Cối cổ chúng ta biết rồi, rất to nặng. Đặc biệt, trước cách mạng Pháp, cối Pháp thừa kế các sách Vauban và Coehorm, có thiết kế quá cổ, đặc biệt buồng đốt bị cô lập, và không sử dụng các kỹ thuật đã biết bên Nga để tránh tản mắt, như lăn đạn bằng buồng đốt lệch. Cối cổ đó và cả bản cải tiến trong Cách Mạng Pháp đều như các nước khác, nặng, khó di chuyển.
Cối Pháp tk18 trước cách mạng, thừa kế Vauban buồng đốt cách ly để tăng áp suất đốt=cháy ổn định thời thuốc còn lởm. Nhưng khi thuốc tốt, buồng đốt kiểu cổ hũ này làm giảm áp lực đẩy đạn, sau đó, thời cách mạng, thay bằng buồng đốt hình nón Nga, dễ thoát khí, nhưng không áp dụng nghiêng lệch buồng đốt để lắn đạn=khắc phục đạn tản bán do nẩy trong nòng như Nga.
Buồng đốt nón, vừa kín tạo áp cao=cháy ổn định, vừa không làm tắc khí như cổ hũ. Đây là buồng đốt Nga cuối tk17, trước Đại Chiến Bắc Âu của Piotr
Lăn Nga đạn trong tk18. Pháo Cách Mạng Pháp sử dụng "hệ tiêu chuẩn Gribeauval", tức một nhóm các tiêu chuẩn về pháo và đạn, để tiện sản xuất, hậu cần
12 " (300mm), kiểu hộ thành hay dùng ở các pháo đài bờ biển, 1806, "hệ tiêu chuẩn Gribeauval"
Gomer mortar 12 " buồng đốt hình nón, năm thứ 2 cộng hòa (1793, 1794)
Lạc hậu hơn Nga 1805, nòng Nga dài, buồng đốt dài, cơ cấu vận động tiến bộ hơn nhiều. Trong Cách Mạng, Pháo Cối pháp tiến bộ liên tục, kỹ thuật tạo hình nòng học theo Nga để tăng sức cơ động, nhưng nhiều kỹ thuật mới hơn được áp dụng
Chưa có thông tin về khẩu "Thần Công" biểu diễn như lợn làm xiếc trên. Cối Nga kiểu phòng thủ bờ biển cuối tk19, model 1867. Model này trong quá trình phát triển của nó đã tạo ra pháo hiện đại cho châu Âu, mặc dầu chính quyền suy đồi Nga Hoàng chỉ cho sản xuất khoảng vài chục khẩu đến 1906, và thuê ngoại băng gia công cối lởm. Coi Như M1867 là một chuỗi mẫu thử nghiệm, kỹ thuật làm nòng tiến bộ từ đồng đúc, gờ hẹp, sang thép 2 lớp có gờ xoắn như ngày nay. Máy lùi và máy đẩy về, cũng như máng pháo hình thành đầy đủ trong 188x thay đế giá cứng truyền thống, từ nguyên lý đó, người Âu phát triển các phiên bản thực tế và thành pháo hiện đại 189x-190x.
Kiểu lùi, đẩy về này áp dụng ở cối bờ biển M1867 các model 67-77. Nó bắt chước y hệt động tác lùi của pháo giá cứng trước, một bên là hãm lùi thuỷ lực, còn một bên là đẩy về lò xo khí nén, máng pháo đơn sơ chính là cái đế, đã là khẩu pháo hiện đại với đủ các bộ phận. Sau này, hãm lùi và lò xo khí nén cùng làm trên một ống, ngắn cách bởi piston trôi.
1877, Tây Phú vẫn là pháo cổ, mặc dù đã có rãnh chữ nhật và khoá nòng ren cắt, nhưng giá càng vẫn như 1700 .De Bange screw breech là tên Pháp đặt cho ren cắt.
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/d/d2/Bange_155_L_back_Memorial_de_Verdun.JPGModel 1867/1877, do hưởng được lợi ích của hãm-đẩy, mà thoả thích tăng tầm, nòng dài. Những tiến bộ đã biến cối cổ thành pháo hiện đại như vậy. Tuy vậy, đây là nguyên ly cơ bản, còn những máy hãm-đẩy về tinh vi thì phải đợi đến Đ44 chống tăng 85mm mà nhà ta cũng có khối. Đó là pháo chống tăng, còn lựu pháo thì có hãm-đẩy về đa năng của M46 130mm.
http://s972.photobucket.com/albums/ae209/huyphuc1981_nb_1/bai_sung/coi_co/6-djujmowaja_pushka_na_beregowom_la.jpg1867, nòng composite 2 lớp, nguyên lý chung của phần buồng đốt ngày nay. Khi di chuyển thì bằng bánh xe, khi chiến đấu, thì pháo đặt trên đế = kiêm vai trò máng , như hình trên
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/4/41/152_mm_mortar_M1867_Suomenlinna_1.JPGModel 1867 nguyên thuỷ, lùi-đẩy về đặt bên ngoài.
Khi cối biến thành pháo, thì một phần khác của cối, chiến tranh Nga Nhật, Trận cảng Đại Liên 1904-1905, Leonid Gobyato và Roman Kondratenko, hai viên sỹ quan Nga, đã sáng tạo ra cối nhẹ cơ động đầu tiên. Đây là tiền thân của cối hiện đại.
12" 1778. Pháo có xe kiểu hộ thành, trưng ra đây để so sánh pháo cổ, khi bắn, pháo lùi vào trong lỗ châu mai, nạp miệng xong đẩy ra bắn tiếp. Fort La Latte, Côtes d'Armor, France
Đây là nòng pháo đặt trên xe hộ thành, nhưng các bạn thấy cái lỗ dể căng chão dùng trên tầu chiến, dây là một pháo đài bảo vệ bờ biển, thường được xây dựng trên bờ các cửa biển quan trọng. Lúc này, thành quách đã hết thời, nhưng cửa biẻn thì không cơ động được. Thành quách kiên cố được thay bởi công sự dã chiến, xây và sửa nhanh. Trong ảnh là công sự xây, nhưng không phải thành quách, ta có thể hiểu nó cũng như chiến hào xây trong thời bình, bền và tiết kiệm hơn đất đắp, khi chiến trận thì hỏng đâu thay bằng đất đắp đấy.
Hải pháo được dùng ở các pháo đài ven biển và tầu chiến, cũng như hải quân độc lập với quân đội == đặc trưng của các nước tây Âu với Mỹ và Tầu sau này, để Hải Quân tương đối tự do khi ăn cướp và quân đội được xây dựng không theo tính cướp biển để... đỡ đòn từ quân chính quy Đông Âu.
Carronade, giá kiểu tầu chiến. Pháo lùi và hãm bằng ma sát giữa hai thớt gỗ, có sợi chão rất to để chống lùi quá, đặt nghiên cao phía sau để tăng khả năng hãm và dễ đẩy về, cũng lùi về đẩy lên như hộ thành
Các pháo khác trên ship of the line trước nội chiến Mỹ cũng thế này. Carronade có thể hiểu là cối bắn ngang, pháo bắn tầm gần, thường đặt trên tầng trên cùng của tầu. hãm lùi và lò xo đẩy về là cái dốc giữa 2 thớt ván, cái chão để hãm súng lùi quá đà, như một thứ... lò xo hãm cứng hơn hãm thường.
Dây chão được căng hình chữ V thế này
Cối 90mm Đế Quốc Phổ, được dùng ở Áo Hung và Phổ. Nặng 114 kg, đạn 3,8kg, đướng kính 91,5, chiều dài nòng 595, bắn xa 450 mét, rất đăc dụng rót từ trong hầm an toàn ở WW1 sang chiến tuyến địch, đây là khẳng định hướng đi cối Nga, kiểu này có các model M14, M17... .
Rất dễ nhận ra rằng, hướng này, so với các hướng dưới đây, là chính đạo đi thẳng đến cối hiện đại. Phiên bản này vẫn giống cối Nga của 1906 Đại Liên. Điểm khác chính về thuật bắn của các phiên bản này so với cối hiện đại và tương quan giữa khối lượng nòng-đạn. Nòng càng nặng, thì nó càng ít hưởng năng lượng từ phát bắn và càng dễ hãm lùi, điều này là nguyên lý của cối cổ. CÒn cối hiện đại, thì người ta làm nòng nhẹ cơ động, nhưng đỡ bằng cái mâm đế cối to tướng truyền thẳng xuống đất, hay nói cách khác là mượn khối lượng đất mà hãm. Như vậy, các bước này là trung gian, nòng nhẹ đi nhưng chưa nhẹ hẳn.
Người Đức cải tiến sơn pháo để bắn góc cao, gọi là "súng rải mìn"=Minenwerfer, còn gọi trong tiếng ta là "phóng bom". Đây là một hoàn thiện cối thành cối cơ động ngày nay, kiểu bánh xe mà nay vẫn dùng cho cối lớn hay cối vừa nhưng bắn tự động , bắn góc ngang. 170mm , nặng 483 kg nhưng bắn đạn 50 kg, nạp miệng, trơn, Cal 3,8-4,5 (646mm-765mm), sơ tốc cỡ 200 m/s, tầm bắn hiệu quả / tối đa 300 mét / 1600 mét. Góc bắn cao 45-90, tốc độ bắn cao vì bắn thả như cối nay. Có hãm lùi thuỷ lực.
75mm, đã có đủ đế cối, giá tầm hướng, mặc dầu vẫn chưa giống nay cho lắm = vẫn có bánh, lùi-đẩy về như pháo. Cối lai pháo này chưa hưởng được đặc tính gọn nhẹ dễ vác như hiện đại, mặc dù đã nhẹ hơn nhiều sơn pháo cùng đường kính và cùng thời. Cối này vẫn nòng xoắn dầy, cái mà đáng ra dùng để bắn chính xác, tiện cho pháo bắn góc thấp xạ kích như công phá công sự. Có điều này vì nhà sản xuất quả cáo rằng, khi đắp đất thành tường làm càng cày, thì cối này bắn ngang xạ kích cũng.... được, gọi là chửa thoát thai hẳn.
http://www.landships.freeservers.com/schw_minenwerf_25cm.htm Cũng giá Nga, nhưng Pháp để đạn ngoài, phóng bom 58mm mà Huy Phong Sy đã nói
Đây là phần giới thiệu qua, mình sẽ dề cập đến các hệ thống tiêu chuẩn từ hồi Cách Mạng Pháp sau. Đây là thời điểm Tây Phú Mẹ Ghẻ cải tiến cối. CŨng có đóng góp, là đạn có cánh đuôi, như ngày nay, nhưng trông kỳ hình dị tướng. Hoá ra, lại bệnh truyền thống, đặt nguyên lý sai. Đầm định dùng góc cao rót đúng... đầu công sự, nên dùng đạn ngoại cỡ bến ngoài để phóng to đạn. Ngày nay, cối chủ yếu để bắn sát thương diện tích, không thể chính xác lắm (trừ đạn tự hành), điều này đẻ ra các thứ ngòi để đạn không cắm sâu vào đất mới nổ. Kiểu này của Mẹ Ghẻ Phú Lãng Sa thì được cái chả cần ngòi khó kiếm gì, ngòi nào cũng được, vì càng cắm sâu càng thích.
Góc bắn 45° - 82,5°, có hãm tầm không hướng. Cối hiện đại vì mục tiêu sát thương nên thu bé đạn để bắn xa.
Mortier de 58 mm type 2.
đạn nhẹ 18 kg chứa 5,35kg thuốc (LS bomb) 6 cánh, 1450 mét
35 kg 6.4kg (ALS) vừa, 3 cánh 1250 mét
20 kg, 10kg (DLS) nặng, 6 cánh 670 mét
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/6/64/MWP_Dumesille_mortar.JPGMortier de 150 mm T Mle 1917 Fabry.
Có đế đơn giản, có hãm hướng, có lùi đẩy về. Hãm lùi được trợ lực bởi tuye phản lực. bắn xa 2000 mét sơ tốc 156, góc bắn 45° - 72°, góc hướng 27°, nặng 615 kg. Nòng 150 / 2100mm
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/2/2b/FabryTrenchMortar.jpgPhiên bản 240mm 1915, Mortier de 240 mm CT ("court de tranchee"), thì lại chỉ là cối cổ tân trang, có thêm tầm hướng, bắn 87 kg xa 1030 mét, liều 670 gram. Mortier de 240 mm LT ("long de tranchée") bắn liều 1300gram xa 2071 mét. 75° to 45° đứng, 18°x2=36 ngang. Đạn cho vào trong nòng. Trừng nguyên lý chiến đấu bắn công sự thì cũng có cấu tạo như ngày nay
http://www.landships.freeservers.com/ah_ww1mortars.htm