火繩鉤槍=hoả thằng câu thương, súng có móc thừng lửa, hoả mai mồi thừng, match lock. Châu Âu là arquebus harquebus, harkbus, hackbut, haakbus... đều là ống có móc câu, súng móc, nhưng sau này được dùng nhiều với cái tên musket từ tiếng Ottoman.
http://vndefence.info/modules.php?name=Forums&file=viewtopic&p=54871#54871Theo các nguồn tài liệu đã dẫn, thì nhà Nguyễn không có súng hạt nổ, mà chỉ tối đa là súng đá lửa. Phần lớn máy đá lửa được nhập khẩu, chỉ đến khi gần mất nước mới tự làm được. Súng đá lửa cũng như pháo Pháp chỉ có ở Kiêu Binh nơi Kinh Thành, với tỷ lệ rất nhỏ (5 súng / 50 người, bắn quá 6 phát phỉ đền, SĐD). Chủ yếu súng vẫ là loại hoả mai mồi thừng, thậm chí, còn chưa là súng trường, chỉ là súng trợ chiến=pháo nhỏ và nhỡ bắn đạn đặc, như "súng cựa gà , súng mãng , súng tự mẫu , súng chụ , súng bảo lân". Súng hoả mai mồi thừng nhà Nguyễn ươn hèn, cũng như xin sử Thanh về dèm một cách bịa đặt hèn hạ Hồ Nguyên Trừng, là loại súng Tầu xin mẫu qua đường đi sứ, có thiết kế từ thời Minh liền sau thời hai cha con Hồ Nguyên Trừng, nòng khoan, nhưng còn thô nặng, có càng kiêm lê (2 chân như trung liên, thường bỏ đi ).
Đây là hình ảnh của súng chủ lực nhà Nguyễn. Súng được Minh Triều thiết kế và sản xuất khoảng nửa đâut tk 16, sau Tây Thảo Loan Chi Chiến, cùng thời với súng Nhật, nhưng cấu tạo khác. Do sự cô lập, súng Nhật thuộc loại rất ưu việt, có nòng 10mm dài đến 1,4 mét=kỹ thuật gia công thép rèn siêu đẳng, chất thép cũng rất tốt, được rèn bằng kỹ thuật thép hoá gang xám như kiếm Nhật, khác với châu ÂU thời trước là thép hoá sắt xốp. Nhưng bên cạnh những ưu việt quá trội đó, người Nhật làm toàn bộ máy cò bằng.... đồng thau, kể cả lò xo. Từ 153x, người Nhật đã chuyên nghiệp hoá các khâu làm súng như nước Pháp sau 166x, Tuyn (Tulle MAT) làm cò cho Xanh Ể CHiên MAS.
Súng Tầu được hình thành sau Tây Thảo Loan CHi CHiến 1520. Từ khi con trai Hồ Nguyên Trừng là Lê Lâm (Hồ Thúc Lâm) về hưu 1470 cho đến trận chiến đó, Minh Triều bước vào thời kỳ suy đồi, khoa học thành rác rưởi, với cuộc đại cách mạng văn hoá vô sản, toàn dân làm gang thép ngày đó là chuyển sản xuất súng độc quyền trung ương của Hoả Khí Doanh sang các công xường địa phương, sinh ra cái Thắng Tự đời 3 (có 3 đời Thắng Tự Minh và 1 Thắng Tự Cao Ly ), đặc trưng của Thắng Tự đời 3 là không có serial number, mỗi "hãng" một khác, không bắn được đạn của nhau, đặc biệt cấm dùng thuốc trung ương của Thiên Tự, vì dùng thuốc đó, súng địa pương nổ như lựu đạn chày. Thiên Tự có cỡ nòng cực kỳ ưu việt, dùng đạn chì, chứ không phải đạn đá như các đời Thắng Tự. Cỡ nòng 17mm, sau này, châu Âu chỉ dùng trong tk18, đạn Thiên Tự còn có các tên Mộc Mã Tử (vì có lèn gỗ chống ẩm), trọng bát tiền diên tử = đạn chì 30 gram như châu Âu tk18.
Trong giai đoạn xấp xỉ 1tk sau 1470, súng Tầu chỉ có đi xuống, với cấu tạo đa nhãn lừng danh=súng ngắn nhiều nòng=đi sai hướng súng trường.... Sau 1520, thì Tây đã có nhiều căn cứ ở Đông Nam Tầu, Đông Nam Á.... tổ chức sửa chữa và sản xuất súng ống. CHúng ta cần biết, Công Ty Đông Ấn Hoà Lan, cái bọn đẻ ra Hội An, bọn sau này bị đánh đuổi vì tội cướp biển, thời kỳ đầu còn nhập khẩu khá nhiều Thiên Tự về dùng, căn cứ chính của công ty này là Đông Timor ngày nay. Kiểu nửa buôn, nửa cướp, tự mộ quân, cướp được đất nhà người ta thì xin chính phủ nước nào đó ở châu Âu bảo hộ.... là mô hình chung của các đội quân xâm lược đó, và không hề có một đạo quân chính quy nào, toàn cướp biển ô hợp với một dúm quân đã hạ các Huế, Hà Nội. Quân chính quy chỉ có khi chế độ thuộc địa đã được xác lập, và chỉ Đề Thám, Phan Đình Phùng, Cao Thắng.... mới được diện kiến trên chiến trường, chứ không phải loại quan quân cá thối nhà Nguyễn.
Từ nguồn đó, nước Nhật có súng trường hoả thằng câu thương với bộ máy rất khác châu Âu, mà rất giống kiểu Ấn Độ, và phát triển nguyên lý chiến đấu cũng như cấu tạo cơ khí vượt bậc, do cô lập mà được dùng cho đến tk19, không thay đổi nhiều, như là phiên bản hoá thạch sống. Súng Tầu rất giống súng Nhật, cũng chỉ có tay cầm nhỏ không báng và có hai càng như Trung Liên, kiêm chức cái lê. Như vậy, Tầu và Nhật đã bắt đầu thời kỳ mà Anh Pháp đi qua tk18, súng trường nòng dài nhẹ có ở Tầu Nhật từ giữa tk16. Tuy vậy, người Tầu hủ thối có số lượng súng tốt rất ít, chủ yếu là gươm giáo và các súng lôm côm như tam nhãn en nờ nhãn.... kiểu trăm hoa đua nở mà người Nga gọi là "tính Tầu", đặc trưng của rác rưởi hàng lởm. CŨng như vậy, kiểu ô vuông luân hàng mà Phú Lãng Sa dùng trong Napoleon (các hàng sau chuẩn ị bắn, hàng đầu bắn), được Minh Triều dùng lúc đó, tất nhiên, chỉ có một dúm quân cận vệ kinh thành là đủ trang bị, cũng như các mặt khoa học quân sự thui chột sạch.
http://vndefence.info/modules.php?name=Forums&file=viewtopic&p=54814#54814Có một số đặc điểm súng Tầu khác súng Nhật, Tầu không có thép tốt, nòng to (15-19mm) và không có phần đầu nòng to ra (người Nhật dùng làm cái vồ đập khi giáp lá cà, sau này bỏ hẳn càng-lê). Không hiểu trước thế nào, sau này, Tầu dùng máy cò kiểu Tây, không thấy đồng thau như Nhật. Trong các tk18-19, súng kiểu càng-lê vẫn chiếm sản lượng chủ yếu ở Tầu, Vịt, Tây Tạng... nhưng có một số đổi khác như báng Tây. Hoả Khí Doanh trong tk16-tk17 cũng có điểu súng đá lửa, nhưng sau đó không thấy sản xuất nhiều, chắc chắn là do không hoàn thiện kỹ thuật lò xo. Máy lò xo đồng của Nhật đương nhiên là hơn xa vời vợi máy Tầu. SÚng nhà ta lôm côm như kiểu Tầu.
Đây, súng trường nhà Ta , trang bị chủ yếu nhà Nguyễn đây, loại hoả thằng câu thương Minh Triều đây, những cái đồ oẹ ra của cái triều đình đốn mạt đã xin sử ngoại quốc về bịa đặt Hồ Nguyên Trừng đây, súng Tầu tk16 đây.
Điệp trận, kiểu luân hàng đi kèm với súng trường cá nhân nhồi miệng nòng, sau đời pháo cá nhân=súng trường trợ chiến của Vauban, mà nay là trung liên, trước thời súng trường đối kháng battle rifle như Gras, Mauser, Mosin....
tk18-19, súng có báng như Tây, súng này rất giống nhà ta, trong ảnh là súng Tây Tạng tk19.
hạ càng
Nhật tk16 với các chuyên gia Bồ Đào Nhà. Đây là thời Chiến Quốc đanh nhau loạn xị ngậu bên đó.
Người ta ví súng Nhật như hoá thạch sống, nó không thay đổi gì nhiều từ tk16, dùng đến tk19 trước Duy Tân Minh Trị. SÚng Nhật có kỹ thuật gia công kim loại cao cấp, đồng đều .... khác hằn Tầu và Vịt có chính trị đã hủ rữa.
http://vndefence.info/modules.php?name=Forums&file=viewtopic&p=55015#55015Trên thế giới có 3 loại máy cò của súng mồi thừng.
Loại 1 đơn giản nhất, là loại sử dụng ngay cái cò của nỏ, là một thanh hình chữ S, gọi là serpentine lock, hỏa mai có cò. Nó đã cho phép xạ thủ rảnh mắt để lấy đường ngắm, điểm xạ đúng lúc. Nhưng cò tự do rất nguy hiểm. Hoả thằng câu thương này thường gọi là bóp không lò xo.
Loại thứ 2. cũng khá giống serpentine cũ, gọi là serpentine lò xo, hay là matchlock đời đầu, nhưng có thêm cái lò xo luôn đẩy cò ra xa khỏi cốc mồi, an toàn trong khi nạp đạn. Tuy vậy, vẫn dùng lực bóp cò để đẩy thừng mồi vào cốc, cò mổ không dứt khoát. Lò xo duy nhất của máy này có tác dụng như lò xo đẩy về của cò súng ngày nay, sau khi bóp bắn, thả ngón tay ra, thì lò xo này đẩy cò về vị trí sẵn sàng. Lò xo đơn giản này dễ dàng làm bằng tre gỗ đồng và thép xấu. Hoả thằng câu thương này thường gọi là bóp có lò xo.
loại thứ 3, đầy đủ nhất, có máy móc dùng nguyên lý như súng đá lửa sau này, nên nhiều sách vở Tầu ngố dùng Điểu đầu = súng đá lửa. Bộ máy cò có 2 lò xo. Lò xo đẩy về của cò như loại 2 trên. Máy súng có thêm lò xo búa, tức là, cò không trực tiếp đẩy thừng mồi điẻm hoả, mà móc kẹp thừng mồi được đẩy bằng một lò xo thứ 2, trước khi bắn, phải lên búa như ngày nay. Móc kẹp thừng mồi (như búa ngày nay), sau khi lên, được hãm bởi lẫy cò, khi bắn, lẫy cò nhả cho búa đập. Hỏa thằng câu thương bật, Snapping matchlock. Hoả thằng câu thương bật có khả năng điểm hoả chính xác cả về không gian và thời gian, trong khi ngón tay hoạt động rất nhẹ, khi xạ kích chính xác. Snapping matchlock có búa và lò xo để ngoài cho súng trường lớn, tin cậy. CÒn súng nhỏ thì để trong báng cho gọn. Đặc sắc của Nhật Bản là lò xo đều làm bằng đồng thau. Dĩ nhiên, lò xo đẩy về của cò nay không quan trọng lắm và nhiều súng bỏ đi.
Cốc mồi. Nhiều người nhầm và ... Vũng Tầu cũng ... Súng cổ không cắm ngòi xì xì, trừ loại ... thượng hạng là nông dân Tầu tự chế. Ngòi xì xì ngăn cản viẹcđiểm hoả đúng lúc, chỉ tiện cho pháo Bình Đa và ...
1326 châu ÂU, hơi muộn so với Mông Cổ. CHâu Âu học các kỹ thuật thuốc và súng từ các làn sóng xâm lẫn của Mông Cổ. Các cuộc chiến tranh khác nhau của Mông Cổ có vai trò lớn với phát triển thế giới, mọi mặt kỹ thuật quân sự chính trị đều được tập trung tinh hoa, và phát tán tinh hoa đã được chọn lọc đó. Thời ngắn ngủi súng pháo có ngòi xì xì, pháo vò Âu.
http://homepages.ihug.com.au/~dispater/handgonnes.htmhttp://homepages.ihug.com.au/~dispater/lgepeterson_1326.JPGpháo vò nhỏ, súng cá nhân, tk14, Âu
http://homepages.ihug.com.au/~dispater/lgehlp_1300.JPGSuốt mấy thế kỷ phát triển, người ta chỉ hoàn thiện máy điểm hoả cho nhanh gọn chính xác cả không gian và thời gian, không dưng cắm ngòi xì xì để vứt công mất tk đó đi. Hồ Nguyên Trừng có cốc mồi đã rất hoàn thiện, thích hợp cho nhiều loại máy cò , đặc biệt thích hợp cả hạt nổ (có đe lồi) và thời tiết nhiệt đới ẩm. Đầu tk16 thì các cỡ súng to nhỏ lớn bé đều không ai cắm ngòi, mà cốc mồi xứu nèo xứ đó đã giống của chính xứ đó xứ ấy vào tk19. Với thời gian tk18, ANh Quốc tiến đến vùng nhiệt đới và làm kiểu cốc mồi khá giống súng nhỏ Hồ Nguyên Trừng, nhưng Anh Quốc là của pháo.
Cốc mồi, đứng ra là cốc chớp, flash pan, là một cái cốc đựng thuốc. Khi thuốc này nổ, áp lực cao thổi khí nóng vào buồng đôt chính, chứ không truyền cháy chậm. Cốc mồi có nắp, có súng được mở tự động bởi cơ cấu máy móc, nhưng đa phần mở thủ công, coi như khoá an toàn. Phần lớn các súng Âu đều có cốc mồi làm riêng. Nhật Bản và người Mèo ta có đe kíp + cốc mồi rèn liền với phôi làm nòng.
... kiểu náy Nhật Bản từ nửa đầu tk16. Nhật Bản biết dùng súng trường trong thập niên 149x. Năm 153x, một chiếc thuyền buôn Bồ Đào Nhà bị bão dạt vào NHật Bản, ông ta dâng súng cho lãnh chúa đại phương cầu cứu. Gặp may lớn, viên lãnh chúa thời oánh nhau lộn bậy CHiến Quốc liền chi tiền mua thêm và tự làm, thuê đám người này làm chuyên ra. Kiểu dang máy móc ngay lập tức được cải tiến để thích hợp với điều kiện Nhật. Kỹ thjuaatj gia công thì các bạn xem ảnh, không văn hoa màu mè, nhưng chính xác đồng đều như hàng công nghiệp, Tầu và Vịt, cả Tây gọi bằng cụ. SÚng có kỹ thuật khoan và chất thép siêu đẳng, 10mm / 1, 4 mét tối đa chiều dài nòng, Tây tk18 là 180-19mm / 1,2 mét. SÚng NHYaatj vì thế rất nhẹ nhàng, tin cậy và bền. Có điều, sau đó, vì cô lập, súng Nhật không phát triển đến tk19. Trong ảnh dưới, các súng trường lớn của Nhật để lò xo bên ngoài, còn cò vẫn giữa bàng phía sau, trong máy cò, cò kéo một cần tháo chốt lẫy búa đặt bên trong.
Chu đáo, sau báng có
Mở nắp cốc mồi như mở chốt an toàn
Cốc mồi Tây
Snapping matchlock Tây, làm kiểu nông dân nhố nhăng không chuyên, nếu như so với Nhật Bản. Kiểu này rất giống người Mèo ta, nhưng người Mèo ta có hạt nổ. Lò xo đẩy về của cò bị ... người Mèo ta cũng có hẳn cái lò xo này.
Nòng Nhật, Mỹ Miều. Người Nhật hay là to miệng súng ra (chỗ đầu ruồi), để các Samurai dùng làm nắm đấm giáp lá cà, chứ không dùng lê, vì Samurai đã mang sẵn 2 kiếm.
Cái cốc tăng tốc độ bắn Nhật Bản. đạn và liều được đong sẵn, đổ một lần cả đạn lẫn liều chui tụt vào nòng, chỉ còn lấy quen tống.
serpentine đơn giản hơn nhiều. Nó là cái lò lấy từ nỏ, được dùng từ những ngày đầu tiên có cò, cuối tk13. Loại cò này được dùng dài dài vì quá dễ chế tạo, dễ dàng làm từ tre gỗ thời kim loại đắt lòi kèn, 10 cân sắt đổi lấy.... ....
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/7/76/PS8004046.jpg loại không lò xo trên cùng, dưới là có lò xo với 2 kiểu búa mổ ngược và mổ xuôi. Búa mổ ngược hay được tây dùng, làm súng ngắn gọn hơn một chút vì máy đặt dưới nòng. Ấn Độ, Tầu và Đông Nam Á, trong đó có Vịt Cạc sử dụng búa mổ về trước, búa (kẹp thừng mồi) và máy đặt phía sau nòng, ở trong báng, chỉ thò cò bên dưới và búa ở trên , thường búa bên phải, vì ngắm mắt phải, mắt trái bên trái ít ảnh hưởng.