Các bác cựu chiến binh K ky bo ghê nhể, Phúc mới rẽ qua chút đã cấm phúc vào topic của các bác rùi, thế thì trả 81-1 thức đây.
http://www.militaryheritage.com/muskets.htmHén, mở một topic về mục này.
Các bạn biết Mẹ Ghẻ nhà ta rùi. Ban đầu, người Tầu phiên âm tên Phờ Răng Xoa thành Phật Lăng, tk16. Sau đó, nhà ta gọi là Phú Lãng Sa, tầu gọi là Pháp Lan Tây gọi tắt là Pháp. Tên Pháp được dùng cho đến nay ở ta. Ngoài ra, nước này còn được gọi là Tây, dân Âu ngày đó được gọi là Tây, nhưng do hầu như chỉ có Pháp nên Pháp là Tây.
Nước Pháp nằm ở Tây Âu, nhưng giáp biên giới và va đập về chiến tranh cũng như buôn bán nhiều với Đông Âu. Trong 600 năm qua, hầu như dòng chảy kỹ thuật truyền từ Đông Âu (gồm cả Đức, vì Phổ thống nhất Đức mà Phổ là Đông Âu), sang Tây Âu, kèm theo những khoa học quản lý xã hội, chủ yếu là các xưởng thợ, rồi đến cả CNTB, CNXH và CNCS. Đông Âu cấp súng và kỹ thuật, Tây Âu đi chiếm thuộc địa. Những lúc lên cơn gian dối, Tây Âu tự chế hàng lởm đi nhồi thuộc địa, không share lợi cho Đông Âu. Nhiều khi bực mình, Đồng Âu đem quân sang tẩn, tẩn không được bằng súng thì lại tẩn bằng kỹ thuật. Cuối cùng thì Đức Ý Nhật cũng phá tanh bành hệ thống thuộc địa.
Trong suốt 200 năm gần đây, từ 1700-1900, Đông Âu thực hiện công cuộc lâu dài là đẩy lùi Ottoman, thống nhất miền trung Âu, nổi lên 3 đế quốc lớn là Nga, Phổ và Áo-Hung. Pháp cùng vài nước công nghiệp Tây Âu khác luôn tìm cách bán súng cho đối địch như Ottoman, Thuỵ Điển, Ba Lan... từ nguồn lợi này, Tây Âu trực tiếp can thiệp quân sự và đỉnh cao là hai cuộc thế chiến. Tây Âu thắng trận mà lại thua, không còn là các đế quốc nữa, mà mất thuộc địa và bi h đã vào tròng nước Đức, tâm phục nhưng vẫn chưa khẩu phục, còn già mồm lắm.
Pháp đến Việt Nam trong những cuộc bại trận lớn, tàn phá nặng nề chính quốc, nổi bật là Đại Quân thất bại ở Nga-> Oa-Téc-Lô Waterloo, rồi Pháp Phổ 1870. Từ sự khó khăn khi mất thế quân sự, kém cạnh tranh kỹ thuật... ở châu Âu, Anh Pháp càng tăng cường chiếm thuộc địa. Đến đầu tk20, giữa 2 thế chiến, hầu hết thế giới thứ 3 ( ngoài Đông và Tây Âu) nằm trong Anh Pháp Mỹ. Liên Minh Tây Âu có thêm nước Mỹ như hậu phương bền vững, nhưng rồi, cái hậu phương ấy cũng đến ngày thê thảm hôm nay, bại trận triền miên, kinh tế kém cạnh tranh kỹ thuật, và không còn thuộc địa để chiếm. Tất nhiên, Tây Âu còn cựa quậy dài dài, có thêm chú đồng tính chất là một phần lớn nước Tầu, tăng cường can thiệp quân sự, chính trị... để bòn mót những thuộc điạ cuối cùng. Hài hước là những cụ cựa đó lại sẽ phải cạnh tranh với chính những thuộc địa cũ đang lớn lên mạnh mẽ về kinh tế và quân sự, vì cùng là đẳng... mua kỹ thuật và gia công phần cuối. Đông Âu có thêm các nước cũng cùng tính chất, Canada, Nhật, Bắc Âu.... thì các nước thuộc địa cũ càng lớn chúng càng khoái, vì bán kỹ thuật.
Trong thời gia từ sau chiến tranh Napoleon đến sau chiến tranh Pháp Phổ, nước Pháp có chính trị rối beng beng. Trong suốt khánh chiến 9 năm cũng vậy. Người ta ví nước Mẹ Ghẻ ta là một madame, bà Đầm, rất quý phái, bị thằng phát xít to con nó cưỡng bức, ấy đi ấy lại. Bà có tâm thần rối loạn của người vừa thích, vừa tức, vừa thèm, vừa sợ, vừa thoả, vừa nhục... cái sự ấy. CỤ thể hơn, mỗi lần bại trận, chính trị Pháp lại ổn định chút trong trạng thái phát rồ, lúc đó thì khoa học, khoa học súng ống tiến bộ chút. Nhưng lâu không bị ấy, thì chính trị lại bị hủ thối, thành một đống bát nháo. Ví dụ, nhờ Napoleon bại mà quân Pháp được trang bị tầu hơi nước, súng trường có hạt nổ. Hay sau 1870 đầu hàng Phổ có Gras lừng danh, vỏ đồng. Sau 1945 có MAS 49 (MAS = Manufacture d'armes de Saint-Étienne), kiểu súng ấp ủ từ đầu tk20, nhưng chưa bị ấy, chưa phòi ra được. Nói rõ ra, chính trị Pháp đã quá già, hủ thối, khi thường thì không ai nói được ai, rất cần .... ấy cho có cảm giác trẻ trung.
Trong suốt thời gian dính dáng đến ta, Mẹ Ghẻ luôn có trào lưu nhái lại Đông Âu một cách mù quáng, xen kẽ những phát minh riêng chết yểu, yểu vì cập cợi, chỉ xem trọng những vỏ ngoài, mà không hiểu được cốt lõi khoa học súng, bắt chước như vẹt. Ví dụ Casimir Lefaucheux và nhiều người khác ở Anh, Mỹ a dua phong trào nạp đạn sau, đoán mò rằng các bác học Đông Âu mò mẫm nạp đạn sau để bắn nhanh, đâu có phải, người ta nạp đạn sau để bắn được đạn khít, xoắn, chính xác. Vậy nên Lefaucheux không đưa ra được khẩu súng nào ưu thế từ lần trình bầy phát minh đầu tiên năm 1826. Cũng vì lý do đó, "Le mousqueton de cent-gardes de 9 mm Treuille de Beaulieu modèle 1854 du premier type",
http://armesfrancaises.free.fr/Mousq%20Treuille%20de%20Beaulieu%20mle%201854%201er%20type.html , có hẳn đạn vỏ đồng, bắn nhanh, bắn nhanh hơn các súng khai hậu Đông Âu lúc đó, đường kính 9mm ưu việt, nhưng lại kém chính xác do búa rất rung đứng, cuối cùng, kiểu "siêu hiện đại" này nhường chỗ cho súng nạp miệng cũ Fusil d'infanterie de 17,8 mm modèle 1857
http://armesfrancaises.free.fr/fusil%20d%27infanterie%20Mle%201857.html . Đến fusil d'infanterie de 11 mm modèle 1866 Chassepot lại vỏ giấy bắt chước M1841 Phổ quá lạc hậu so với các vỏ đồng khai hậu Đông Âu đương thời, như Krnka. Tabatière Mle 1867 Fusil khai hậu như Đông Âu không được trang bị nhiều trong quân chính quy, nhưng lại được dùng rộng rãi (đến kháng chiến 9 năm còn nhiều, chống Mỹ vẫn dùng=chúng bắn rất chậm nên lâu mòn, và cùng với đó là rất nhiều các phiên bản khai hậu không rõ nguồn gốc, cho thấy, tuy quân chính quy chê, nhưng dân sự và lê dương khoái, dùng nhiều, thuê làm nhiều). Và sau bại trận 1870, lại bắt chước trào lưu Berdan II, IG71, dùng khoá nòng xoay vỏ đồng, nhưng không cải gì nhiều từ modèle 1866 Chassepot.
Việc sử dụng thuốc nổ mới cũng thế, cho đến nay, liệt não các xứ vẫn tập hợp trong wiki khoe nước Pháp dùng thuốc nổ có năng lượng / khối lượng lớn, ưu việt .... thật ra, thuốc nổ mới chỉ là chất liệu cho thuốc viên, và không có kỹ thuật viên thuốc, Anh Mỹ dùng cordite dẻo cho đến sau WW2, còn Cardinal de Richelieu văng nòng trong trận đánh đầu tiên.
Poudre_B của wiki "three times more powerful than black powder for the same weight"
http://en.wikipedia.org/wiki/Poudre_Bvà lợn, Gras vẫn vậy. Thuốc khoẻ thì phải bớt liều đi (5,25-> 3,3), và vẫn vậy. Đức Hồng Y Giáo Chủ bị liệt não bởi wiki nên mới sính sáng "three times more powerful than black powder for the same weight", và bay mất mũi trong trận đầu tiên, phát bắn đầu tiên trong đời của khẩu đó (chắc thuốc đã sai cộng thêm khuyết tật gì đó về cơ khí)). Nòng của Đức ông luyến tiếc viên đạn, toác ren nối receiver, bay về trước 8 mét, đây là nói đại pháo của thiết giáp hạm=loại súng to nhất quả đất, tức 380 mm CaL 45 Modèle 1935 , nạp đạn bằng thuỷ lực, chứ hổng phải súng trường nha. Ngay sau đó, tháp pháo khác của Đức Ông cũng liệt , cũng vì lỗi thuốc. Những khẩu còn lại được rút liều sẵn sàng chiến đấu, nhưng lại dẫn đến đo tầm sai và thế là Đức Ông không bắn trúng phát nào. May mà địch không biết điều đó, cho là nguyên nhân khí hậu, co cằng chạy. Đức Ông sống sót được ở châu Phi vì Đồng Minh không dánh nữa, hy vọng Đức Ông chuyển sang phía Đồng Minh, điều đó thành sự thật 10-1942, Đức Ông rụng nòng (tháp pháo số 2 tình từ trước ra sau, nòng thứ 2 trong 4 nòng, tính từ phải sang, nhìn về trước), khật khưỡng đến Newyork nằm viện.
http://armesfrancaises.free.fr/fusil%20d%27infanterie%20Mle%201874.htmlhttp://armesfrancaises.free.fr/Car%20de%20cavalerie%20GRAS%20Mle%201866-74%20M80.htmlTrong trào lưu súng có băng kẹp đạn), Lebel nhái vội vàng phiên bản cổ lỗ Gendarmerie Repetier Gewehr System - Früwirth M1872 với băng dọc, trong khi đó, bản thân Gras rất dễ cải tiến sang có băng, do đã mất khối lượng và kích thước cho cơ cấu bịt đáy nòng không quay (do ban đầu chưa thiết kế được móc vỏ đạn cho phép bịt đáy nòng quay), bịt đáy nòng không quay rất dễ dàng thêm móc đạn trong băng.Trong khi, Mannlicher Model 1886 phải cải lại khoá nòng thành không quay để móc đạn từ băng (khai sinh ra khoá nòng chèn nghiêng). Vì đạn chọc nhau phát nổ trong thời đạn đồng cứng, nhọn (Früwirth M1872 là đạn chì), mà Lebel cải tiến cải lùi, cuối cùng dùng băng ngang như thiên hạ trong model 1892. Nhưng, người ta làm bịt đáy nòng xoay để làm khoá nòng xoay có tai, rất nhẹ, do vùng chịu lực mạnh rất ngắn, nhưng các Lebel dù cải tiến cải lùi thì vẫn dùng cái tay kéo và thân hộp khoá nòng (receiver) to khủng của thời Gras còn chịu áp lực đạn nổ, hài đến cái cơ cấu nối bịt đáy nòng-tay kéo, M1892 quay cùng nhau nhưng vẫn dùng cái móc của thời... ly hợp Gras, đây là đỉnh cao của hài hước trong thiết kế súng, model này là tiền thân cho Anh Đô Si Noa chúng ta được thừa kế.
Tuy vậy, ở sát Đông Âu, thì trong khối Tây Âu Anh Pháp Mỹ, bà Đầm Son loè được khối Mèo. Người Anh ngay gần Đông Âu thì bĩu môi, họ cũng biết nhái súng Mannlicher của Áo. Còn các bác Mèo sái cổ ngưỡng mộ Đầm Son. Ví dụ, loại đạn lõm đuôi đã được dùng nhiều ở Đông Âu (không dùng ở Dreyse M1841 Phổ thời gian đầu do đặt hạt nổ đúng chỗ lõm), ví dụ, các mẫu đạn ban đầu Kammerlader-1842 của Na Uy. Thế nhưng, ở Mỹ, đạn này có tên Miniê, một sỹ quan Pháp mang sang đó năm 1859. Ngày nay, người Mỹ vẫn gọi đó là đạn Miniê, và họ có nhiều phát minh nhất thế giới, trong đó có toàn bộ các chi tiết AK, cũng là từ đó. Suốt tk20, Mỹ nhái pháp Pháp, lựu pháo và pháo săn tăng như nhau...(như Longtom dùng ở ta), cũng vì ngưỡng mộ Đầm Son. Đỉnh cao của ngưỡng mộ là câu chiện hài Colt, Chauchat->BAR, Chauchat 20 viên, BAR cũng 20, Mèo ngưỡng mộ luôn cả cái cố tật đạn côn với gờ Lebel, gia thêm dốt nát của Chauchat, băng quá cong, không quá được 20 viên (đã cong kịch). Các bạn biết ko, người Mỹ và rất đông dân tiếng Anh gọi kiểu khoá nòng quay cán tròn xoay là "kiểu Pháp", mặc dù, nó xuất phát từ Dreyse M1841 Phổ, qua các kiểu súnng khác nhau, và Mauser, Mosin, AK vẫn thế. Cũng tôm cá đồng bóc, các bác Mèo cũng như Đầm Son, bàn thiết kế vũ khí trong salon, mục tiêu là bắn thủng các quý bà quý cô cầm cổ phiếu, chứ không vì mục tiêu bắn thủng địch, và trong các "trận đánh" đó bên mèo hồi cuối tk19 đầu tk20, thì "kiểu Pháp" rất sang trọng, chứ không bác Mèo nèo nói đó là toàn "kiểu nhái Đông Âu".
Cái duyên Đầm Mèo có bác vua buôn vua súng trường Colt, chiện về bác còn nhiều. Sau 1945, trong trào lưu súng trường xung phong, Armalite chưa kiểm tra kỹ đã nhai lại cái "key" của AG-42 Thuỵ Điển, key này có nguyên lý giống đúc, nhưng hình dáng làm ngược với phát minh mà chỉ riêng Mẹ Ghẻ Đại Tây Phú nhà ta dùng trên thế giới, đích thị là kiểu Pháp, là trích khí ống dẫn, đẩy trực tiếp bệ khoá nòng, sau một thời gian rất dài đình đốn (bắt đầu có bản vẽ từ 1900), mới thấy trong MAS-49 ( ta gọi là MAS bán tự động, max bán tự động ). Tuy vậy, MAS này có key ngược với Armalite AR-15 và AG-42. Thật ra, người Thuỵ Điển không cần nhiều súng tốt, chỉ cần có thiết kế súng, để không phải mua của bên nèo trong WW2, mà mua của bất cứ thằng nèo, cũng bị thằng kia bắn vẹo sườn tắp lự, và họ đã thực mục sở thị và kêu ca nhiều về cái kiểu trích khí này rùi. (Và cũng thật ra, MAS-49 chỉ hoàn thiện khi nhái AG-42 cái khoá nòng với bệ khoá nòng rất dễ sản xuất, theo mẫu SVT, chính xác hơn là khoá nòng MAS-49 rất giống SKS xê ca xê).
http://www.gotavapen.se/gota/artiklar/ag42/ag42.htmhttp://world.guns.ru/rifle/rfl17-e.htmhttp://www.gotavapen.se/gota/artiklar/ag42/ag42eng.htmSau đó, thay mặt AG-42, đến khẩu AR-18, phiên bản hoàn thiện của AR-15, đã bê cái trích khí của SVT về. Chán đời cho Tokarev, ông chót theo + sản trong thời chiến tranh lạnh, không thì đòi được khối măn ni license của AR, FN FAL, G36, XM8.... Ngay cả G43 vẫn thế, có điều, sau 1945, SVT mải vui chiến thắng quá mà quên đòi... xiền license của chú tù binh. Nhưng chú đẻ non AR-15 vẫn lên ngôi sống cạnh AR-18, bất chấp tất cả những đồng minh thân cận nhất của Mỹ như Nhật, Anh, Canada, Úc.... đều dùng FN FAL và AR-18. Đó là cái mà nước Pháp xuất khẩu được về mặt kỹ thuật súng ống, kỹ thuật chính trị rối ren, kỹ thuật nhồi súng lởm, kỹ thuật vua súng trường-tức độc quyền súng trường tiêu chuẩn, kỹ thuật bảo vệ vua đẻ non, vua lởm...
Và kỹ thuật bại trận triền miên, không khi nào thắng trận... nhưng vẫn xưng là siêu cường. Kỹ thuật đó mút ngân sách không phải bằng vật lý, pháp lý... mà bằng sinh lý, loè loẹt, phấn son, đồng bóng, ảo giác, nhồi sọ... và gian trá. Thực chất, đó là kỹ thuật bê bối, càng bê bối, càng không cạnh tranh kỹ thuật, càng kém kỹ thuật, càng bê bối. Sau chiến tranh VN, thì về khoản này, anh Mèo cũng quay sang Đức, lúc đó nhảy từ Đông sang Tây Âu, bà Đầm Son, Mẹ Ghẻ của chúng ta lại vêu mõm, đến cả cái đó cũng không xuất được.
Nước Pháp bán súng ống cho Việt Nam từ thời Gia Long cõng rắn cắn gà. Gia Long cắm con, lấy tiền mua súng, tranh thủ lúc nhà người ta có loạn mà cướp lấy, và bán nước từng mẩu, dần thành từng mảng, và bán hết, chúng ta biết rồi. Trong thời gian nhà Nguyễn cầm quyền, thật ra, súng pháo Pháp không nhiều. Về pháo, đa phần vẫn là pháo thừa kế kỹ thuật Thần Cơ Pháo, với cốc mồi vuông, có nắp trên sâu, để cắm chèn gỗ phòng ẩm, rất đặc trưng của nhà ta. Một số pháo nhập khẩu đa phần kiểu Anh, được Mỹ bán tháo vũ khí quân miền Nam sau Nội Chiến, đặc trưng bởi kiểu cốc mồi có nắp bản lề = phát minh của Armstrong-Frederick đầu tl18 ở Anh (rất giống các cốc mồi trong các loại Thần Cơ tầu tk15, khi người Anh đi đến các xứ ẩm, họ thấy cần kiểu này). Ngoài ra, Một số khẩu Carronade và hải pháo nhỏ (kiểu ship of the line Anh trước Nội Chiến Mỹ, lai giữa lựu pháo và pháo nòng dầy Đông Âu, để bắn đạn xuyên đường kính lớn, không xiên vào gỗ bởi lỗ nhỏ ít chảy nước, mà phá vỡ gỗ). Điều này cho thấy, tiền của Pháp không dành mua súng Pháp, sau đó, tiền của Triều Nguyễn cũng thông qua các thương lái mua lại súng... cũ, về pháo thì chủ yếu từ Anh và hàng thải nội chiến Mỹ. Và cũng tất nhiên, với trang bị lôm côm như thế, nhà Nguyễn không hề có một học thuýen quân sự đúng đắn, một thiết kế tiêu chuẩn rút từ học thuyết đó, dẫn đến hướng phấn đấu đúng đắn. Không những thế, những tài nguyên quý bị dồn vào các pháo lế, như 9 khẩu "Cửu Vị Thần Công", lại còn 3 khẩu "Bảo Quốc An Dân" không rõ mục đích, trên đường chở ra bắc bị đắm, mới cẩu lên được, tất cả các khẩu này đều có thiết kế Đại Cồ Cạc, đặc trưng ở cốc mồi.
Nói về cái mạt hạng của Nguyễn Triều thì còn rất nhiều.