để tản cư những người tị nạn ở Đà Nẵng.
Nhiều ngày qua, xúc động trước những đau khổ diễn ra trước mắt, ông đang tìm cách tổ chức một cầu hàng không để chở những đứa trẻ mồ côi Việt Nam sang Hoa Kỳ. Được tin ấy, Martin xin phép ngay Nhà Trắng tổ chức những chuyến bay như thế. Như trong thư gửi cho bộ trưởng Nam Việt Nam phụ trách vấn đề tị nạn, ông mong rằng cái cảnh hàng trăm em bé Việt Nam được người Mỹ nhận nuôi sẽ gây được cảm tình của toàn thế giới đối với người Nam Việt Nam.
Nhà Trắng bật đèn xanh. Và ngày 2 tháng 4, những viên chức chi nhánh cơ quan CIA báo tin mở cầu hàng không trẻ em, một công việc "cứu giúp từ thiện" để hai nghìn em bé Việt Nam trở thành con nuôi ở Hoa Kỳ. Việc này đã được một luật mới về nhập cư cho phép. Về mặt nào đó, cầu hàng không Trẻ em là một mưu đồ. Trong số những em được hưởng, rất ít em là người tị nạn. Phần lớn là những trẻ em sống buồn tủi hàng năm nay trong trại mồ côi ở Sài Gòn và chưa hề bị cuộc tiến công của cộng sản đe dọa. Nhưng sứ quán không đếm xỉa gì đến chi tiết nhỏ nhặt ấy. Công việc này tốt, nó được tiến hành đúng hướng.
Tướng Smith, tùy viên quân sự tỏ ra đặc biệt vui. Vì ông hiểu nhanh rằng ông sẽ có lợi như thế nào trong việc tản cư trẻ em mồ côi. Đó là một dịp rất tốt để cho về Hoa Kỳ một số đông nhân viên của phái bộ quân sự sẽ cải trang đóng giả làm nữ y tá, người giặt giũ. Chỉ sau mấy giờ Hoa Thịnh Đốn chấp nhận, ông đã ra lệnh cho các bà vợ, các nữ thư ký chuẩn bị lên đường.
Trong khi đó, chiến tranh đến cửa ngõ Sài Gòn như một làn  sóng. Trong những ngày đầu tháng tư, ba sư đoàn Bắc Việt Nam đã thâm nhập sâu vào tỉnh Tây Ninh, giữ đường tiến về thủ đô ở phía Nam. Ngày 3 tháng 4, sư đoàn 341 Bắc Việt Nam, đánh chiếm Chơn Thành, cách Sài Gòn 70 kilômet về phía Bắc. Vị trí tiền tiêu cuối cùng của quân đội Sài Gòn ở vùng này. Khi tin ấy về tới thủ đô, kiều dân phương Tây nóng lòng muốn đi du lịch ngay. Chỉ một đêm, số người giữ chỗ trên chuyến máy bay quốc tế, một tuần hai kỳ, của hãng Pan Am tăng gấp hai lần. Hãng hàng không China Airline không còn chỗ cho đến ngày 9 tháng 4. Phần lớn sáu trăm người trong ủy ban kiểm soát, giám sát quốc tế chuẩn bị hành lý.
Ảnh: Trụ sở MACV năm 1969 trong sân bay Tân Sơn Nhất, vẫn gọi là "Lầu Năm Góc Phương Đông", sau 28-1-1973 là trụ sở DAO
« Sửa lần cuối: 28 Tháng Chín, 2010, 03:56:46 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #56 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 09:10:19 pm »

Đại sứ Martin tìm cách ổn định tình hình này. Ông nói với một nhà báo ngày 3 tháng 4: "Sài Gòn không có gì nguy hiểm". Nhưng nhận định của ông đã làm nhiều người Sài Gòn và nhiều người Mỹ tức giận. Các cơ quan tình báo của bộ tổng tư lệnh của đô đốc Gayler ở Honolulu, cùng ngày ấy đã gửi điện cho Lầu Năm góc, phủ nhận những ý kiến của Martin cho rằng Sài Gòn và vùng phụ cận có thể bảo vệ được. Ở Hoa Thịnh Đốn, các viên chức bộ ngoại giao tuy nhiên, cũng đã đòi có một chương trình rộng lớn tản cư để cứu ít nhất khoảng hai trăm nghìn người Việt Nam. Sau khi Nha Trang thất thủ, họ đạt được nhượng bộ đầu tiên: thành lập một lực lượng “can thiệp" để điều hòa các kế hoạch tản cư những cơ quan thuộc bộ. Về phía mình, Nhà Trắng tránh bất cứ bình luận trực tiếp nào về cuộc khủng hoảng Đông Dương. Nhưng những trận tiến công mở rộng.
Ngày 3 tháng 4, tổng thống Ford đang nghỉ hè ở Palm Springs. Không im tiếng nữa, ông tuyên bố với các nhà báo: Thiệu vội vàng rút lui khỏi Tây Nguyên nên việc tản cư sáu nghìn người Mỹ ở Việt Nam đã được đề ra. Nói đến một trong những vấn đề hắc búa, ông cũng giải thích rằng, theo sự hiểu biết của ông về đạo luật qui định quyền hạn của tổng thống trong chiến  tranh, ông được phép dùng lực lượng vữ trang để giúp vào việc tản cư công dân Mỹ ở bất cứ vùng nào trên thế giới. Những ý kiến của ông về điểm này không có cơ sở. Thật vậy, ngoài tình hình bi đát ở vùng phụ cận Sài Gòn, chính phủ còn phải lo đối phó với thảm họa sắp xảy ra ở Campuchia.
Tình hình quân sự ở Phnôm Pênh tồi tệ hết mức trong những ngày qua. Nhà Trắng cuối cùng đã phải quyết định bắt đầu tản cư kiều dân Mỹ ở đây. Sáng ngày 4 tháng 4, đại sứ Dean họp tất cá các nhân viên thông báo quyết định này. Ông nói: cuộc tản cư tất cả những người Mỹ ở Campuchia hai ngày nữa bắt đầu. Quyết định ấy, đối với Dean, là một thắng lợi riêng của ông. Bởi vì đã nhiều ngày qua, ông đề nghị Hoa Thịnh Đốn không được hy sinh tính mạng người Mỹ, trong khi đó những cuộc bàn cãi về một thỏa hiệp chính trị vẩn tiếp diễn. Nhưng ông không nhận được ngay sự thỏa thuận. Mấy giờ sau, Hoa Thịnh Đốn ra lệnh cho ông hoãn cuộc tản cư cuối cùng. Đến phút chót, Kissinger mới quyết định sự có mặt của người Mỹ ở Phnôm Pênh là cần thiết. Nó giữ vai trò thăng bằng trong khi Kissinger cố thương lượng một thỏa hiệp với Sihanouk và những kẻ bảo trợ ông ta là người Trung Quốc.
Trưa ngày 4 tháng 4, chung quanh những ngôi nhà của phái bộ quân sự Mỹ ở Sài Gòn, có một sự náo nhiệt đặc biệt. Nhiều thợ mộc và thợ khác đã hạ cánh cửa, để chuẩn bị cho một trung tâm tiếp đón người tị nạn. Buổi sáng hôm ấy, một chiếc Galaxy C-5A của không quân, máy bay vận tải lớn nhất thế giới hạ cánh. Đó là máy bay chở vật liệu chiến tranh cho quân đội Sài Gòn. Trong khi người ta chở hàng, nhân viên phái bộ quân sự tập hợp 243 trẻ mồ côi. Các em được máy bay này chở ngay đi Philippines cùng với 44 nhân viên phái bộ quân sự và một số người Mỹ khác. Đó là chuyến bay đầu tiên của cầu hàng  không Trẻ em. Việc xảy ra mấy giờ sau đó, in sâu mãi mãi vào trí nhớ những người được chứng kiến chuyến bay này. Chiếc phi cơ vận tải khổng lồ C-5A chở 243 trẻ em và một số người lớn, rời Sài Gòn, đang bay ra bờ biển, chợt người lái trông thấy ánh sáng đỏ nhấp nháy trên bảng, báo hiệu một cửa bị hỏng. Anh báo tin cho trạm kiểm soát sân bay, máy bay sẽ quay lại. Nó đang hạ xuống cánh đường băng, một tiếng nổ vang dội. Một phần máy bay bị phá hủy, làm cho ca bin bên trong thiếu không khí. Phần lớn 50 trẻ em và người lớn ngồi trong đó chết ngay vì ngạt thở, một số bị bật tung ra ngoài, qua cửa không đóng được.
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #57 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 09:14:17 pm »

Máy bay bị nạn rơi xuống và trượt xa tám trăm mét đến một phía thửa ruộng phía Nam Tân Sơn Nhất. Cần dưới bị gẫy, nước tràn vào. Phần lớn những người thoát chết lúc máy bay nổ và rơi nay lại bị chết đuối. Máy bay lên thẳng của hãng Hàng không Mỹ đến ngay, chở những người sống sót và hấp hối về trạm cứu thương đặt trên đường băng. Một nữ nhân viên CIA ra tiễn các em tả lại: không thể biết chắc được những em đưa từ máy bay lên thẳng sang trạm cứu thương còn sống hay chết. Hầu hết đều phủ đầy bùn từ đầu tới chân. Mãi đến lúc đưa các em từ trạm cứu thương đến bệnh viện mới phân biệt được đứa sống, đứa chết. Các nữ y tá đặt các em dưới vòi nước hoa sen, rửa người các em rồi nói: "em này còn sống, em này đã chết. Một lát sau được mấy người Mỹ giúp đỡ, tôi xếp các em còn sống lên xe gíp và xe hơi đem trả các em về các trại mồ côi. Nhiều em sợ quá không còn khóc được nữa; nhiều em khác giống như những giẻ rách trong tay chúng tôi.
Tai nạn làm mọi người xúc động. Những người trong chúng tôi ở lại phòng làm việc của CIA buổi chiều và buổi tối hôm ấy, đều buồn rầu, lặng lặng ngồi nghe đọc tên theo thứ tự A, B, C những người Mỹ chết từ sân bay Tân Sơn Nhất gọi về. Con số người chết lên đến mức làm cho tai nạn này trở thành tai nạn máy bay lớn  thứ hai trong lịch sử ngành hàng không. Hơn hai trăm trẻ em qua đời .Sống sót có một người, còn tất cá nữ nhân viên của phái bộ quân sự đều bỏ mạng. Và những cái chết ấy là do một cái cửa không được đóng kín. Nếu một chuyến bay tổ chức vội vàng gây ra tai nạn tày đình như thế này thì một cầu hàng không không lồ, tổ chức trong thời chiến sẽ nguy hiểm biết chừng nào !
Tướng Smith rất đau buồn về thảm kịch này. Chính ông là người thiết tha yêu cầu cho nữ nhân viên người Mỹ đi với các em. Nhưng ông từ chối không chịu bỏ nhiệm vụ đã ấn định. Hôm sau, trong lúc những kíp của phái bộ quân sự bới tìm xác chết giữa những đống sắt thép của máy bay, ông lại cho hàng trăm trẻ mồ côi và những nhân viên không cần thiết lắm lên những máy bay vận tải khác để tiếp tục di tản.
Đại sứ Martin không còn biết làm gì để có thể ổn định được tinh thần của nhân viên sứ quán về tai nạn xảy ra. Alan Carter, phụ trách cơ quan thông tin Mỹ, là người được ông giao việc đầu tiên. Hôm sau ngày xảy ra tai nạn, Carter viết một điện gửi Hoa Thịnh Đốn để báo tin: lộn xộn ngày càng lớn ở Sài Gòn sắp dần tới hoảng loạn. Đọc bản sao bức điện ấy, Martin nổi giận, ông hét vào mặt Carter: "Ở đây không có hoảng loạn ! Chúng ta phải làm mọi cái để không gây hoảng sợ cho Hoa Thịnh Đốn. Ông nói thêm: "Nếu Hoa Thịnh Đốn hỏi tôi trước khi cho sử dụng chiếc máy bay C-5A này, thì tôi không cho phép. Và những trẻ em đó sẽ vẫn còn sống".
Carter muốn nôn mửa khi đi từ phòng Martin ra. Đầu ông ta bối rối. Sao đại sứ lại khốn nạn thế, không những để trút trách nhiệm của mình về tai nạn này mà còn làm cho mọi người hiểu rằng chính những người như Carter, vội vàng, hấp tấp, cho là tình trạng đã khẩn cấp, phải chịu trách nhiệm về cái chết của các em . Từ đó, giám đốc cơ quan thông tin chỉ gọi dây nói thẳng cho Hoa Thịnh Đốn để trao đổi tình hình. Anh không đếm xỉa đến phép tắc của đại sứ.
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #58 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 09:20:01 pm »

NÉM BOM

Sau ngày máy bay C-5A bị tai nạn, tướng Weyand và ê kíp của ông đến Palm Springs, bang California để tường trình với tổng thống Ford và Henry Kissinger về cuộc khủng hoảng ở Đông Dương. Bản báo cáo của ông bao gồm một phần trích những nhận định của tôi về tình hình quân sự . Phần này nêu rõ sự chênh lệch ghê gớm giữa hai lực lượng và khả năng một cuộc thất bại quân sự của Sài Gòn. Ngoài ra, bản báo cáo tập hợp những điều bình thường và chung chung. Các tác giả công nhận những cuộc thất trận mới đây đã làm suy yếu cơ cấu xã hội và chính trị của nước này và viết thêm: rất khó đánh giá suy yếu đến mức nào. Họ cũng không vạch rõ ý đồ của Bắc Việt Nam. Họ viết: quân cộng sản có hai khả năng: chinh phục bằng quân sự hoặc củng cố thành quả mới đạt rồi thương lượng thỏa hiệp nửa vời. Họ cũng không muốn dự đoán Hà Nội sẽ chọn khả năng nào, mà cho rằng bản thân Bộ Chính trị Bắc Việt Nam cũng có thì giờ để tiêu hóa những sự kiện xảy ra trong những tuần trước, cả những thắng lợi trong mấy ngày tới đây.
Tránh né những vẩn đề quan trọng này, Weyand và đồng nghiệp ông được tự do bảo vệ chính sách của chính phủ. Họ hiểu rằng ngay cả bản thân Kissinger cũng muốn viện trợ ồ ạt thêm cho Nam Việt Nam để Hoa Kỳ khỏi bị buộc phải chịu trách nhiệm về sự thất thủ Sài Gòn, nếu chuyện ấy xảy ra. Thật vậy, Weyand đã xin viện trợ quân sự khẩn cấp bảy trăm hai mươi hai triệu đô la. Họ cố bảo vệ cho sự rộng rãi ấy bằng những luận điểm của Kissinger. Họ viết: "Các chính phủ trên toàn thế giới đều nhớ đến quá khứ, nhưng chắc chắn họ sẽ đánh giá việc Hoa Kỳ không giúp đỡ Việt Nam lúc này là sự phá sản của ý chí và tính quyết định của người Mỹ. Việc duy trì uy tín của Hoa Kỳ trên thế giới  phụ thuộc vào những nỗ lực của chúng ta chứ không phải vào một thắng lợi hay thất bại nào.
Họ còn cho rằng tiền sẽ nâng cao tinh thần Nam Việt Nam, nên sau khi trình bày những ý kiến nói trên, họ nói thêm: Tiền sẽ khôi phục được hiệu lực của quân đội, tiền ấy cần có ngay để đáp ứng những nhu cầu quân sự cơ bản, để Việt Nam Cộng Hòa có thể chiến đấu ngang sức cho sự sống còn của mình. Trong một bản tường trình, Weyand và đồng nghiệp ông có nêu lên vấn đề tế nhị là vấn đề di tản. Họ viết: "Một sự can thiệp ồ ạt của lực lượng Hoa Kỳ có không quân chiến thuật yểm hộ, rất cần để bảo đảm cho việc tản cư sáu nghìn người Mỹ, hàng chục nghìn người Việt Nam và dân nước Việt Nam thứ ba, đối với những người này, chúng ta có một cái nợ phải trả. Tuy nhiên, họ không đi đến mức yêu cầu một cuộc tản cư khẩn cấp cũng như không nói rằng việc giảm bớt sự có mặt của người Mỹ ở Sài Gòn sẽ được thực hiện song song với việc giúp đỡ tài chính. Họ chỉ nói đến việc tản cư như là một dự kiến, chỉ được tổ chức trong trường hợp quốc hội không cung cấp 722 triệu đô la.
Chính phủ chấp nhận ý kiến của họ, chỉ bàn vấn đề di tản khi cuộc thảo luận về vấn đề viện trợ cho Việt Nam ngã ngũ. Có nghĩa là, những người Mỹ ở Việt Nam gần như trở thành những con tin chỉ được thả ra khi có đủ 722 triệu đô la, số tiền như Weyand nói, may ra chỉ có thể giúp Sài Gòn tồn tại mà thôi. Cuộc gặp mặt giữa Weyand và tổng thống Ford kéo dài 90 phút. Kissinger đã đọc bản báo cáo khi ông ngồi bên cạnh Shackley, Carver, Von Marbod và tổng thống.
Vì quan điểm của họ giống như quan điểm của ông ta, nên Kissinger không gặp khó khăn gì để ủng hộ. Cũng như họ, ông nghĩ rằng tình hình quân sự có thể cứu vãn được, cứu vãn một cách chắc chắn. Muốn thế, viện trợ cho Nam Việt Nam phải rõ  ràng, dù chỉ là để bảo vệ uy tín của người Mỹ ở nước ngoài Kissinger tuyên bố với các nhà báo sau buổi gặp Weyand : Hoa Kỳ đứng trước một vấn đề đạo lý. Việc cần biết là một đồng minh, đã hợp tác với chúng ta mười năm, nay muốn tự bảo vệ một mình, thì Hoa Kỳ có quyết định đình chỉ việc cung cấp phương tiện chiến tranh hay không ?"
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #59 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2010, 09:21:29 pm »

Trong khi có những cuộc thảo luận ấy, thì người duy nhất trong chính phủ có thể phản đối có hiệu quả những luận điểm của Kissinger và những ý kiến của Weyand, lại ở Hoa Thịnh Đốn đề chữa những vết thương của lòng tự ái. Đó là bộ trưởng quốc phòng Schlesinger. Một lần nữa, ông bị loại ra khỏi hàng ngũ cố vấn thân cận của tổng thống. Chủ nghĩa tiêu cực của Schlesinger là một trong những nguyên nhân khiến Kissinger đẩy ông ra. Một mặt, bộ trưởng quốc phòng nghi ngờ sự lạc quan của Weyand, mặt khác, ông phản đối kịch liệt mọi viện trợ mới cho Sài Gòn. Ông cho rằng uy tín của người Mỹ cũng như nhu cầu của Sài Gòn đã được viện trợ bổ sung 322 triệu đô la cung cấp hai tháng trước đây, bảo vệ và thỏa mãn. Mọi sự giúp đỡ quan trọng khác đều là lãng phí và không đi đến đâu cả. Nhất là ông nghĩ rằng Nam Việt Nam không thể nào có hy vọng thoát khỏi tình trạng hiện nay.
Kissinger chống lại dữ dội quan điềm của Schlesinger. Ông cho rằng không thể coi thường sự sống còn của Sài Gòn, vì đó là hình ảnh cao quý của người Mỹ trên thế giới. Kissinger tin rằng viện trợ tối thiểu 722 triệu đô la là đủ để Nam Việt Nam chấp nhận việc tản cư người Mỹ, nên việc đó cần làm. Sau này, ông giải thích với quốc hội: "Mục tiêu của chúng tôi là thiết lập một thế quân sự ngang bằng, nếu việc đó thất bại và đi đến chỗ bi đát thì viện trợ 722 triệu đô la sẽ là phương tiện có hiệu quả làm cho Nam Việt Nam bằng lòng cho di tản người Mỹ và người Việt Nam mà chúng ta chịu trách nhiệm về tinh thần. Nói khác đi, Kissinger  cho là nếu cần phải trả tiền chuộc để đối lấy tính mạng những người Mỹ ở Sài Gòn thì “số tiền ấy phải khá". 
Ở Sài Gòn, chúng tôi đang đứng trước cảnh hấp hối của Nam Việt Nam. Trong ba tuần qua, từ ngày bỏ Pleiku, hơn sáu trăm bản báo cáo gửi tới CIA. Lúc ấy cứ hai ngày tôi làm một bản tường trình công việc, một kỷ lục chưa từng có. Mười người trong ê kíp phân tích tin của phái bộ quân sự và hầu hết bạn đồng nghiệp của tôi ở bộ ngoại giao đều làm việc với nhịp độ ấy. Không còn giải trí ở tất cả các cơ quan của sứ quán. Không còn ai ngoài bể bơi. Sau này, nhiều vợ viên chức ở sứ quán nói với tôi: họ biết ngày kết thúc sắp đến, ngày có một biển ghi: Mike, huấn luyện viên bơi lội, đã bị thai hồi vì không còn người học bơi nữa !
Chúng tôi cũng khám phá ra rằng chúng tôi có nhiều bạn Việt Nam hơn là chúng tôi tưởng. Họ đến hỏi vào bất cứ giờ nào. Họ đứng ngay ngưỡng cửa, trong đêm, để không bỏ lỡ một chỗ trống trong những chuyến máy bay lên thẳng đến bất ngờ. Tôi có trên lưng một việc riêng. Tư Hà, là một nữ chiêu đãi viên "được cải tạo" ở bar Mini. Hai mươi mốt tuổi, chân ngắn. Hợp tác lâu ngày với người Mỹ, cô sợ bị đứng đầu trong danh sách những người phải hạ sát của cộng sản. Ngớ ngẩn ! Anh cho là như thế ư? Thật ra: lúc ấy, không ai phân biệt được cái gì ngớ ngẩn, cái gì không. Người giúp việc tôi đi từ sáng sớm, tôi để Tư Hà trong nhà làm những việc lặt vặt và thổi cơm chiều. Thêm một gánh nặng phải mang. Ngày 7 tháng 4, tôi ghi trong sổ tay: mọi người đều thiếu ngủ, buồn man mác. Thức dậy bất thình lình vào ba giờ sáng vì tiếng đại bác nổ đằng xa. Tiếp đó là tiếng xích sắt chiến xa chạy ngoài đường báo hiệu dinh Độc lập bị chiếm, một cuộc đảo chính chăng?
Pat Johnson hôm qua nêu ra ý kiến có thể chúng tôi không thể vượt qua thử thách này và lần đầu tiên, tôi thông cảm với người Việt Nam. Pat và Bill, chồng bà đã ký giao kèo với nhau:  Nếu quân Bắc Việt Nam chiếm thành phố mà họ không chạy trốn được thì chồng sẽ bắn một phát đạn 38 vào gáy vợ rồi quay súng lại bắn vào mình.
Mỗi ngày, người xếp hàng trước lãnh sự quán cũng dài thêm. Nhưng ở sứ quán, tiếp tục coi là không có chuyện gì thay đổi cả. Hình như, tiếng súng gầm ở ngoại ô chỉ là báo hiệu cơn giông. Mặc dù có truyền thống bình tĩnh, hầu hết các nhân viên hai giới ở CIA đều lo ngại. Nữ thư ký có vẻ bình tĩnh hơn đồng nghiệp nam giới. Họ nói ít về sự nguy hiểm, công nhận sẽ có nhiều tai biến nhưng vẫn tiếp tục làm việc. Nam giới tỏ ra quyết tâm đối phó với thử thách. Họ nói năng với một vẻ quan trọng, trao đổi vũ khí, vừa kể cho nhau nghe những chuyện chiến tranh, vừa vỗ vào lưng nhau đồm độp, vừa ngậm những viên valium và uống cốc tai ngay từ trưa.
Cuối tuần thứ nhất tháng tư, một số bạn đồng nghiệp tôi phản kháng: có hai sự thật, một cái họ thấy và một cái do đại sứ và quan chức cao cấp tìm cách bắt họ phải chấp nhận qua những tin tức có vẻ tốt lành. Ngay cả sau tai họa của máy bay C-5A, đại biểu lâm thời Lehmann còn cố tình tuyên bố trước một nhóm nhà kinh doanh Mỹ rằng không có gì phải sợ cho Sài Gòn. Ông nói "Thành phố cũng vững chắc như đồng đô la Mỹ. Các ông cứ đầu tư vào !"
Ngay Polgar cũng giúp vào việc củng cố ảo tưởng ấy, mặc dù lý lẽ ông đưa ra khác lý lẽ của Lehmann. Ít lâu sau tai họa máy bay C-5A, ông yêu cầu những người giúp việc không nói trước vợ, con hay thư ký tình hình quân sự bi đát. Ông ra lệnh cho Pat và Joe bắt đầu chuẩn bị bản tường trình tình hình hàng ngày, trong đó đương nhiên là đánh giá thấp sự uy hiếp của cộng sản và đề cao lực lượng của chính phủ. Những tin tức ấy sau khi được sửa đi sửa lại, được điện cho tất cá các sứ quán trên thế giới với hy vọng  khơi lên những bài bình luận ủng hộ sự sống còn của Sài Gòn trong giới báo chí quốc tế và ở quốc hội.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM