Bài này thì không phải về cầu Rạch Chiếc, nhưng có thể đọc để biết thêm bối cảnh lúc đó:
http://chuyentrang.tuoitre.vn/Vieclam/Index.aspx?ArticleID=30823&ChannelID=89Những người lính đặc công tại cửa ngõ Sài Gòn
Xuồng đưa hai chiến sĩ đặc công thủy đi đánh tàu vận tải quân sự một vạn tấn trên sông Rạch Lá - Ảnh: Tư liệu
TT - Đại tá Tống Viết Dương (nguyên tư lệnh cánh đông chiến dịch Hồ Chí Minh), trung tá Võ Tấn Sĩ (nguyên trung đoàn trưởng trung đoàn đặc công biệt động 116) bảo từ bao năm nay, cứ đến ngày 30-4 câu chuyện về những ngày chiếm giữ các cầu, mở đường cho quân chủ lực vào thành phố đã được các ông kể đi kể lại không biết bao lần. Thế nhưng đến tận hôm nay, câu chuyện ấy vẫn sống động như 29 năm về trước...
Lính đặc công học đánh ban ngày“Giữa tháng tư, trung đoàn đặc công biệt động 116 đang tập trung ở vùng bưng sáu xã chuẩn bị cho trận đánh liên trường quân sự Thủ Đức thì được lệnh rút về tập trung cho chiến dịch. Chúng tôi quay về Bình Sơn, Long Thành nhận nhiệm vụ mới: chiếm và giữ các cây cầu dẫn vào thành phố....”.
Võ Tấn Sĩ khi ấy là thiếu tá, trung đoàn trưởng. Dẫn anh em đặc công cắt đồng về căn cứ, từ thủ trưởng đến lính ai cũng mệt mỏi nhưng khi biết nhiệm vụ mới có thể sẽ là những trận đánh cuối cùng để giải phóng đất nước, “một luồng sinh khí mới bỗng bừng dậy”. Tất cả háo hức chuẩn bị cho ngày tiến về Sài Gòn, mục tiêu đầu tiên chính là cầu Đồng Nai.
“15-4, đội điều nghiên đầu tiên được phái đến khảo sát cầu. Tàu hải quân địch tuần tiễu gắt quá nên anh em bị lộ. Những loạt đạn bắn rát khiến toàn đội phải lui về. Một anh bị thương, bất tỉnh bên hàng rào kẽm gai và bị địch bắt sống...”.
Đến hôm nay ông Sĩ vẫn còn nhớ người chiến sĩ ấy tên Hà, quê ở Nghệ An. Anh bị thương vào cổ, đứt cuống họng. Sau ngày giải phóng, đồng đội đã tìm được anh ở Bệnh viện Cộng Hòa (nay là Bệnh viện 115), anh ra dấu mượn một cây bút: “Nếu tôi còn nói được, xin cho tiếp tục phục vụ quân đội”.
“Nhóm trinh sát thứ hai đã hoàn thành nhiệm vụ. Sau khi thống nhất giờ G, đêm 26-4, 250 chiến sĩ đặc công thủy, đặc công khô cắt hàng rào tiến vào trận địa. Rạng sáng, súng lệnh nổ. Loạt thủ pháo đầu tiên đã diệt gọn lực lượng địch đang ngủ trong khu trại. Đặc công khô cùng đặc công thủy phối hợp đánh chìm cùng lúc bốn chiếc hải thuyền. Các công sự hai đầu cầu cũng nhanh chóng bị các chiến sĩ của ta chiếm giữ”.
Nhanh gọn vậy nhưng những gì khó khăn nhất vẫn còn ở phía trước. Ngay sáng hôm sau, các lực lượng tiếp viện của địch từ Biên Hòa, Long Bình, Thủ Đức đã ùn ùn kéo tới, pháo bắn dày đặc các ngả, máy bay lượn sát trên đầu...
Ông Sĩ kể rằng ở cương vị một người chỉ huy, ông chưa bao giờ phải đương đầu với nhiều khó khăn như ba ngày 27, 28 và 29 ấy. Không chỉ phải trực tiếp chỉ đạo chiến lược, chiến thuật, bổ sung quân, bổ sung vũ khí, lương thảo, tìm cách giải quyết thương binh... mà khó khăn nhất lại là động viên tinh thần anh em.
Ai cũng ra trận với tinh thần quyết tử nhưng những sở trường của lính đặc công là đột nhập ban đêm, đánh bất ngờ, đánh nhanh thắng nhanh đều đã được vận dụng hết. Phải chiến đấu giữa ban ngày, không vật che khuất, che đỡ, phải bám trụ, chiếm giữ thời gian lâu là điều mà lính đặc công không sẵn sàng chuẩn bị.
Nằm trong một lò gạch cách cầu Đồng Nai mấy trăm mét, điện đài của trung đoàn trưởng vang lên liên hồi: “Thủ trưởng ơi, địch đến đông quá”, “Báo cáo: hết đạn”, “Báo cáo: xe tăng địch đến”... Trong cả ngàn thông tin dồn dập và phải xử lý tức thời như thế, trung tá Võ Tấn Sĩ bảo có một tin làm ông lặng đi mất mấy phút “Cầu Rạch Chiếc đây. Báo cáo: đã hoàn thành nhiệm vụ nhưng anh em hi sinh nhiều quá...”.
Mấy phút trong thời điểm đó đã là nhiều lắm, bởi lệnh thì chỉ có một “Bám trụ giữ cầu, đợi quân chủ lực”. Không biết bao giờ quân chủ lực mới đến nhưng Võ Tấn Sĩ quyết không để lực lượng bị hao hụt thêm. Trưa 29, ông trực tiếp dẫn một tiểu đoàn đặc công đánh vào tổng kho Long Bình, khuân súng chống tăng, đạn pháo, lương thực ra cầu tiếp tế...
Mật hiệu: “Hồ Chí Minh” - Đáp: “Muôn năm”Trung tá Võ Tấn Sĩ - Ảnh: Phạm Vũ
Đêm 29 lại có tiếng xích xe tăng nghiến trên đường, trinh sát báo có một đoàn xe tăng vừa đi vừa nhằm các lô cốt mà bắn. Mấy ngày đợi chờ đã quá sốt ruột nên từ tư lệnh Tống Viết Dương đến các anh lính ai cũng mong đó là xe tăng quân chủ lực. Trinh sát quát hỏi mật hiệu “Hồ Chí Minh”, bên kia đáp “19 tháng 5”.
Không đúng rồi, mọi người thất vọng, một anh lính bực bội bắn một phát B41. Trong ánh đạn sáng lòa bay qua tháp pháo, mọi người nhìn thấy lá cờ nửa đỏ nửa xanh của Mặt trận dân tộc giải phóng. “Quân mình, quân mình...”, ai nấy reo ầm lên, mấy anh lính xe tăng sau một giây ngỡ ngàng cũng kịp thời nhớ ra câu mật hiệu của chiến dịch Hồ Chí Minh, hô vang: “Muôn năm”.
Chưa ai quen ai nhưng gặp nhau ai cũng mừng như chưa bao giờ mừng thế. Lữ đoàn xe tăng 203 cho biết nhiệm vụ của họ là tiến thẳng vào dinh Độc Lập nhưng bộ binh lại chưa theo kịp. Tư lệnh Tống Viết Dương liền trổ tài “quảng cáo” về các khả năng của lực lượng đặc công biệt động và cuối cùng đã thỏa thuận được với lữ đoàn xe tăng về kế hoạch biến lính đặc công thành lính bộ binh để vào Sài Gòn kịp ngày 30-4.
Lần đầu tiên được ngồi lên xe tăng, lại là xe tăng tiến về Sài Gòn, anh nào cũng hào hứng, tranh nhau lên trước. Nhưng rồi vẫn cứ phải nhường nhau. Một tiểu đoàn đặc công thủy phải ở lại giữ cầu. Lúc đi qua cầu Rạch Chiếc, thấy anh em mình hi sinh nằm rải rác trong những đám lá dừa nước, một tiểu đội nữa lại nhảy xuống lo phần chôn cất. Thế nhưng vẫn chưa hết những người phải nằm lại.
Qua ngã tư Thủ Đức, pháo trong trường quân sự của địch bắn ra khiến một chiếc xe tăng của ta bốc cháy, bảy chiến sĩ hi sinh. Một phát đạn M72 nữa của lính ngụy chạy loạn làm cháy chiếc xe tăng dẫn đầu ngay khi vừa chớm lăn lên cầu Sài Gòn, bốn chiến sĩ nữa trở thành liệt sĩ. Chiếc xe đi thứ hai thì bị sa lầy xuống con kênh dưới cầu Đen. Những chiếc xe tăng, các anh em đi sau đã trở thành những chứng nhân lịch sử.
Từ ngày ấy đến nay đã 29 năm, trung đoàn 116 (367 cũ) đã bao lần họp mặt nhưng lần họp mặt nào xen giữa những tiếng cười cũng có người rưng rưng nước mắt. Từ khi trung đoàn thành lập (1970) cho đến ngày giải phóng, có hơn 1.000 chiến sĩ đã hi sinh.
Ông Sĩ, ông Dương cứ kể mãi không hết về những anh lính đặc công rất tinh nhuệ nhưng lại phải lót lá dừa ngay trên những bụp dừa được phạt ngang để ngủ; những ngày lội bưng vào trận, các anh đeo trên mình trần đầy thủ pháo, lựu đạn, còn lương khô thì không có.
Những anh đặc công ấy đã là một trong những người đầu tiên vào giải phóng Sài Gòn, cũng là một trong những người cuối cùng ngã xuống trước ngưỡng cửa hòa bình. Thế mà “ngày ở trong rừng, mơ đến ngày giải phóng, đứa nào cũng chỉ ước: hòa bình được về nhà, được ngủ, được cắm một cái cần câu...”.
PHẠM VŨ