Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 07:33:34 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Nội chiến Hoa Kỳ  (Đọc 64096 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« vào lúc: 06 Tháng Chín, 2010, 08:31:13 pm »



Tên sách: Nội chiến Hoa Kỳ
Tác giả: Charles P.Roland
Người dịch: Kiến Văn - Tuyết Minh
Nhà xuất bản: Văn hoá Thông tin
Năm xuất bản: 2007
Số hoá: ptlinh, chuongxedap


NỘI CHIẾN HOA KỲ
Charles P. Roland.
 -------------------------------------------------------
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA THÔNG TIN.
43 Lò Đúc - Hà Nội
 -------------------------------------------------------
Chịu trách nhiệm xuất bản: BÙI VIỆT BẮC.
Biên tập: Nguyễn Thế Vinh.
Trình bày: Đông Phương
Vẽ bìa: Hs. Lan Nhi.
Sửa bản in: Ngọc Tuấn
 -------------------------------------------------------
CÔNG TY CỔ PHẦN VĂN HÓA VĂN LANG - NS. VĂN LANG
25 Nguyễn Thị Minh Khai, Q.1, TP.HCM ĐT: 8.242157 – 8.233022 - Fax: 84.8.235079
 -------------------------------------------------------
In 1000 cuốn khổ 13.5x21cm tại Xưởng in CN Trung Tâm Hội Chợ Triển Lãm Việt Nam.
Số đăng ký KHXB 262-2007/CXB/10-43/VHTT ngày 17.04.2007.
In xong và nộp lưu chiểu quý 3 năm 2007.













LỜI TỰA


Cách nay hơn một thế kỷ, người Mỹ phải chịu hậu quả của một cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn” gây tổn thất to lớn. Cuộc chiến này tái hiện lại hầu như toàn bộ chủ nghĩa anh hùng và đức hy sinh, sự tàn bạo và nỗi kinh hoàng của cuộc chiến giữa người Hy Lạp với người dân thành Troy xưa kia. Sau nội chiến Hoa Kỳ, chiến thắng của Liên bang miền Bắc đã mãi mãi thay đổi tiến trình lịch sử của nước Mỹ, và như vậy cũng thay đổi tiến trình lịch sử nhân loại.

Tác phẩm Nội chiến Hoa Kỳ súc tích nhưng dễ hiểu theo lối văn kể chuyện. Chuyện kể về cuộc chiến tranh “máu chảy ruột mềm” của người Mỹ. Sách không chỉ phân tích nghiên cứu về xu thế nguyên nhân và hệ quả hoặc những bài học xương máu rút ra từ cuộc chiến, mà nó còn kể về diễn tiến cuộc chiến tranh cục bộ này. Sách nhấn mạnh chủ yếu vào hành động quân sự, một thành tố giúp phân biệt chiến tranh với tất cả các hoạt động khác của con người. Nó đề cập đến nhiều vấn đề chính trong sự phát triển của chính trị, kinh tế, ngoại giao, xã hội và văn hóa của thời kỳ ấy, sách cho thấy diễn tiến mọi mặt đã tác động đến tiến trình xung đột như thế nào.

Tổng thống Lincoln nổi lên như một nhà lãnh đạo chiến tranh kiệt xuất. Điều này thể hiện ở đức tính kiên trì theo đuổi mục đích của ông: gìn giữ Liên bang Hoa Kỳ, không chấp nhận chính quyền miền Nam li khai. Đồng thời ông vẫn rất linh hoạt trong việc chấp nhận mục tiêu của cuộc chiến là giải phóng chế độ nô lệ. Sách không quên vạch ra những hệ quả không mấy tốt đẹp của chiến tranh luôn đi kèm với tình trạng xâm chiếm, phá hủy và xâu xé lẫn nhau từng một thời “như nấm sau mưa” ở miền Nam nước Mỹ.

Cuối cùng, sách mang lại cho độc giả sự nhẹ nhõm khi đánh giá những hậu quả bao quát của cuộc chiến này. Liên bang Hoa Kỳ đã được gìn giữ trọn vẹn với những lý tưởng về tự do, công bằng, và một chính phủ dân chủ được Lincoln trình bày trong bài phát biểu nổi tiếng nhất của ông: Diễn văn Gettysburg. Câu chuyện về nội chiến Hoa Kỳ là một thiên sử thi của dân tộc Mỹ.
« Sửa lần cuối: 30 Tháng Tư, 2020, 04:55:11 pm gửi bởi Giangtvx » Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #1 vào lúc: 06 Tháng Chín, 2010, 08:39:10 pm »


I
Bước ngoặt chính trường
---------------X---------------

Một quang cảnh đầy kịch tính bắt đầu tại Nghị viện Hoa Kỳ. Hôm đó là ngày 29/01/1850. Thượng nghị sĩ đáng kính, đảng viên đảng Whig, ngài Henry Clay bang Kentucky đang trên bục diễn thuyết. Cả khán phòng im lặng lắng nghe. Nổi tiếng là một bậc thầy về nghệ thuật hòa giải chính trị. Thượng nghị sĩ Clay vừa trở lại nghị viện sau khi nghỉ ngơi khá lâu. Ông hy vọng tìm được một giải pháp tạm làm lắng dịu những cảm xúc ray rứt nảy sinh trước thực tại của miền Bắc và miền Nam, đồng thời đưa đất nước trở lại cảnh thanh bình.

Bế tắc nảy sinh từ những bất đồng về xã hội, văn hóa, kinh tế và chính trị vẫn tiếp tục không có lối thoát. Những bất đồng trong việc diễn giải hiến pháp và tính hợp pháp của ngân hàng Hoa Kỳ, những khoản chi tiêu của chính phủ Liên bang và một loại thuế bảo hộ đã gây căng thẳng đáng sợ giữa miền Bắc và miền Nam. Nhưng vấn đề gây căng thẳng lớn nhất và dai dẳng nhất vẫn là vấn đề sở hữu nô lệ. Chiếm hữu nô lệ là một thể chế đã hình thành và gây căng thẳng giữa hai miền. Bản thân vấn đề chiếm hữu nô lệ đã thực sự là một yếu tố gây tranh cãi và phẫn nộ cả về mặt cảm xúc lẫn đạo đức.

Thỏa ước chính trị lớn đầu tiên về vấn đề này (theo sau việc áp dụng hiến pháp Hoa Kỳ) là Thỏa ước Missouri. Thỏa ước ra đời năm 1820 sau một cuộc tranh cãi gay gắt tại hạ viện. Ngoài việc công nhận bang Missouri là bang có quyền chấp nhận thể chế chiếm hữu nô lệ là hợp pháp, và bang Maine là bang tự do để giữ thế cân bằng, theo thỏa ước này, chế độ tiếm hữu nô lệ bị cấm tại các miền đất thuộc Liên bang ở miền Bắc giới tuyến. Còn miền Nam giới tuyến cho phép chế độ nô lệ được tồn tại.

Sự bất đồng về tính pháp lý của thỏa ước này đã làm dấy nên nỗi sợ hãi sâu xa trong lòng không ít chính trị gia nước Mỹ. Từ nơi nghỉ dưỡng tại Monticello, cựu Tổng thống Thomas Jefferson, người Virginia đã viết: “Vấn đề quan trọng này như một hồi chuông báo cháy ngay giữa đêm khuya, đã làm thức tỉnh và dấy lên trong tôi nỗi kinh hoàng. Tôi cho đó là một hồi chuông báo tử của chính quyền Liên bang. Biên giới về địa lý ăn liền với một nguyên tắc đáng chú ý cả về mặt đạo đức lẫn chính trị sẽ không bao giờ bị xóa mờ. Mỗi một kích thích mới sẽ làm cho lằn ranh chia cắt ấy ngày càng thêm sâu hơn”. Ông còn nói thêm: rất có khả năng miền Nam, một ngày nào đó, sẽ buộc phải viện tới kế li khai và phát động một cuộc chiến tranh tự vệ.

Cựu Tổng thống Jefferson không phải là người duy nhất báo trước viễn cảnh đáng buồn ấy. Với một quan điểm khác với vị Tổng thống nói trên, Bộ trưởng Bộ quốc phòng và tương lai sẽ là Tổng thống của Hoa Kỳ, ông John Quyncy Adams người Massachusetts đã viết bằng tâm huyết trong nhật ký rằng: ông tin sự hi sinh để bảo vệ cho sự nghiệp giải phóng nô lệ là một hành động cao cả. Cân nhắc giữa cái giá phải trả cho một cuộc nội chiến và những hành động cần thiết nhằm giải phóng chế độ nô lệ. Ông viết “thật vinh quang làm sao nếu đó là kết quả của vấn đề. Có thể Chúa trời sẽ phán xét tôi nhưng tôi không dám nói rằng một đất nước không còn chế độ nô lệ không đáng được mong ước”.

Trong vòng ba thập kỷ sau khi hiệp ước Missouri được thông qua, miền Bắc và miền Nam ngày càng trở nên xa cách hơn. Miền Nam thành lãnh địa của cây bông. Có khoảng 3,2 triệu nô lệ da đen làm việc trong những đồn điền ấy. Lượng vốn đầu tư vào số nô lệ da đen này lên tới 1,5 tỷ đô la Mỹ. Những chủ đồn điền lớn đều thuộc tầng lớp “có máu mặt” trong các lãnh vực chính trị, xã hội và kinh tế miền Nam. Các thành phố miền Nam, nếu so với tiêu chuẩn của miền Bắc, có phần nhỏ hơn. Nơi đây là quê hương của nhiều nhà chuyên môn, chủ ngân hàng, các tay buôn nô lệ và chủ nô giàu có. Họ liên kết chặt chẽ cả về mặt xã hội lẫn chính trị với những chủ đồn điền lớn. Các thành phố cũng có một lực lượng đông đảo các chủ tiệm buôn, thợ thủ công lành nghề, và giới lao động bình dân. Nhưng đa số dân miền Nam là người da trắng sinh sống bằng nghề chăn nuôi gia súc hay như những nông dân độc lập.

Mặc dù khoảng 3/4 dân số da trắng ở miền Nam không hề có nô lệ, nhưng người da trắng ở miền Nam nói chung ủng hộ chế độ chiếm hữu nô lệ. Quan điểm này có ảnh hưởng sâu rộng. Tham vọng của đại đa số người dân nơi đây là thành chủ đồn điền và được sở hữu nô lệ. Tuy nhiên, phần lớn quan điểm này xuất phát từ lí lẽ chủ đạo: người da trắng, xét về mặt chủng tộc, có quyền tối thượng. Họ lo sợ giải phóng nô lệ sẽ gây ra cảnh bạo lực lan tràn. Xã hội bị lay chuyển tới tận gốc rễ. Chế độ dân chủ về chính trị ảnh hưởng lên phần lớn các bang ở miền Nam như ở bất cứ nơi nào khác: quyền bầu cử thuộc về đàn ông trưởng thành da trắng. Giới học giả ngày nay vấp phải những thách thức lớn lao khi trung thành với quan điểm phổ biến một thời: các tầng lớp da trắng miền Nam đã từng bị chi phối bởi giới chủ đồn điền giàu có và sở hữu nhiều nô lệ. Thời ấy, ai cũng đồng tình rằng: ở miền Nam, da đen là nô lệ, da trắng là ông chủ. Hầu hết dân da trắng miền Nam đều hiểu rằng: dân chủ bình đẳng tức là: người da trắng có quyền có nô lệ là người da đen.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #2 vào lúc: 06 Tháng Chín, 2010, 08:40:01 pm »


Miền Bắc phát triển toàn diện thành cộng đồng năng động với nhiều hoạt động đa dạng: sản xuất, thương mại, hoạt động ngân hàng, canh tác trồng trọt, có nhân công lao động tự do và các thành phố lớn phát triển nhanh chóng. Tầng lớp chi phối miền Bắc về mặt xã hội và kinh tế bao gồm các thương gia, chủ nhà máy, chủ ngân hàng và giới chuyên môn. Một nửa dân số miền Bắc là nông dân. Phần còn lại là chủ tiệm, thương gia, thợ máy và công nhân làm việc trong các nhà máy.

Chế độ chiếm hữu nô lệ đã bị cấm tại các bang miền Bắc. Đã có thời những bang này công nhận chế độ chiếm hữu nô lệ. Rồi vì nhiều lý do khác nhau, dân cư miền Bắc cùng đồng loạt phản đối thể chế dã man này. Trước hết, sự chống đối xuất hiện từ một lời lên án về mặt đạo đức cho rằng: chế độ chiếm hữu nô lệ, về bản chất, là sai trái. Đó là niềm tin xuất phát từ những ngày đầu người da trắng mới đặt chân lên châu Mỹ. Niềm tin ấy được cộng đồng người Quaker ủng hộ kiên định. Nhưng mãi đến giữa thế kỷ XIX, nó mới được lan truyền rộng rãi trong đa số dân chúng miền Bắc.

Xét về mặt kinh tế, sở dĩ người miền Bắc kiên quyết bài nô lệ là vì họ sợ sự cạnh tranh về giá nhân công của nô lệ và ý thức được rằng công ăn việc làm sẽ bị coi rẻ (vì có chế độ nô lệ). Cuối cùng và cũng là một nghịch lý, yếu tố phân biệt chủng tộc đã góp phần không nhỏ vào quan điểm sống của người miền Bắc. Ác cảm với chế độ chiếm hữu nô lệ thường đi đôi với thuyết phân biệt chủng tộc. Về cơ bản, hai tình trạng này giống nhau. Vấn đề phân biệt chủng tộc đã trở nên căng thẳng. Nó chi phối cảm xúc của người miền Nam về các chủng tộc khác màu da. Rất nhiều người miền Bắc phản đối sự tồn tại của chế độ chiếm hữu nô lệ một phần vì họ phản đối sự có mặt của người da đen trên đất Mỹ.

Trong suốt thập niên ba mươi và bốn mươi của thế kỷ XIX, miền Bắc đã chứng kiến sự náo động trong việc cải cách xã hội và cả cuộc sống của giới tri thức lẫn tôn giáo. Có nhiều phong trào nổ ra nhằm đấu tranh cho sự công bằng, quyền của phụ nữ, phong trào đòi bình đẳng giới, đòi cải thiện cách đối xử với những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần và tiến tới cải thiện sâu rộng xã hội thông qua giáo dục và các hoạt động tôn giáo nhằm thay đổi môi trường sống của con người. Nhưng một phong trào mang tính cách mạng nhất vẫn là cuộc thánh chiến chống lại chế độ chiếm hữu nô lệ. Ông William Lloyd Garrison người Boston là một phát ngôn viên đầy kinh nghiệm trong vấn đề này. Cuộc thánh chiến phát triển và làm thức tỉnh các cảm xúc văn hóa đạo đức, đồng thời lôi kéo được sự quan tâm về mặt kinh tế và xã hội tại miền Bắc.

Người miền Nam phản đối hầu hết các cuộc cải cách, bêu rếu chúng và cho rằng chúng chỉ là những học thuyết sáo rỗng. Càng lúc, miền Nam càng sa vào đường lối bảo thủ trong suy nghĩ. Miền Nam đặc biệt khước từ phong trào bãi nô. Họ bắt đầu coi chủ nghĩa nô lệ là tốt, lương thiện thay vì coi là một tội lỗi. Tôn giáo chính thống (luôn trích dẫn kinh thánh để biện hộ cho chế độ chiếm hữu nô lệ) đã trở thành một thành trì vững chắc che chở cho các nền văn hóa miền Nam. Đáng ngại thay, hai tôn giáo lớn ở Mỹ là Baptist và Methodist, đã chia rẽ thành nhiều chi nhánh rạch ròi giữa miền Bắc và miền Nam. Giáo hội trưởng lão chia thành hai trường phái mang những tư tưởng về mặt xã hội và thần học khác biệt nhau một trời một vực.

Chế độ chiếm hữu nô lệ là một trong những vấn đề nổi trội và gây nhiều bức xúc tại các sự kiện chia rẽ về tôn giáo. Nhưng sự chia rẽ về tôn giáo này thực chất là dấu hiệu cho thấy mối bất hòa ngày càng lớn giữa quan điểm thần học của cả hai miền. Đức cha James H. Thornwell, một nhà thần học hàng đầu và là một trí thức của miền Nam cũ, đã so sánh quan điểm của hai miền như là một trận chiến quyết liệt giữa cái thiện và cái ác, cả về mặt tâm linh, văn hóa và xã hội: “Hai phe trong cuộc xung đột này không chỉ là những chủ nô và người chủ trương bài nô. Kẻ vô thần, các nhà xã hội học, người cộng sản, các thầy tu dòng Dominic ủng hộ chế độ cộng hòa đứng về một phe. Những người của chế độ tự do ôn hòa ở phe kia. Nói cách khác, thế giới là bãi chiến trường. Người cơ đốc giáo và kẻ vô thần là chiến binh. Tiến trình phát triển của nhân loại đang lâm nguy”.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #3 vào lúc: 06 Tháng Chín, 2010, 08:40:43 pm »


Vào năm 1850, khi Nghị sĩ Clay đọc diễn văn tại thượng viện, nỗi bất hòa cục bộ đã bùng phát một cách nguy hiểm khi bàn tới vấn đề mở rộng lãnh thổ có chiếm hữu nô lệ đến phần đất được người Mêhicô nhượng lại. Đó là một khu vực rộng lớn, về mặt chính trị chưa được tổ chức chặt chẽ, mới được người Mỹ tiếp nhận sau cuộc chiến với Mêhicô (1846 - 1848). Sau này, nó sẽ trở thành một hoặc nhiều phần trong sáu bang của miền Tây Nam nước Mỹ. Thành viên của thượng viện chia thành bốn nhóm mang quan điểm đối lập về vấn đề này. Quan điểm cực hữu của người miền Bắc đã được thể hiện rõ trong bản Wilmot Proviso, một biện pháp được đệ trình nhưng đã bị bác bỏ trong chiến tranh. Điều khoản này cho rằng cần phải cấm chế độ nô lệ phát triển ở bất cứ vùng đất nào thu được từ những cuộc chiến. Đảng viên đảng Whig, thượng nghị sĩ Willam H. Seward của New York là một người ủng hộ nhiệt tình quan điểm này. Quan điểm cực đoan miền Nam khăng khăng ủng hộ nguyên tắc được nghị sĩ thuộc đảng Dân chủ, ông John C. Calhoun người miền Nam Carolina nêu ra: đòi quyền bảo hộ của chính quyền Liên bang với các chủ nô và tài sản của họ ở bất cứ lãnh địa nào.

Hai bên cùng lôi kéo một nhóm trung lập. Những người tin vào một thể chế dân làm chủ, với dẫn dắt của một thượng nghị sĩ thuộc đảng Dân chủ (ông Stephen A. Douglas của bang Illinois, Chủ tịch ủy ban phụ trách về các miền lãnh thổ của thượng viện) kêu gọi hạ viện không can thiệp. Hãy để người định cư tại các vùng lãnh thổ đó tự quyết định họ có nên công nhận tính hợp pháp của chế độ nô lệ ở từng địa phương hay không. Cuối cùng, phải kể đến những người mong đợi hiệp ước Missouri sẽ được phổ biến đến cả khu vực Thái Bình Dương. Thượng nghị sĩ thuộc đảng Dân chủ Jefferson Davis bang Mississipi là người ủng hộ hàng đầu cho đề xuất này.

Không một người Mỹ nào nghi ngờ về tính nghiêm trọng của thời điểm này. Năm trước, ông Calhoun đã soạn thảo một bản tuyên ngôn thúc giục các bang có chế độ chiếm hữu nô lệ hãy liên kết lại với nhau về mặt chính trị để chống lại các lực lượng bãi nô đang ngày càng phát triển ở miền Bắc. Theo lệnh ông, một cuộc họp gồm các đại biểu đến từ các bang chấp nhận chế độ chiếm hữu nô lệ đã được tổ chức vào mùa hè năm ấy tại Nashville. Hội nghị không có một thỏa thuận chấp nhận vấn đề “nô lệ trên lãnh thổ có được từ cuộc chiến tranh Mỹ - Mêhicô”. Rõ ràng, hội nghị Nashville sẽ chấp nhận biện pháp cuối cùng trong quyền hợp pháp của các bang do ông Calhoun là tác giả: đó là biện pháp ly khai.

Trong đề nghị của mình, Thượng nghị sĩ Clay trình bày một vấn đề gây tranh cãi từ mọi phía. Ông kêu gọi mọi người thừa nhận: 1) California là một bang tự do bởi dân số của nó đã quá đông do phong trào đổ xô tìm vàng xuất hiện vào năm 1849. California có diện tích rộng lớn đã chấp thuận thể chế ngăn chặn sự phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ. 2) Phần còn lại của vùng đất chiếm được sau chiến tranh Mêhicô và Mỹ là Utah và New Mexico sẽ được tổ chức thành vùng lãnh thổ không có “Bất cứ sự hạn chế hoặc điều kiện nào về vấn đề chiếm hữu nô lệ”. 3) Mối bất hòa giữa Texas và New Mexico sẽ được giải quyết theo hướng có lợi cho New Mexico, nhưng kèm theo là sự đền bù cho bang Texas bằng việc mua lại các trái phiếu của chính quyền bang này. 4) Hủy bỏ buôn bán và vận chuyển nô lệ giữa các bang nhưng không hủy bỏ chế độ chiếm hữu nô lệ trong khu vực của Columbia. 5) Một điều luật có liên quan đến nô lệ bỏ trốn có hiệu lực sâu rộng buộc nhà chức trách địa phương và các bang phải hỗ trợ cảnh sát Liên bang trong việc bắt giữ và giao trả nô lệ đào tẩu ở bất cứ nơi đâu trên nước Mỹ.

Ông Clay đã sử dụng mọi kỹ năng thuyết phục hữu hiệu trong bài diễn văn mang tính chất lịch sử này. Gần cuối bài diễn văn, ông giơ cao một mảnh vỡ được cho rằng lấy từ quan tài của Tổng thống George Washington, như một di vật của cây thánh giá và hô hào mọi người trong khán phòng thiết lập ngay các biện pháp cần thiết để bảo toàn nền cộng hòa mà tổng thống Washington xưa kia đã phải vất vả biết bao mới kiến tạo nên.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #4 vào lúc: 06 Tháng Chín, 2010, 08:41:15 pm »


Ngày 05 và 06 tháng 02, ông Clausewitz một lần nữa lại xuất hiện trên bục diễn giả tại nghị viện để đưa ra lời kêu gọi làm xúc động đến tận tâm can của người nghe. Lần này những dữ kiện của ông đều nhằm hỗ trợ cho những đề xuất ông đã đệ trình nghị viện trước đây. Ông cầu xin lòng nhân từ và tinh thần thỏa hiệp của các bên. Ông bộc lộ nhiều bức xúc của dân Mỹ trong việc phản đối chế độ nô lệ. Họ cho rằng chế độ nô lệ không thể phát triển rầm rộ tại miền Tây Nam nước Mỹ bởi vì đất đai và khí hậu ở đây không phù hợp để thiết lập các đồn điền trồng trọt. Ông tiên đoán vô cùng chuẩn xác rằng: mọi hành động gây bất hòa sẽ dẫn đến một cuộc nội chiến đẫm náu. Ông kết thúc bài diễn văn với một lời khẩn nài rằng: các thượng nghị sĩ “hãy nghiêm túc suy nghĩ và dừng lại ngay bên bờ vực dốc đứng trước khi thực hiện bước nhảy thảm họa và kinh hoàng xuống vực thẳm phía dưới”.

Triết lý sâu xa và kỹ năng hùng biện chính trị nổi bật, thể hiện trong nhiều bài diễn văn của thượng nghị sĩ Clay và hai chính trị gia đáng kính khác của diễn đàn thượng viện Mỹ (Calhoun và Daniel Webster). Trong số họ, người kế tiếp gây ấn tượng mạnh mẽ sau Thượng nghị sĩ Clay là Calhoun. Khi mới tham gia làng chính trị, ông là người theo chủ nghĩa dân tộc nhiệt tình. Nhưng giờ đây, sau hai thập kỷ, ông đã trở thành nhà bảo vệ chủ nghĩa cục bộ và ủng hộ miền Nam. Ông Calhoun có học thức uyên bác và kiên định theo đuổi mục đích. Ông từ lâu đã tìm kiếm phương cách dung hòa lợi ích quốc gia và lợi ích của miền Nam bằng cách kết hợp nhiều ý tưởng về chủng tộc, kinh tế, chính trị thành một lý thuyết giai tầng xã hội nhằm bảo vệ quan điểm của người miền Nam và thể chế sở hữu nô lệ ở vùng này.

Ông cho là bất hòa giữa hai miền xuất phát từ sự mất cân bằng giữa miền Bắc chiếm đa phần dân số và lãnh thổ, còn miền Nam chiếm thiểu số và từ những hành động thiên vị của chính phủ Liên bang. Cũng giống như ông Clay, ông Calhoun tiên đoán sẽ có ly khai xảy ra trừ khi, những biện pháp thích hợp được áp dụng để khôi phục sự cân bằng.

Điều ông Calhoun nghĩ nhưng không nói thẳng là: hãy thiết lập một thể chế có hai phần chính đồng thời tồn tại. Thể chế này được mô tả như một sự phân chia quyền lực chính trị “Để trao cho khu vực hiện đang yếu hơn một quyền phủ quyết động thái của chính phủ”, đặc biệt là, thông qua việc thiết lập thể chế hai Tổng thống, mỗi Tổng thống điều hành và đại diện cho một khu vực của đất nước và đều có quyền phủ quyết các đạo luật của hạ viện.

Ba ngày sau, mùng 07 tháng 03, Thượng nghị sĩ Wester xuất hiện. Ông Wester đã thay đổi: từ một người theo chủ nghĩa cục bộ thuộc miền New England của những ngày đầu lập quốc lên vị trí một phát ngôn viên có quyền tối thượng của các nhân vật cấp cao trong chính phủ Liên bang. Nếu ông Calhoun nổi tiếng và có máu mặt trong mọi lãnh vực xã hội, kinh tế, chính trị của miền Nam nhờ theo chủ nghĩa cục bộ, Wester nổi tiếng là một công dân New England đáng kính về mặt xã hội, kinh tế và chính trị nhờ quan điểm dân tộc chủ nghĩa.

Dù trước đây ghét cay ghét đắng chế độ chiếm hữu nô lệ và chống đối sự bành trướng của nó, giờ thì ông Webster đã chấp nhận nó (điều này khiến chính phủ Liên bang ở miền Bắc lo sợ). Chính kiến của ông rõ ràng mang tính chất hòa giải. Ông nói: “không phải với tư cách một người dân Massachusetts, không phải với tư cách là một người miền Bắc mà với tư cách là một người Mỹ”. Ông đòi hỏi, và yêu cầu những đồng nghiệp miền Bắc hãy kiên nhẫn trong nỗ lực ban hành điều khoản Wilmot. Đồng thời ông cũng tin chế độ chiếm hữu nô lệ đã phát triển đến giới hạn của nó về mặt địa lý. Nhưng ông cảnh báo những đồng nghiệp miền Nam rằng việc li khai trong hòa bình là không thể. Ông thúc giục toàn quốc chấp nhận những đề xuất thỏa hiệp đã được đưa ra. Bài diễn văn này được người ta nhớ đến như một bài diễn văn hay nhất của Thượng nghị sĩ Wester.

Hạ viện chấp nhận những lời đề nghị nhưng không phải do áp lực trực tiếp những lời khẩn nài từ Chay và Wester. Cuối cùng vào mùa thu năm ấy, nhờ tài lãnh đạo của Thượng nghị sĩ Douglas, nghị viện đã phê chuẩn nhiều biện pháp cho tình thế hiện tại. Đồng thời, với hỗ trợ của người phát ngôn của hạ viện theo đảng Dân chủ, ông Howell Cobb thuộc bang Georgia, hạ viện đã chấp nhận sự thỉnh cầu. Trong cả hai trường hợp, chiến thắng có được đều nhờ sự liên kết của các hạ nghị sĩ từ cả hai đảng Whig và đảng Dân chủ của hai miền đất nước.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #5 vào lúc: 06 Tháng Chín, 2010, 08:45:54 pm »


Không có nhà lập pháp nào hành động theo một động cơ thuần túy là lòng yêu nước. Hoàn toàn có lý do để tin rằng ý chí của các chính trị gia của hạ viện đã bị ảnh hưởng bởi những tay đầu cơ trái phiếu của Texas. Những trái phiếu này nếu không được quỹ của Liên bang mua lại sẽ chỉ là đống giấy lộn. Thậm chí số phận của con người cũng liên quan tới bản thỏa hiệp này. Trong mùa xuân và mùa hè năm ấy, hai trong số những người thường mạnh mẽ lên tiếng phản đối thỏa ước đã qua đời. Một là Tổng thống Zachary Taylor, một chủ nô nhưng lại là một người miền Nam theo chủ nghĩa dân tộc. Ông tin rằng vấn đề chiếm hữu nô lệ tại vùng đất giành được của Mêhicô là một sự dối trá và ông coi toàn bộ cuộc tranh cãi này như một biểu hiện của một thủ đoạn chính trị. Người thứ hai là Calhoun. Ông qua đời trước Taylor. Theo người ta kể lại, lời trăn trối cuối cùng của ông là một lời than vãn đầy tuyệt vọng: “Ôi miền Nam, miền Nam đáng thương!”.

Sau khi Thỏa ước 1850 được thông qua, cả quốc gia thở phào nhẹ nhõm. Họ tưởng đâu đó là lúc chấm dứt mối bất hòa bắt đầu từ chế độ chiếm hữu nô lệ. Tổng thống Millard Fillmore, người kế nhiệm ông Taylor đã ủng hộ nhiệt thành bản thỏa hiệp này. Ông gọi đó là “Cách dàn xếp cực kỳ đúng đắn” của vấn đề chiếm hữu nô lệ tại Mỹ.

h. Lãnh thổ tự do và nô lệ theo Thoả ước 1850

Cuộc họp tại Nashville đã không thể khơi mào một phong trào li khai như những kẻ hiếu chiến miền Nam hy vọng. Các bang miền Nam chỉ thông qua một thỏa ước đặc biệt chú trọng đến các quy ước bầu cử các bang. Nhưng họ cũng cảnh báo rõ ràng rằng bất cứ động thái nào nhằm phá hoại thỏa thuận này cũng sẽ dẫn tới li khai.

Cuộc tranh cử Tổng thống năm 1852 cũng cho thấy cả quốc gia đã tán thành hiệp ước nói trên. Dù cả hai đảng lớn đều tán thành thỏa ước này nhưng người thuộc đảng Whig là tướng Winfield Scott thuộc bang Virginia (cũng là ứng viên của bang này tranh cử Tổng thống) chỉ tán thành nửa vời. Hầu như họ chỉ mặc nhận thỏa ước này mà thôi. Những người theo đảng Dân chủ tán thành với thái độ kiên định. Bằng cách đề cử ông Franklin Pierce thuộc bang New Hampshire, một “ứng cử viên nhu nhược” (một cụm từ người miền Bắc dùng để chế nhạo một người miền Bắc gắn bó và dành nhiều tình cảm cho miền Nam), họ khiến đảng này thiên vị miền Nam rất nhiều. Phe phái thứ ba tham gia tranh cử là đảng Free Soil. Đảng này nhiệt tình với phong trào cấm chế độ nô lệ bành trướng hơn nữa. Cương lĩnh của họ rõ ràng là lên án bản thỏa ước. Họ chỉ trích bất cứ sự bành trướng nào của chế độ chiếm hữu nô lệ, coi đó là tội lỗi. Với số đông thành viên đảng Whig li gián khỏi đảng mình, đảng Dân chủ đã đắt cử.

Nhưng có một sự bất đồng ngấm ngầm và đáng lo ngại đang lan tỏa dưới bề ngoài chấp nhận bản thỏa ước. Hai phát ngôn viên của hạ viện bộc lộ điểm bất đồng này là các thượng nghị sĩ William H. Seward và Jefferson Davis. Ông Seward lên án: thỏa ước chính trị với bất kỳ hình thức nào về bản chất đều là “xấu xa và sai trái”. Ông đặc biệt công kích Thỏa ước 1850, coi đó là sự vi phạm tinh thần hiến pháp. Ông còn nói thêm rằng thậm chí hiến pháp có thể được hiểu như là thừa nhận chế độ nô lệ thì vẫn có “một luật pháp cao hơn nữa” (luật của lương tâm) cho thấy việc thực hành chế độ chiếm hữu nô lệ cần phải được ngăn cấm trong những vùng lãnh thổ thuộc miền Tây nước Mỹ. Ông Davis, thúc giục sự phát triển của vùng lãnh thổ áp dụng các điều khoản của hiệp ước Missouri, lập luận rằng: chế độ chiếm hữu nô lệ thực ra có thể phát triển rực rỡ tại vùng đất giành được từ tay người Mexico. Ông chỉ trích Thỏa ước 1850, coi đó là đại diện của chiến thắng thuộc người miền Bắc. Ông nói: miền Bắc mới chính là kẻ đi theo con đường chia rẽ và binh biến.

Rất nhiều người miền Bắc, đặc biệt là người bang New England, không bao giờ thực tâm chấp nhận Thỏa ước 1850. Chủ trương bài nô chỉ trích thỏa ước này một cách công khai, ông Wester khiển trách sự không khoan nhượng của đồng bào mình. Ông nói: “Bang Massachusetts có thể chinh phục bất cứ ai từ bỏ thành kiến nhưng chính nó lại dung dưỡng cho thành kiến của mình. Vấn đề chính là liệu bang này có từ bỏ chính những thành kiến của mình được hay không”. Ông gán tội phản quốc với bất cứ sự vi phạm nào của thỏa hiệp. Ông đã đi quá xa khi nói rằng: nếu các bang miền Bắc sẵn lòng từ chối tuân thủ hiệp ước này, hạ viện sẽ không thể có kế sách chữa trị thích đáng cho mối bất hòa hiện nay. Các bang miền Nam sẽ “không còn bị ràng buộc phải tuân thủ hiệp ước này nữa”. Rõ ràng đây là một lời biện minh gián tiếp cho động thái li khai. Đã từ rất lâu ông là thần tượng của dân chúng vùng New England. Giờ đây ông đang là mục tiêu chỉ trích của rất nhiều nhân vật đại diện cho quyền lợi của bang này.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #6 vào lúc: 06 Tháng Chín, 2010, 08:48:03 pm »


Hầu như chỉ trong một sớm một chiều, “thỏa ước cuối cùng và không thể bãi bỏ” đã tan thành mây khói. Điều khoản gây phẫn nộ nhiều nhất của bản thỏa ước này (là điều khoản dành cho nô lệ bỏ trốn) đã đụng chạm đến nhiều người dân miền Bắc. Trong khi, với nhiều công dân Mỹ, vấn đề chiếm hữu nô lệ tại vùng đất giành lại từ tay người Mehico dường như quá xa xôi, như chuyện xảy ra ở tận vùng Siberia nào đó, thì điều khoản bắt buộc phải thi hành có liên quan tới nô lệ bỏ trốn đã thường xuyên gây ra cảnh ruồng bố những kẻ chạy trốn trên đường phố miền Bắc. Nhiều đám đông tụ tập tại khắp các con đường trong nhiều thành phố ngăn cản sự dẫn độ nô lệ bị trốn bị bắt. Nổi cộm nhất là vụ Anthony Burns tại Boston (1854). Tại Boston, một đám đông cư dân quá khích đã tấn công lính canh, giết một người trong số họ và vô cùng tức tối khi Anthony Burns bị đưa lên tàu hướng về Virginia. Những sự kiện như vậy càng làm tăng thêm lòng thù hận xuất phát từ chủ nghĩa cục bộ.

Tiểu thuyết Túp Lều Bác Tom của Harriet Beecher Stowe xuất bản năm 1852 càng như đổ thêm dầu vào lửa. Với đa phần dân miền Bắc, trước khi có tiểu thuyết này, chiếm hữu nô lệ là một tội ác trừu tượng mơ hồ. Nó có thể so sánh với tục đa thê ở miền Utah xa xôi hẻo lánh. Trường đoạn của tiểu thuyết kể về một cô gái nô lệ Elisa ẵm theo đứa con nhỏ chạy trốn khỏi những kẻ săn đuổi cô ngay giữa mùa đông bằng cách nhảy trên những tảng băng nổi trên dòng sông Ohio. Hoặc trường đoạn bác Tom tốt bụng và thánh thiện đã bị đánh cho tới chết theo lệnh của gã Simon Legree tàn ác, đã cho thấy bức chân dung đẫm máu của chế độ nô lệ và khía cạnh gây phẫn nộ và mất nhân tính bị che giấu của thể chế này. Dù dưới dạng chuyện phát hành nhiều kỳ hay sách bán chạy nhất hay được dựng thành kịch, thông điệp của tiểu thuyết đã thành mối day dứt in đậm vào ý thức và lương tâm của nhân dân toàn nước Mỹ. Tại miền Bắc nó như một lời lột tả chính xác một chế độ đáng ghê tởm và đáng lên án: chế độ chiếm hữu nô lệ. Tại miền Nam, nó như một lời phỉ báng ghê gớm vào bản chất của người dân trong vùng. Sau này Tổng thống Lincoln đã hoan nghênh tác giả. Ông coi bà là “Người phụ nữ bé nhỏ đã mở màn một cuộc chiến vĩ đại”.

Một triệu chứng cho thấy tính thiếu sức thuyết phục của Thỏa ước 1850 được biểu hiện trong bức tranh chính trị hỗn loạn thời ấy. Ông Calhoun, trong bài diễn văn cuối cùng tại thượng viện, nói rằng: các đảng phái chính trị Mỹ, dù là đảng Dân chủ hay đảng Whig, chính là sợi dây cuối cùng ràng buộc miền Bắc và miền Nam. Nếu những mối ràng buộc này đứt lìa, quốc gia sẽ rơi vào cảnh chia cắt. Một trong những mối ràng buộc ấy (đảng Whig) đã sụp đổ. Điều này xuất phát từ những hoàn cảnh có liên quan tới huyết tộc phức tạp. Nỗi lo lắng về vấn đề sở hữu nô lệ phần nào gây nên hậu quả này: Nó khiến sự sụp đổ của đảng Whig đến sớm hơn. Thêm vào đó, một trong những sự kiện nổi bật nhất giai đoạn này là sự di cư của hàng triệu người châu Âu bắt đầu từ cuối thập niên 40 của thế kỷ XIX. Trong đó tín đồ thiên Chúa giáo người Ireland chiếm đại đa số phần đông đám dân di cư này tham gia hoạt động chính trị và trở thành thành viên của đảng Dân chủ.

Sự xuất hiện của số đông tín đồ thiên Chúa giáo trong lòng một cộng đồng dân cư hầu hết theo đạo tin lành đã khuấy lên nỗi sợ hãi sâu xa về một mối de dọa đối với thể chế cộng hòa và tạo ra làn sóng chống đối người nhập cư mà thực chất là chống đối các tín đồ Thiên Chúa giáo. Vào đầu năm 1845, việc hình thành đảng Native American (Dân Mỹ gốc) cho thấy rõ ràng cảm xúc này đã ảnh hưởng sâu sắc đến chính trị. Thành viên của đảng này còn mang tên Know-Nothing (Không biết gì) bởi họ chọn cách ngấm ngầm để biểu thị niềm tin của mình. Gần gũi và liên quan chặt chẽ với thái độ chống đối người nhập cư là một phong trào cấm đoán hoặc “chủ hòa mạnh mẽ” đang tìm kiếm cách đạt tới mục tiêu của mình thông qua các hành động chính trị. Đảng mới này nhanh chóng giành được sức mạnh vì phản ứng với làn sóng người nhập cư ngày một dâng cao tại Mỹ.

Đảng phái mới này đã thu hút nhiều thành viên từ cả hai miền đất nước và từ các đảng lớn tại Mỹ. Nhưng sự xâm nhập mạnh mẽ nhất của nó xuất hiện tại đảng Whig nhánh miền Bắc vì hầu hết người mới đều định cư tại miền Bắc. Dù thành viên dáng Know-Nothing không có ứng viên tranh cử Tổng thống năm 1852, nhưng chỉ trong vòng hai năm, họ đã chứng tỏ một sức mạnh nổi bật tại các kỳ tranh cử hạ viện lẫn thống đốc bang trong khắp miền Bắc.

Trong lúc đó chủ nghĩa địa phương bắt đầu thách thức chủ nghĩa chống người cơ đốc giáo. Đồng thời, nhiều vấn đề khác liên quan đến người nhập cư đã được coi là mối đe dọa đối với thể chế cộng hòa. Nhiều người miền Bắc lúc này tin có một âm mưu tăng cường thế mạnh nô lệ để chi phối chính phủ, bành trướng chế độ chiếm hữu nô lệ trên khắp nước Mỹ, phá hủy hệ thống kinh tế miền Bắc với các cơ hội rộng mở và chế độ tự do dành cho người lao động, thay thế hệ thống này bằng một quan điểm của giới quý tộc chặt chẽ và trì trệ. Mặc dù không có bất cứ bằng chứng nào về một âm mưu như vậy, ngoại trừ sự tồn tại của một nhóm người quan tâm đến chính trị và kinh tế của miền Nam, niềm tin này không có gì là lạ lẫm. Giờ đây nó đã nhận được sự quảng cáo rùm beng và có sức thuyết phục mạnh mẽ dưới hình thức một điều luật của hạ viện, công khai khơi mào cuộc tranh cãi về vấn đề sở hữu nô lệ tại các miền lãnh thổ của chính phủ Liên bang. Điều luật này đã nhen nhóm lại cuộc tranh cãi gây bất hòa tưởng như đã được giải quyết bằng hai thỏa ước lịch sử: Thỏa ước Missouri và Thỏa ước 1850.

Cuộc tranh cãi được khơi dậy lần này bao gồm phần đất đai chưa được tổ chức về mặt chính trị có được sau khi ký thỏa thuận buôn bán đất đai Louisiana. Vùng này trải dài từ ranh giới bang Missouri và Arizona tới tận đỉnh của dãy Rocky Munytain. Vùng đất này trước kia được coi là không thích hợp với những người định cư da trắng. Đây là vùng hoang mạc rộng lớn của Mỹ, giờ đang nằm trong tay của những dân định cư đến từ Oregon và California. Nằm ở phía Bắc ranh giới được xác định bởi hiệp ước Missouri, vùng này không cho phép sự tồn tại của chế độ chiếm hữu nô lệ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #7 vào lúc: 06 Tháng Chín, 2010, 08:59:41 pm »


Những nhà lãnh đạo miền Nam lo lắng bởi sự mất cân bằng giữa hai vùng miền xuất phát từ sự chấp nhận bang California và cả sự chấp nhận có thể xẩy ra đối với nhiều bang tự do khác. Họ nỗ lực tìm kiếm cách khôi phục lại sự cân bằng bằng cách làm tăng số các bang được công nhận quyền sở hữu nô lệ. Một trong những cách để làm như vậy là gắn những vùng đất đang được mở rộng về phía Tây vào miền Nam, và coi chúng như loại đất đai phù hợp với việc thành lập đồn điền sản xuất nông sản. Hầu hết người miền Nam đều ủng hộ những nỗ lực ngoại giao và cả xâm chiếm bằng vũ trang nhằm chiếm Cuba và nhiều vùng đất khác thuộc Trung Mỹ. Không chỉ đe dọa mối hòa hiếu cần phải có của quốc gia, các lãnh đạo miền Nam cũng tìm kiếm nhiều phương cách nhằm bành trướng chế độ chiếm hữu nô lệ tại những vùng đất nằm bên ngoài tầm ảnh hưởng của hiệp ước mua bán Louisiana.

Năm 1854, họ tìm được một cơ hội nhằm thực hiện mục đích của mình khi Thượng nghị sĩ Douglas của bang Illinois, với tư cách là Chủ tịch ủy ban lãnh thổ, thông qua một dự luật sát nhập khu vực này với vùng lãnh thổ Nebraska, để đẩy nhanh tiến trình xây dựng đường sắt dọc theo một con đường từ miền Bắc cho tới bờ biển Thái Bình Dương. Chỉ với sự hủy bỏ đường ranh giới theo thỏa ước Missouri và kèm theo nhiều nhượng bộ khác ông đã có thể giành được sự hỗ trợ của người miền Nam. Một cách lưỡng lự, ông thêm sự hủy bỏ ấy vào dự luật của mình cùng với điều khoản thành lập hai vùng lãnh thổ mới (Kansas và Nebraska) thay vì chỉ một mà thôi. Người miền Nam coi đây là một thỏa thuận to lớn nhất: vùng đất tận cùng miền Nam là Kansas sẽ trở thành một bang được thừa nhận tồn tại chế độ chiếm hữu nô lệ. Nebraska sẽ là bang tự do được đa số hạ nghị sĩ miền Nam tán thành, điều luật này đã nhận đủ số phiếu của thành viên đảng Dân chủ người miền Bắc. Bị Bộ trưởng Bộ chiến tranh Jefferson Davis thúc giục, Tổng thống Pierce đã ký dự luật này, biến nó thành một phần của pháp luật hiện hành.

Ông Douglas đã tiên đoán rằng: Dự luật Kansas - Nebraska sẽ làm dấy lên một cơn bão táp khủng khiếp. Thực ra nói vậy còn nhẹ. Nó chính là nguyên nhân hình thành một đảng phái chính trị miền Bắc mới cực kỳ hùng mạnh: đảng Cộng hòa. Mục đích chính của đảng này là ngăn chặn sự bành trướng hơn của chế độ chiếm hữu nô lệ. Nòng cốt của đảng này trước hết là những người thuộc đảng Whig và đảng Dân chủ chống lại sự thiết lập bang Nebraska, cộng thêm nhiều cựu thành viên đảng Free Soil. Một nhóm hạ nghị sĩ chống dối dự luật Nebraska lập tức thảo một bài diễn văn gồm rất nhiều câu chữ mang tính bạo động và nói lên nỗi bức xúc của những người chống lại dự luật này. Theo Thượng nghị sĩ Burnside, nó là “một sự vi phạm nghiêm trọng một lời thề thiêng liêng”, “một sự phản bội đầy tội lỗi những điều luật quan trọng” là một phần của “một âm mưu hung bạo” nhằm biến mọi vùng lãnh thổ của Liên bang thành một vùng lãnh thổ duy nhất tồn tại chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ chuyên quyền.

Chỉ những người thuộc đảng Cộng hòa không thôi không thể ngay lập tức có được sức mạnh chiến thắng tại các bang miền Bắc. Những nghiên cứu mới đây chỉ ra rằng: lúc đầu đảng Know-Nothing mạnh hơn nhiều. Trong cuộc bầu cử hạ viện vào năm 1854, cử tri chia thành rất nhiều nhóm, bao gồm các đảng Nhân Dân, Liên Hiệp, Cộng Hòa, Dân Mỹ gốc, Đảng Whig, và Đảng Dân Chủ. Nhưng dù dưới bất cứ tên nào, hầu hết cử tri miền Bắc kiên định chống lại dự luật Nchraska - Kansas. Họ cũng đủ mạnh để bầu được đa số ghế trong hạ viện Hoa Kỳ giành sẵn cho những nhân vật chống lại dự luật Nebraska.

Đảng Whig là nạn nhân trực tiếp và đau đớn nhất của những sự chuyển đổi to lớn xuất hiện trong các vòng bầu cử ở cả hai miền Bắc-Nam. Với số lượng lớn đảng viên đảng Whig ở miền Bắc gia nhập đảng Cộng hòa và số lượng lớn đảng viên đảng Whig miền Nam gia nhập đảng Dân chủ, và rất nhiều đảng viên đảng Whig của cả hai miền Bắc-Nam tham gia vào đảng Know-Nothing, đảng Whig đã bị xóa sổ hoàn toàn. Ở thời điểm đó thật bất ngờ đảng Dân Mỹ gốc chẳng bao lâu đã biến mất sau khi tồn tại ở miền Bắc như một đường dẫn quan trọng tử những đảng khác để đến với đảng Cộng hòa. Vấn đề chế độ nô lệ gây bất hòa cục bộ tại các vùng lãnh thổ miền Tây đã che đậy học thuyết cho rằng: công dân sinh ra ở địa phương nổi trội hơn dân nhập cư, thuyết chống đối người cơ đốc giáo và thái độ ôn hòa trong lời kêu gọi gởi tới cử tri miền Bắc. Đảng viên đảng Cộng hòa (với tư cách cha đẻ của vấn đề gây bất hòa cục bộ này) đã nổi lên như một đối thủ chính của đảng Dân chủ tại miền Bắc và như vậy là đối thủ chính của đảng Dân chủ trên khắp đất Mỹ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #8 vào lúc: 06 Tháng Chín, 2010, 09:00:52 pm »


Tình huống vùng lãnh thổ Kansas làm đảng Cộng hòa thêm kỳ vọng. Học thuyết của Douglas về chủ quyền của nhân dân đã được thử nghiệm khi nhiều nông dân không sở hữu nô lệ bắt đầu đổ xô đến vùng Kansas từ những bang thuộc miền Trung-Tây. Từ bang Missouri và khắp mọi nơi, một vài chủ nô cũng mang theo nô lệ đến vùng Kansas. Trong cuộc thi thố nhằm giành quyền kiểm soát chính trị ở địa phương, những cử tri bất hợp pháp bên ngoài vùng lãnh thổ này đã đến Kansas vào ngày bầu cử để hỗ trợ cho cả hai phe. Nhưng đa số người tán thành chế độ nô lệ đến từ vùng đất gần Missouri sống dọc biên giới là lưu manh. Rất nhiều người trong số họ còn trang bị cả súng ống. Các nhóm ủng hộ và chống đối chế độ nô lệ ở khắp nơi lôi kéo nhiều người dân định cư tại vùng này theo phe mình và cung cấp cho họ sự hỗ trợ về tài chính và nhiều phương tiện khác. Một trong những nhóm bài nô đáng chú ý (công ty hỗ trợ người di cư của bang New England) đã bị cáo buộc gởi đi rất nhiều những “Beecher’s Bible” (Kinh thánh của Beecher). Súng trường được xếp đầy trong những hộp bên ngoài ghi là kinh thánh. Henry Ward Beecher là nhà thuyết giáo nổi tiếng New York, anh ruột của tác giả cuốn Túp lều bác Tom.

Kansas là một vùng hỗn loạn cả về mặt xã hội lẫn chính trị. Cử tri tán thành chế độ nô lệ bỏ phiếu cho một thể chế lập pháp ủng hộ chế độ nô lệ trong vùng và chiếm hữu nô lệ đã nhanh chóng trở thành thể chế hợp pháp tại Kansas. Những người dân bài nô phản ứng bằng cách bầu ra đại biểu được nhóm họp trong cuộc họp Topeka và chấp thuận một hiến pháp coi chế độ nô lệ là trái với luật pháp. Cử tri theo chủ trương bài nô sau đó bầu ra một thống đốc, một thể chế lập pháp và một hạ viện, đòi bang Kansas là một bang tự do. Tổng thống Pierce lên án phong trào chủ trương thành lập bang tự do. Ông coi đó là một phong trào bất hợp pháp đồng thời ngầm hỗ trợ cho cơ quan luật pháp ủng hộ chế độ nô lệ trong vùng.

Chuyện gì đến tất phải đến. Bạo lực bùng phát giữa hai phe đối lập. Mùa xuân năm 1855, một đám đông khoảng hàng trăm người ủng hộ chế độ nô lệ, hành động như một nhóm có vũ trang, ruồng bố và đuổi bắt những người ủng hộ chế độ bài nô tại Lawrence. Không có cư dân nào thiệt mạng. Không bao lâu sau các hoạt động trả đũa thi nhau xuất hiện khi Jonh Brown, một cư dân từ bang Ohio và là một kẻ theo chủ nghĩa bài nô cuồng tín, biết về cuộc tấn công ở Lawrence. Ông ta cùng một nhóm, trong đó có cả bốn con trai của mình trả thù bằng cách giết năm cư dân ủng hộ chế độ nô lệ dọc theo nhánh sông Pottawatomie. Có thể nói nội chiến đã gần kề.

Sự kiện đẫm máu ở Kansas đã xuất hiện trên khắp các mặt báo của Mỹ, đặc biệt là sau sự xuất hiện vào tháng 05 năm 1856 của sự vụ đầy bạo lực diễn ra ngay tại nghị viện Hoa Kỳ có liên quan đến vùng đất này. Thượng nghị sĩ thuộc đảng Cộng hòa Charles Sumner, người thuộc bang Massachusetts, đọc diễn văn kịch liệt phản đối chế độ chiếm hữu nô lệ. Khi nhắc đến vấn đề Kansas, ông nói thượng nghị sĩ Andrew P. Butler của miền Nam Carolina là một “Don Quyxote” chọn cho mình một ả nhân tình “là con điếm chiếm hữu nô lệ”. Hạ nghị sĩ miền Nam Carolina Preston Brooks, bà con của thượng nghị sĩ Butler, coi đây là lời chỉ trích xúc phạm với người họ hàng mình. Ông thẳng thừng trả đũa bằng cách tấn công Sumner bằng cây gậy chống, đánh ông này tới bất tỉnh trên bàn làm việc. Ngay lập tức ông Brooks thành người hùng của miền Nam. Người ta gởi cho ông nhiều cây gậy chống khác có khắc những câu đề tặng khuyến khích ông hãy sử dụng chúng với mục đích tương tự. Khi ông này hết nhiệm kỳ ở hạ viện, họ đã nhất trí bỏ phiếu cho ông và Brooks tái đắc cử. Sumner phải mất ba năm chạy thầy chạy thuốc ở khắp nơi mới hồi phục sức khoẻ hoàn toàn. Trong lúc đó, bang Massachusetts bỏ trống chiếc ghế của ông ở nghị viện như một lời chứng thực rành rành cho chính kiến chống lại chế độ chiếm hữu nô lệ của họ.

Cuộc bầu cử Tổng thống năm 1856 cho thấy sự lớn mạnh nhanh chóng của đảng Cộng hòa. ứng viên của đảng này, John C. Fremont, một cựu sĩ quan quân đội hay khoa trương. Ông này được biết đến với cái tên “người mở đường” vì nhiều hoạt động trước đây trong cuộc khai phá miền Tây nước Mỹ. Cương lĩnh của đảng này là chỉ trích chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ đa thê, coi đó là di chứng của sự man rợ. Một khẩu hiệu khác của đảng Cộng hòa cũng thường được nhắc đến trong những bài diễn văn và trên mặt báo của đảng này: chống đối những vấn đề nhạy cảm liên quan tới sắc tộc.

Đảng Cộng hòa đã không giành về cho mình ghế Tổng thống 1856. Họ chỉ dựa vào cử tri miền Bắc để chống lại đảng Dân chủ. Trong số ứng viên miền Bắc còn nhiều người tiếp tục ủng hộ đảng Whig và đảng Know-Nothing. Cả hai đảng này trước đây đều ủng hộ Tổng thống Fillmore. Sức mạnh của đảng Know-Nothing đã lụn bại, đặc biệt là sau khi những thành viên bảo thủ trong đảng phản đối nỗ lực nhằm bác bỏ Điều luật Nebraska-Kansas. Thế nhưng ông Fillmore vẫn còn đủ hấp dẫn thu hút nhiều cử tri các bang miền Bắc và khiến họ quay lưng lại với Fremont.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #9 vào lúc: 06 Tháng Chín, 2010, 09:01:46 pm »


Đảng Dân chủ một lần nữa thành công trong việc thực hiện chiến lược bổ nhiệm một người miền Bắc thân thiện với miền Nam vào ghế Tổng thống. Lần này chính là James Buchanan của bang Pennsylvania. Những thành viên đảng Whig người miền Nam và thành viên đảng Know-Nothing giành được khá nhiều phiếu. Nhưng Buchanan đã thắng đa số phiếu ở tất cả các bang hiện hữu chế độ nô lệ (ngoại trừ bang Maryland nghiêng về Fillmore) cộng với đủ số bang miền Bắc để giành được đa phần số phiếu trong cuộc bầu cử Tổng thống. Đáng chú ý là, nếu tính cả quốc gia, số phiếu của ông ta là không đủ (45%). Đồng thời, ông ta mất rất nhiều phiếu của cử tri miền Bắc. Đảng Cộng hòa sẽ hy vọng nhiều hơn với kỳ tranh cử Tổng thống 1860. Cuộc bầu chọn Buchanan là một chiến thắng sớm nở tối tàn của miền Nam. Hậu quả của nó ngày càng làm mối bất hòa giữa hai miền Nam Bắc thêm trầm trọng.

Ông Buchanan vừa bước chân vào Nhà trắng, Pháp viện tối cao Hoa Kỳ đã quyết định khoét sâu thêm mối bất hòa vốn đã rất tồi tệ. Trong vụ Dred Scott, một nô lệ bị chủ là một sĩ quan quân đội mang tới bang tự do Illinois, sau đó lại đưa hắn tới vùng lãnh thổ Wisconsin, một phần của vùng lãnh thổ tuân thủ hiệp ước mua bán Louisiana. Ở đây chế độ chiếm hữu nô lệ bị cấm. Sau đó, Scott lại bị mang trở lại một bang công nhận chế độ chiếm hữu nô lệ: Missouri. Lúc này, hắn kêu tới tòa án để đòi tự do. Hắn lập luận rằng: hắn đã được tự do khi là một cư dân của bang tự do và trên vùng lãnh thổ tự do theo hiến pháp của Liên bang. Các tòa án ở các bang này đã phản bác lập luận này. Cuối cùng sự việc đã được đệ trình lên Pháp viện tối cao theo đơn kháng cáo.

Hy vọng sẽ dẹp yên vấn đề chiếm hữu nô lệ bằng sắc lệnh của tòa án, và được khích lệ bởi Tổng tống Buchanan mới được nhậm chức, vào tháng 03 năm 1857 với số phiếu 7/2, Pháp viện tối cao đã chối từ không cho Scott quyền được tự do với lý lẽ: chỉ tạm trú trên một bang hoặc một vùng lãnh thổ tự do sẽ không được công nhận là cư dân tự do. Phán quyết của quan tòa Roger Taney còn có thể được suy rộng rằng: không một nô lệ hay người da đen tự do nào được trở thành công dân của Mỹ. Vào thời điểm đó, sự việc này càng gây thêm tình trạng hỗn độn. Phán quyết của ông Taney cùng với sự chuẩn y của năm chánh án đồng nghĩa với kết luận rằng: lằn ranh giới theo thỏa ước Missouri là không hợp pháp. Sở dĩ như vậy vì điều luật này của hạ viện đã vi phạm một điều khoản chính đáng bằng cách lấy đi của chủ nô phần tài sản thuộc sở hữu của họ là nô lệ. Vì lý do đó, hạ viện không có quyền hợp pháp để cấm chế độ chiếm hữu nô lệ ở bất cứ vùng lãnh thổ nào của Liên bang. Đáng nói là, quyết định này, theo sự suy diễn rộng ra của nó, đã cấm các cơ quan lập pháp trên các bang tại Mỹ không được ban bố lệnh cấm đoán việc chiếm hữu nô lệ bởi vì những cơ quan này vẫn dưới sự giám sát trực tiếp của hạ viện. Một phần của quyết định này được áp dụng cho các vùng lãnh thổ bác bỏ nguyên lý cơ bản của đảng Cộng hòa. Nó kích động mọi công dân Mỹ (bất kể đảng nào) chống đối việc bành trướng của chế độ chiếm hữu nô lệ. Taney và bốn thành viên khác của Pháp viện tối cao chiếm đa số phiếu áp đảo trong vụ Dred Scott đều xuất thân từ những bang có tồn tại chế độ chiếm hữu nô lệ. Và phán quyết của họ đã bị chỉ trích gay gắt tại miền Bắc. Người ta coi đó là lời tuyên bố chính thức ủng hộ chế độ chiếm hữu nô lệ. Một nhân vật hoạt động trong lãnh vực chính trị đang lên như diều gặp gió xuất thân tại bang Illinois, ông Abraham Lincoln, tiên đoán phán quyết kế tiếp của Pháp viện tối cao sẽ là: bất kỳ một bang trên nước Mỹ sẽ không thể coi chế độ chiếm hữu nô lệ là vi phạm luật pháp ngay trong vùng biên giới của chính mình. Mặt khác, hầu hết người miền Nam hoan nghênh quyết định này. Họ coi đó là một chiến thắng về mặt luật pháp chống lại những kẻ cuồng tín có ý đồ bài nô và giới chính trị gia của miền Bắc. Cuối cùng, việc phán quyết này đã mang lại hậu quả ngược với những gì người ủng hộ nó mong đợi. Chính nó đã là một bước kế tiếp trên bậc thang dẫn tới sự li khai của miền Nam và góp phần vào cuộc nội chiến sau này.

Bối cảnh tại Kansas cũng có chiều hướng phát triển tương tự. Tình thế tiến thoái lưỡng nan ở đây cũng không được giải quyết mặc dù có sự chỉ đạo của sáu thống đốc tại các cơ quan hành chính. Bị gây áp lực bởi phán quyết từ vụ Fred Scott, Tổng thống Buchanan sử dụng tầm ảnh hưởng của ông trong một nỗ lực nhằm giành được sự chấp thuận của người dân công nhận bang Kansas là bang tồn tại chế độ chiếm hữu nô lệ, mặc dù hầu hết cư dân ở đây đều chống đối lại chế độ dã man này.

Năm 1857, một cuộc họp của các đại biểu ủng hộ chế độ chiếm hữu nô lệ đã được tổ chức tại thị trấn Lecompton. Hội nghị thảo một bản hiến pháp có lời lẽ quanh co dài dòng cho phép chế độ chiếm hữu nô lệ tồn tại, dù nó có được cử tri chấp thuận hay không. Mặc đù bản hiến pháp này cuối cùng đã bị đa số dân chúng bác bỏ, Tổng thống Buchanan đã thúc giục hạ viện phải chuẩn y nó. Các nhà làm luật từ chối chuẩn y. Ông Buchanan đã ủng hộ một biện pháp thỏa hiệp, gọi là Điều luật Anh quốc, rằng: miễn là dân chúng Kansas bỏ phiếu thông qua hiến pháp Lecompton, ông sẽ cho vùng lãnh thổ này một khoảng trợ cấp hào phóng dưới hình thức đất đai của Liên bang như một điều kiện trao đổi. Các cử tri từ chối con mồi ấy và một lần nữa bác bỏ bản hiến pháp này.
Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM