Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 02:54:02 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Thất bại lớn nhất của Zhukov - D. Glantz  (Đọc 140374 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chiangshan
Trung tá
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #160 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2011, 11:02:05 pm »

Các tập đoàn quân tham gia “Sao Hỏa” có số phận khác nhau, chủ yếu vì những tổn thất lớn mà họ phải hứng chịu. Hai đơn vị chủ công, Tập đoàn quân 41 và 20 không bao giờ tham dự thêm một chiến dịch tiến công lớn nào. Tháng 3 năm 1943 phiên hiệu Tập đoàn quân 41 biến mất trong biên chế Hồng quân. Lực lượng của nó được phân bổ lại cho Tập đoàn quân 39 và 43 và ban chỉ huy bổ sung nhân lực cho Phương diện quân Thảo nguyên mới. Tập đoàn quân 20 tiếp tục ở trong thê đội hai của phương diện quân hay dự bị Stavka cho đến tháng 4 năm 1944 thì cũng được giải thể. Tháng 1 năm 1943 Stavka phân phối quân số ít ỏi còn lại của Tập đoàn quân 29 cho Tập đoàn quân 5 và 33, và ban chỉ huy của nó cung cấp sĩ quan tham mưu cho Tập đoàn quân xe tăng 1 mới thành lập. Ngay sau Chiến dịch “Sao Hỏa”, Tập đoàn quân 22 được điều động sang Phương diện quân Tây Bắc và chiến đấu trong biên chế phương diện quân này (và Phương diện quân Baltic 2) ở khu vực thứ yếu đến khi chiến tranh chấm dứt. Tập đoàn quân 30 ít bị hao hụt hơn đến tháng 4 năm 1943 được tổ chức lại thành Tập đoàn quân Cận vệ 10. Chỉ có Tập đoàn quân 31 chiến đấu đến hết cuộc chiến trên trục Moscow-Warsaw-Berlin. Đó là tập đoàn quân duy nhất của “Sao Hỏa” có được một cuốn lịch sử đơn vị (mặc dù không đề cập gì về chiến dịch đó).

Trong khi ấy, các tập đoàn quân dưới quyền Vasilevsky đã được tưởng thưởng hậu hĩnh nhờ sự phục vụ trong Chiến dịch “Sao Thiên vương”. Sáu tập đoàn quân (63, 21, 24, 66, 62 và 64) được tổ chức thành tập đoàn quân Cận vệ ngay sau chiến dịch Stalingrad, và một tập đoàn quân thứ bảy (Tập đoàn quân xe tăng 5) sau này được xây dựng lại thành tập đoàn quân xe tăng Cận vệ đầu tiên sau khi bị tiêu diệt ở Khar’kov vào tháng 3 năm 1943, một phần vì những thành tích trong “Sao Thiên vương”. Chiến công của cả 6 tập đoàn quân đều được mô tả chi tiết trong những cuốn quân sử.

Các quân đoàn trưởng trong Chiến dịch “Sao Hỏa” có số phận khá hơn nhiều so với các chỉ huy tập đoàn quân (đặc biệt là chỉ huy các quân đoàn cơ động). Điều đó có lẽ là vì họ đã chiến đấu tốt hơn hoặc được bảo vệ từ các tư lệnh tập đoàn quân, những người đã trở thành vật tế thần cho thất bại của chiến dịch. Chỉ huy binh đoàn kỵ binh-cơ giới của Tập đoàn quân 20 và Quân đoàn kỵ binh Cận vệ 2, Tướng V. V. Kriukov dẫn dắt quân đoàn cho đến hết chiến tranh. Ông được thăng hàm trung tướng và danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô-viết vào tháng 4 năm 1945 nhờ những thành tích ở Ba Lan.73 Tướng M. E. Katukov nắm Tập đoàn quân xe tăng 1 mới thành lập vào tháng 1 năm 1943 và chỉ huy nó một cách thành công qua thời gian còn lại của cuộc chiến. Khi chiến tranh chấm dứt, Katukov là một trong những tư lệnh tập đoàn quân xe tăng xuất sắc và tài ba nhất của Hồng quân, và tập đoàn quân của ông đã được tặng danh hiệu Cận vệ. Tướng A. P. Getman, Tư lệnh Quân đoàn xe tăng 6 - mặc dù không chỉ huy trong Chiến dịch “Sao Hỏa” – trở thành một trong những quân đoàn trưởng xe tăng hàng đầu của quân đội Xô-viết. Ông chỉ huy quân đoàn (được đổi tên thành Quân đoàn xe tăng Cận vệ 11) thuộc biên chế tập đoàn quân Katukov trong những chiến dịch quan trọng sau đó và ở Berlin. Tướng M. D. Solomatin cũng chỉ huy Quân đoàn cơ giới 1 cho đến hết chiến tranh, đầu tiên là độc lập và sau này trong biên chế Tập đoàn quân xe tăng Cận vệ 2. Katukov, Getman và Solomatin đều viết những cuốn lịch sử chi tiết và chính xác về các trận đánh của đơn vị trong chiến tranh.

Thiếu tướng K. A. Semenchenko, Quân đoàn trưởng 5 xe tăng, người đã nhận danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô-viết năm 1941 khi chỉ huy Sư đoàn xe tăng 19 Quân đoàn cơ giới 22 trở nên nhạt nhòa trong thời gian còn lại của cuộc chiến và vào biên chế dự bị năm 1947.74 Các chỉ huy sư đoàn và lữ đoàn qua khỏi thử thách “Sao Hỏa” tiếp tục chiến đấu, và một số người sống sót qua cuộc chiến như Đại tá Dremov và Babadzhanian đã đạt được danh tiếng lâu dài.

Dù số phận các chỉ huy Xô-viết như thế nào, những đối thủ Đức của họ tiếp tục thành công cho đến khi cái chết hay thất bại trùm lên tất cả. Model, Tư lệnh Tập đoàn quân 9 xây dựng nên vinh quang của mình như một viên tướng chiến trận để rồi chỉ huy Cụm tập đoàn quân Bắc, Nam, và sau khi Cụm tập đoàn quân Trung tâm sụp đổ tháng 6 và 7 năm 1944 là chính đơn vị này. Model tiếp tục gặt hái thành công với việc đẩy lui quân Nga ở cửa ngõ Warsaw vào tháng 8 năm 1944 và leo lên vị trí chỉ huy Chiến trường phía Tây cho tới khi lực lượng dưới quyền bị quân Mỹ bao vây ở Ruhr mùa xuân 1945. Chống đối đến phút chót, Model tự sát để khỏi bị bắt.

Tư lệnh Quân đoàn thiết giáp XXXIX von Arnim bàn giao lại quân đoàn hôm 1 tháng 12 và được điều động sang Bắc Phi. Tại đây ông đã có hành động khó hiểu là đầu hàng lực lượng Đức và Ý còn lại ở mặt trận này trước quân đội Mỹ - Anh. Tướng Joseph von Harpe, Tư lệnh Quân đoàn thiết giáp XXXXI lên tới hàm chuẩn thống chế và nắm quyền chỉ huy Cụm tập đoàn quân A. Ông bị Hitler cách chức ở cao điểm của chiến dịch Vistula-Oder tháng 1 năm 1945. Tướng Karl Hilpert ở Quân đoàn bộ binh XXIII kết thúc chiến tranh với quân hàm chuẩn thống chế và ở vị trí Tư lệnh Cụm tập đoàn quân Courland bị quân đội Xô-viết cô lập ở phía tây Riga. Tướng Maxmilian von Fretter-Pico, người đứng đầu Quân đoàn XXX đã giải cứu cho quân Đức bị vây ở Belyi sẽ sớm được cử xuống phía nam để chặn con sóng của Hồng quân đang tràn về phía tây từ Stalingrad. Cuối năm 1944 ông chỉ huy Tập đoàn quân 6 Đức ở Hungary.

Lịch sử Chiến dịch “Sao Hỏa” đã phục vụ chủ nhân của nó – nhà nước Xô-viết – khá tốt. Những gì quan trọng để nhớ đã được ghi nhớ, và những gì không đã bị lãng quên. Stalin cứu giúp khỏi sự hổ thẹn những chỉ huy mà ông cho rằng vẫn có thể có những đóng góp quý giá cho cuộc chiến. Và như được yêu cầu, các sử gia Xô-viết chép và sửa lại lịch sử để thay đổi danh tiếng của họ. Không may cho nhiều chỉ huy ở dưới cấp phương diện quân, lý tưởng và lợi ích không cần đến sự cứu vãn cho họ.
« Sửa lần cuối: 21 Tháng Tư, 2011, 11:08:53 pm gửi bởi chiangshan » Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
chiangshan
Trung tá
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #161 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2011, 11:02:57 pm »

Lịch sử và những người đã ngã xuống

Đáng buồn nhưng rất đặc trưng, những sĩ quan cấp thấp, hạ sĩ quan và binh sĩ Hồng quân, những người đã hy sinh hoặc bị thương trong Chiến dịch “Sao Hỏa” hay những người đã sống sót qua đó phải chịu số phận khắc nghiệt trong tất cả. Như thể con số thương vong vẫn là chưa đủ, chính quyền Xô-viết gây ra sự bất công tồi tệ nhất khi lờ đi sự hy sinh của hàng ngàn người đã ngã xuống và lãng quên những người sống sót. Không có một dấu ấn hay đài tưởng niệm nào ghi lại cuộc chiến đấu khó khăn và gian khổ của họ, và lịch sử đã xóa đi những nỗ lực phi thường vô vọng của họ. Sự câm lặng của những người chết không thể chống lại hành động đáng xấu hổ đó, và những người sống sót chỉ có thể sống với những ký ức vọng lại từ sự im lặng của những người đã hy sinh. Trong vòng 50 năm tiếp theo, một thế hệ những người sống sót không thể thảo luận công khai hay đọc về chiến dịch trong khi chứng kiến hàng trăm ngàn người khác được vinh danh vì những cống hiến ở Stalingrad.

Tuy nhiên, lịch sử có một ký ức dai dẳng và một sự phục thù khủng khiếp. Nhà chức trách Xô-viết không thể loại bỏ hết hàng ngàn tư liệu Đức và một khối lượng lớn tài liệu lưu trữ quý giá ghi lại tiến trình chiến dịch. Hệ thống kiểm duyệt ngột ngạt của chính quyền cũng không thể dập tắt một cách hoàn toàn khao khát hướng tới sự thật cố hữu của con người. Bất chấp hệ thống kiểm duyệt đó, những mảnh vụn của sự thật rò rỉ ra trong những cuốn hồi ức và lịch sử đơn vị để chứng minh cho các thông tin từ phía Đức. Ngày nay, sau khi chế độ Xô-viết đã sụp đổ, bức màn bí mật bao trùm Chiến dịch “Sao Hỏa” cuối cùng cũng đã được vén lên. Những bằng chứng trong kho lưu trữ chỉ ra rõ ràng sự trung thực trong các báo cáo Đức và chứng thực cho những cựu chiến binh Nga đã cố gắng phơi bày sự thực bất chấp việc bị hệ thống kiểm duyệt chèn ép. Ngày nay, nó đã xác nhận cho những người đã phục vụ trong Chiến dịch “Sao Hỏa” bằng cách ghi nhớ những gì đã bị lãng quên quá lâu và cuối cùng lắng nghe tiếng kêu câm lặng của những người chết và lời khẩn cầu của những người sống sót không được nhớ đến. Cuối cùng, “Sao Hỏa” đã được trả lại vị trí xứng đáng của nó trên dải ngân hà những chiến dịch quân sự của quân đội Xô-viết.
Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
chiangshan
Trung tá
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #162 vào lúc: 25 Tháng Tư, 2011, 09:24:08 pm »

PHỤ LỤC A

Các Mệnh lệnh và Chỉ thị chọn lọc của Chiến dịch "Sao Hỏa" từ kho tư liệu lưu trữ



Tới Tập đoàn quân 20, 29, 31 cùng các đơn vị trực thuộc

TỐI MẬT: ĐẶC BIỆT QUAN TRỌNG

Mệnh lệnh số 0289 của Phương diện quân, ngày 1 tháng 10 năm 1942. 02 giờ 40.

Tới Tư lệnh Tập đoàn quân 31 và 20, sao lưu cho Tổng tham mưu trưởng Hồng quân.

Để tiêu diệt tập đoàn địch ở Sychevka-Rzhev, tôi ra lệnh:

1. Tới chỉ huy cụm tác chiến [tập đoàn quân] 31, bao gồm Sư đoàn bộ binh 88, 239, 336 và Cận vệ 20; Lữ đoàn xe tăng 32 và 145; 7 trung đoàn pháo binh RVK; và 6 tiểu đoàn pháo phản lực bắn loạt (bao gồm 4 tiểu đoàn M-30). Tiến hành công kích từ khu vực từ Staroselovo tới Kriukovo (bao gồm cả hai nơi trên) dọc theo trục Osuga, Artemovo và Ligasstaevo. Nhiệm vụ đầu tiên là chọc thủng phòng tuyến địch, chiếm tuyến đường sắt ở khu vực KAZ (phía bắc Osuga 4 ki-lô-mét), ga Osuga và sông Osuga với lực lượng chủ công [của tập đoàn quân]. Nhiệm vụ tiếp theo là tiến công cùng với cụm tác chiến chính về hướng tây đường xe lửa trên hướng Rzhev và cùng với Tập đoàn quân 29, 30, 20 tiêu diệt cụm quân Rzhev của địch.

2. Tới chỉ huy cụm tác chiến [tập đoàn quân] 20, bao gồm Sư đoàn bộ binh 251, 331, 415, Cận vệ 25, Cận vệ 42, 247 và 379; Lữ đoàn bộ binh 148 và 150; Lữ đoàn xe tăng 11, 17, 25, 31, 93, 255, 240, 18 và 80; 18 trung đoàn pháo binh RKV; và 16 tiểu đoàn pháo phản lực bắn loạt (bao gồm 10 tiểu đoàn M-30). Tiến hành công kích từ khu vực Vasel'ki tới Pechora trên hướng Sychevka. Nhiệm vụ đầu tiên là chọc thủng phòng tuyến địch và chiếm Sychevka cùng tuyến đường xe lửa ở sông Osuga, khu vực Sychevka với lực lượng chủ công [của tập đoàn quân]. Nhiệm vụ tiếp theo là khống chế vững chắc khu vực Podsoson'e, Sychevka và Marinino và dọc sông Vazuza từ phía tây và tây nam...

Tiến công với lực lượng không dưới 4 sư đoàn tăng cường trên hướng bắc và tây bắc theo một tuyến kéo dài từ Iakova qua Iuratino tới Podsoson'e qua Karpovo, Osuiskoe và Afonasovo, và cùng với Tập đoàn quân 30, 31 và các đơn vị thuộc Phương diện quân Kalinin tiêu diệt cụm quân Rzhev của địch.

3. Ranh giới giữa Tập đoàn quân 31 và 20 ở Kortnevo như trước đây; dọc sông Osuga tới Kasatino và xa hơn tới Kul'nevo và Afonasovo; bao gồm tất cả các điểm trên cho Tập đoàn quân 20.

4. Các tập đoàn quân phải sẵn sàng tiến công vào ngày 12 tháng 10.

5. Sau khi chiến tuyến địch bị chọc thủng, binh đoàn cơ động gồm Quân đoàn kỵ binh Cận vệ 2 và Quân đoàn xe tăng 6 đặt dưới sự chỉ huy của Tư lệnh Quân đoàn kỵ binh Cận vệ 2 sẽ bước vào chiến đấu dọc theo bờ nam sông Osuga tại điểm tiếp giáp giữa các tập đoàn quân. Nhiệm vụ [của đơn vị] là tiến tới khu vực Nashchekino, Tatarinka, Pribytki và Aleksandrovka, từ đó 1 sư đoàn kỵ binh sẽ đánh chiếm Andeevskoe và thiết lập liên lạc với các đơn vị thuộc Phương diện quân Kalinin tiến công từ khu vực Belyi.

6. Các tư lệnh tập đoàn quân báo cáo phương án cho Chiến dịch "Sao Hỏa" vào ngày 5 tháng 10.

Konev     Bulganin     Sokolovsky1


TỐI MẬT: ĐẶC BIỆT QUAN TRỌNG
Ngày 11 tháng 10 năm 1942. 02 giờ 30.

Tới chỉ huy Quân đoàn kỵ binh Cận vệ 2 và Quân đoàn xe tăng 6; sao lưu cho chỉ huy Tập đoàn quân 31 và 20; sao lưu cho Tổng tham mưu trưởng Hồng quân.

Để bổ sung cho Chỉ thị số 0289 ngày 1 tháng 10 năm 1942 của Phương diện quân, tôi ra lệnh:

1. Khi phòng tuyến địch đã bị Tập đoàn quân 31 và 20 chọc thủng, một binh đoàn cơ động gồm Quân đoàn kỵ binh Cận vệ 2, Quân đoàn xe tăng 6 và Lữ đoàn môtô 1 đặt dưới sự chỉ huy của Tư lệnh Quân đoàn kỵ binh Cận vệ 2 sẽ bước vào đột phá trên cánh phải của Tập đoàn quân 20. Nhiệm vụ ban đầu của đơn vị là nhanh chóng tiếp cận khu vực Nashchekino, Tatarinka, Pribytka và Aleksandrovka. Nhiệm vụ tiếp theo của binh đoàn cơ động là [như sau]:

Quân đoàn kỵ binh Cận vệ 2 – bằng một đòn công kích quyết định, 1 sư đoàn kỵ binh sẽ đánh chiếm khu vực Andreevsko (tây nam Sychevka 30 ki-lô-mét). Từ đây đơn vị sẽ thiết lập liên lạc với bộ đội Phương diện quân Kalinin hoạt động từ khu vực Belyi, Kholm-Zhirkovskii và ngăn chặn lực lượng dự bị địch từ Sychevka di chuyển sang hướng tây nam. Lực lượng chủ lực của Quân đoàn kỵ binh Cận vệ 2 trong khi triển khai những phân đội trinh sát mạnh trên hướng Shizderevo để chi viện từ phía tây sẽ tiếp tục hoạt động mạnh dọc theo trục phía bắc tới Chertolino trong hậu phương tập đoàn địch ở Rzhev và tiến hành trinh sát trên hướng Olenino để duy trì liên lạc và phối hợp với các đơn vị thuộc Phương diện quân Kalinin đang tiến về Olenino.

Quân đoàn xe tăng 6 cùng Lữ đoàn môtô 1 sẽ thực hiện một đòn công kích từ khu vực được phân công trên hướng Viazovka, Barsuki và Kholodnia. Nhiệm vụ [của đơn vị] là phối hợp với Tập đoàn quân 20 tiến công từ hướng tây nam, chiếm Sychevka và chặn lực lượng dự bị địch cơ động tới Sychevka từ phía nam.

2. Một ngày trước khi đột phá binh đoàn cơ động sẽ chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công ỏ Karganovo, Krasnovo, Finskoe, Rakovo và khu vực Rovnoe để triển khai trên hướng đột phá và tới sông Vazuza vào đêm trước khi tiến công.

3. Tới chỉ huy Quân đoàn kỵ binh Cận vệ 2, Quân đoàn xe tăng 6 và Lữ đoàn môtô 1: lên kế hoạch đúng thời gian với chỉ huy Tập đoàn quân 20 cho việc triển khai binh đoàn cơ động vào đột phá và yểm trợ của pháo binh.

4. Tới chỉ huy Tập đoàn quân 31 và 20: chủ nhiệm pháo binh phương diện quân sẽ cho pháo binh chi viện binh đoàn cơ động bước vào đột phá.

5. Tới chỉ huy Tập đoàn không quân 1: không quân tiêm kích sẽ bảo vệ binh đoàn cơ động ở vị trí xuất phát và trong quá trình bước vào và chiến đấu đột phá; không quân cường kích sẽ chi viện binh đoàn cơ động hoàn thành nhiệm vụ.

6. Tới chỉ huy Quân đoàn kỵ binh Cận vệ 2: đến 14 tháng 10 lên các phương án triển khai binh đoàn cơ động vào đột phá và hoạt động trong tung thâm theo nhiệm vụ thực tế đã được tôi chỉ thị ở sở chỉ huy dự bị của phương diện quân (trong khu rừng đông nam Ryl’tsevo 0,5 ki-lô-mét) tới các đơn vị [tương ứng].

Konev Bulganin Sokolovsky2
« Sửa lần cuối: 25 Tháng Tư, 2011, 09:36:58 pm gửi bởi chiangshan » Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
chiangshan
Trung tá
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #163 vào lúc: 25 Tháng Tư, 2011, 09:24:18 pm »

Tới chỉ huy các đơn vị thuộc Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8, ngày 20 tháng 11 năm 1942.

Để thực hiện mệnh lệnh của Tư lệnh Tập đoàn quân 20, quân đoàn ra lệnh:

1. Hoàn thành chiếm lĩnh vị trí xuất phát lúc bình minh ngày 23 tháng 11 năm 1942… Ngụy trang chu đáo việc điều động người và phương tiện… [Cơ động] bộ binh trong các nhóm nhỏ và xe tăng, xe vận tải và xe hỗ trợ từng chiếc một…

3. Loại bỏ hết các tiểu đội và trung đội “người dân dộc” [không phải dân Slav] bằng cách chia họ vào các đơn vị khác. Để ngụy trang, sơn trắng toàn bộ pháo và xe kéo…

4. Trong ngày 22 tháng 11 năm 1942 nghiên cứu các hướng tiến công với cán bộ chỉ huy…

5
a. Tạo điều kiện cho quân nhân ngủ tốt, cho [bộ đội] ăn thức ăn nóng và phân phát khẩu phần vodka cần thiết trước khi tấn công, không được sai sót …

d. Cho tất cả quân nhân tắm và phát một bộ quần áo sạch…

e. Nhận áo choàng trắng và bốt dạ.

Tham mưu trưởng Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8, Đại tá Cận vệ Posiakin.
Trưởng ban tác chiến quân đoàn, Đại tá Cận vệ Andrianov.3


Sở chỉ huy, Mệnh lệnh chiến đấu số 0060 của Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8, 16 giờ 00 ngày 22 tháng 11 năm 1942.

1. Các đơn vị thuộc Sư đoàn bộ binh 78 địch đang phòng ngự khu vực tiến công của quân đoàn với tiền duyên dọc theo bờ tây sông Vazuza. Lực lượng dự bị nằm ở khu vực Kholm-Rogachevskii, Bol'shoe Kropotovo, Arestovo, Sychevka, và Novo-Dugino

2. Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8 cùng với Lữ đoàn xe tăng 18, 31 và 25, Trung đoàn dã pháo 998, Tiểu đoàn cối Cận vệ độc lập 5 và 15 hợp thành binh đoàn cơ động của Tập đoàn quân 20… Tôi yêu cầu các cán bộ chỉ huy đơn vị phải hành động mạnh mẽ, đi đầu và hoàn thành nhiệm vụ tác chiến là đánh chiếm Sychevka.

Tư lệnh Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8, Thiếu tướng Zakharov
Tham mưu trưởng Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8, Đại tá Cận vệ Posiakin4


Mệnh lệnh chiến đấu số 05 từ sở chỉ huy Binh đoàn cơ động Phương diện quân Tây, làng Armino. 18 giờ 00 ngày 23 tháng 11 năm 1942.

1. Địch phòng ngự dọc theo mặt trận [kéo dài] từ Vasel’ki tới Grediakino và về phía nam dọc sông Vazuza.

2. Sau khi bộ binh đã chọc thủng tuyến phòng ngự tiền duyên của địch từ Vasel’ki tới Pechora và tới được tuyến nhiệm vụ ban đầu từ Pashki tới Podosinovka, theo sự chỉ huy của tôi binh đoàn cơ động gồm Quân đoàn kỵ binh Cận vệ 2, Quân đoàn xe tăng 6, Lữ đoàn môtô 1, Tiểu đoàn cối Cận vệ hạng nặng 11 và Trung đoàn chống tăng 6 sẽ bước vào đột phá và tiến tới khu vực Nashchekino, Nikiforovka, và Aleksandrovka cho các hoạt động tác chiến tiếp theo nhằm tiêu diệt tập đoàn địch ở Rzhev. Tập đoàn quân 20 sẽ tiến công với cánh phải ở khu vực Vasel’ki, Pechora với nhiệm vụ chọ thủng tuyến phòng ngự địch và làm chủ Sychevka cùng tuyến đường sắt ở sông Osuga, khu vực Sychevka.

Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8 sẽ vượt sông Vazuza trong hành tiến của binh đoàn cơ động và Lữ đoàn môtô 1 nằm trong thê đội hai của Tập đoàn quân 20… 5


Sở chỉ huy, Mệnh lệnh chiến đấu số 0061 của Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8, 05 giờ 00 ngày 26 tháng 11 năm 1942.

1. Trung đoàn bộ binh 14, Sư đoàn bộ binh 78 đang phòng ngự trên khu vực tiến công của quân đoàn. Lực lượng dự bị địch [bố trí] ở các khu vực sau: tới 1 đại đội - Zherebtsovo và tới 1 trung đoàn - Fediaikovo.

2. Từ sáng 26 tháng 11 năm 1942, Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8 cùng với Lữ đoàn xe tăng 25, 18 và 31, Tiểu đoàn cối Cận vệ độc lập 5 và 15 và Tiểu đoàn công binh 142 sẽ tiến công trên hướng chung tới Zherebtsovo, Borodino, và Sychevka. Sau khi làm chủ Sychevka, chiếm lĩnh và phòng thủ dọc tuyến từ Viazovka qua Kochergovka và (gồm cả) Lomy  to Berezovka.6


Sở chỉ huy, Mệnh lệnh chiến đấu số 0063 của Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8, ngày 28 tháng 11 năm 1942.

1. Ngày 28 tháng 11 năm 1942 Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8 tiếp tục thực hiện nhiệm vụ được giao từ trước và vẫn đang chiến đấu giành quyền kiểm soát Zherebtsovo, điểm cao 210.2, Khlepen' và Staroe Murzino...7


Sở chỉ huy, Mệnh lệnh chiến đấu số 0065 của Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8, ngày 30 tháng 11 năm 1942.

1. Địch gồm Trung đoàn bộ binh 14, Sư đoàn bộ binh 78 vẫn tiếp tục cố thủ các cứ điểm Zherebtsovo, lurovka, Talitsa, Khlepen' và đồng thời các đơn vị dự bị nguyên vẹn của chúng đang tiếp cận các điểm trên đang cố ngăn bước tiến của quân đoàn...8


Sở chỉ huy, Mệnh lệnh chiến đấu số 0066 của Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8, ngày 1 tháng 12 năm 1942.

1. Địch đang ngoan cố giữ Zherebtsovo, Talitsa, Novoe và Staroe Murzino. Lúc bình minh ngày 1 tháng 12 năm 1942, khoảng 2 đại đội bộ binh địch cùng với xe tăng phản kích buộc các đơn vị thuộc Sư đoàn bộ binh 354 phải bỏ Staroe Murzino.9


Sở chỉ huy, Mệnh lệnh chiến đấu số 0067 của Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8, ngày 2 tháng 12 năm 1942.

1. Các đơn vị địch đã được xác định từ trước đang cố chặn cuộc tiến công của quân đoàn bằng cách cố thủ các cứ điểm độc lập.

2. Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8 đang nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ được giao là đánh chiếm các cứ điểm Zherebtsovo, Staroe Murzino và các điểm cao không tên phía tây Pugachevo.10


Tới chỉ huy các đơn vị thuộc Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8, ngày 3 tháng 12 năm 1942

Để thực hiện mệnh lệnh ngày 3 tháng 12 năm 1942 của Tư lệnh Tập đoàn quân 20, tôi ra lệnh:

1. Bước vào tiến công vào ngày 4 tháng 12 năm 1942.

2. Trong đêm 3 rạng 4 tháng 12 năm 1942, tiến hành các trận đánh trinh sát trong khu vực của sư đoàn và lữ đoàn để nhận diện các cụm quân địch và xác định hệ thống hỏa lực của chúng...

6. Rút 30 phần trăm quân số hậu cần và vệ binh ban tham mưu bổ sung cho các đơn vị chiến đấu. Lùng sục tất cả các thung lũng và khu rừng để bắt các quân nhân đào ngũ và đưa họ vào tăng cường cho các đơn vị bộ binh.

Tham mưu trưởng Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8, Đại tá Posiakin
Trưởng ban tác chiến Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8, Trung tá Andrianov.11


Sở chỉ huy, Mệnh lệnh chiến đấu của Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8, ngày 7 tháng 12 năm 1942. 18 giờ 00.

1. Các đơn vị nguyên vẹn của Sư đoàn xe tăng [thiết giáp] 9 vừa tới đang phòng thủ các cứ điểm Podosinovka, Zherebtsovo, lurovka, Talitsa, Staroe và Novoe Murzino. Các đơn vị của quân đoàn đang bị những đợt phản kích cục bộ chặn không tiến thêm được... Các đơn vị khẩn trương bắt đầu công tác công binh trong khu vực. Đầu tiên, bắt đầu với hố cá nhân, chiến hào, công sự và bố trí vật cản.12


Sở chỉ huy, Mệnh lệnh chiến đấu số 0076 của Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8, ngày 8 tháng 12 năm 1942. 24 giờ 00.

1. Trong đêm 9 và 10 tháng 12 năm 1942, Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8 sẽ tiến hành tổ chức lại lực lượng cho trận tiến công sắp tới.13


Sở chỉ huy trong khu rừng phía đông Krasnovo 2,4 ki-lô-mét. Mệnh lệnh chiến đấu số 013 của Quân đoàn xe tăng 5, ngày 8 tháng 12 năm 1942. 12 giờ 00.

1. Địch đang tiếp tục kháng cự mạnh các đơn vị của Tập đoàn quân 20 dọc theo tuyến từ Vasel'ki qua Krivisheevo, Bol'shoe and Maloe Kropotovo, Podosinovka, Zherebtsovo, Talitsa tới Pugachevo và xa hơn về phía nam... Bằng hành quân ban đêm, đến 08 giờ 00 ngày 10 tháng 12 năm 1942, Quân đoàn xe tăng 5 sẽ tái bố trí ở vị trí xuất phát ở khu vực Arestovo, Mốc 188.3, Pod'iablon'ka, Mốc 176.0, và Staraia Grinevka; và từ sáng 10 tháng 12 chuẩn bị chiến đấu trên hướng tây nam, phối hợp với các đơn vị Tập đoàn quân 20.14
Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
chiangshan
Trung tá
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #164 vào lúc: 25 Tháng Tư, 2011, 09:26:42 pm »

Sở chỉ huy trong khu rừng phía đông Krasnovo 2,4 ki-lô-mét. Mệnh lệnh chiến đấu số 010 của Quân đoàn xe tăng 5, ngày 10 tháng 12 năm 1942. 08 giờ 00.

1. ...Các đơn vị địch thuộc Sư đoàn bộ binh 78, Trung đoàn bộ binh 430, Sư đoàn bộ binh 129, Sư đoàn xe tăng [thiết giáp] 5 và Sư đoàn xe tăng [thiết giáp] 9 đang phòng ngự dọc theo tuyến từ Vasel'ki qua Kriboshchekovo, Bol'shoe Kropotovo, Maloe Kropotovo, Podosinovka, Zherebtsovo, Talitsa, và Staroe Murzino tới Isaevskoe... Bộ binh đang tập trung trong khu vực Berezovo, và tới 14 xe tăng cùng một sở chỉ huy cấp trung đoàn đang cố thủ trong khu vực Lopatok. Có một hệ thống giao thông hào - công sự và lô cốt - chạy dọc tiền duyên phòng thủ với chiều sâu tối đa 3 ki-lô-mét. Lực lượng dự bị dưới dạng các nhóm nhỏ bộ binh và xe tăng đang được tung vào, và bằng những đợt phản kích [địch] đang cố giữ tuyến đường sắt ở Osuga, khu vực Sychevka.

Bên cánh phải, Quân đoàn kỵ binh Cận vệ 2 và Quân đoàn xe tăng 6 sẽ tiến công từ vị trí xuất phát ở khu vực Nikonovo, Grinevka, Kuznechikha (bao gồm cả nơi này), và Kriukovo với một đòn đánh trên hướng ...Makrushi... nhằm phối hợp với Sư đoàn bộ binh [Cận vệ] 30 làm chủ tuyến từ Mốc 04.8 tới Mốc 03.7...

3. Từ vị trí xuất phát ở Arestovo, Pod'iablon'ka, Bobrovka, quân đoàn cùng với Trung đoàn pháo chống tăng Cận vệ 3 và Đại đội công binh-bom mìn Cận vệ 11 sẽ đột phá trong khu vực từ khu rừng nằm phía tây bắc Podosinovka (gồm cả nơi này) tới Zherebtsovo và tiến công trên hướng Podosinovka, Lopatok, Pomel'nitsy (gồm cả nơi này) để làm chủ Podosinovka và Lopatok. Ngoài ra, chiếm khu vực Mốc 03.0, Kharino, Borodino và trạm xe lửa phía đông Pomel'nitsy. Sử dụng các phân đội đi trước chiếm và giữ vững Skekrushino, ...Bol'shoe Krasnoe, Karavaevo và giao điểm của con đường phía nam Kriukovo 1 ki-lô-mét. Sau đó chuẩn bị để tiến công theo hướng Karavaevo, Sychevka và Kriukovo, Solokino. Tiến công theo tín hiệu 222 và hai loạt pháo sáng đỏ.

4. Quyết định: đột phá tuyến phòng ngự địch bằng một đòn tiến công trên các hướng với đội hình chiến đấu 4 thê đội... Sau đó chuẩn bị để hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm Sychevka và xa hơn trên hướng Kriukovo và Sokolino.

Tư lệnh Quân đoàn xe tăng 5, Thiếu tướng xe tăng Semenchenko.
Tham mưu trưởng quân đoàn, Đại tá Zelensky.15


Sở chỉ huy, Mệnh lệnh chiến đấu số 0081, ngày 13 tháng 12 năm 1942. 20 giờ 00.

3. Cảnh báo tất cả các sĩ quan chỉ huy rằng việc tự ý rời vị trí chiến đấu khi không có lệnh sẽ được coi là phản bội Tổ quốc…

5. Báo cáo trực tiếp cho tôi về tình hình sẵn sàng phòng thủ [của các đồng chí] vào 08 giờ 00 ngày 14 tháng 12. Trong trường hợp địch tiến công, sống chết với vị trí của mình và tiêu diệt địch, nhưng không được lùi một bước.

Quyền chỉ huy trưởng Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8.

Thiếu tướng Ksenofontov.
Tham mưu trưởng, Đại tá Cận vệ Posiakin.16

Mệnh lệnh độc lập số 080 của Tập đoàn quân 20, ngày 14 tháng 12 năm 1942. 04 giờ 50.

Tới chỉ huy Sư đoàn bộ binh 336, Cận vệ 30, 415, 379 và 247, Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8 cùng Quân đoàn xe tăng 5 và 6:

1. Địch đang cố gắng chặn mũi tiến công của ta dọc theo tuyến từ Bol’shoe và Maloe Kropotovo qua Podosinovka, Talitsa, Novoe Murzino tới Staroe Murzino bằng cách tung các đơn vị dự bị tại chỗ vào tham chiến.

2. Ngày 14 tháng 12 năm 1942 tập đoàn quân sẽ tiếp tục tiến công với mục tiêu đập nát sức đề kháng của địch và mở rộng đột phá khẩu ở hướng tây bắc và tây nam bằng cách tấn công từ bên cánh…

Từ 09 giờ 00 đến 12 giờ 00, tiêu diệt quân số và trang bị địch, tiêu diệt các vị trí phòng thủ ở khu vực phía trước và trong chiều sâu chiến thuật gần bằng hỏa lực được chuẩn bị phần tử chu đáo.

Từ 12 giờ 00 đến 12 giờ 10, tổ chức một đợt pháo kích bằng pháo binh và súng cối vào tiền duyên và chiều sâu chiến thuật gần của địch. Bộ binh và xe tăng tiến công lúc 12 giờ 10 ngày 14 tháng 12 năm 1942. Xác nhận và báo cáo lại việc thực hiện.

Tư lệnh Tập đoàn quân 20, Trung tướng Khozin.
Ủy viên Hội đồng Quân sự, Thiếu tướng Lobachev.
Tham mưu trưởng,Thiếu tướng Vashkevich.17


Mệnh lệnh tác chiến số 050 của Tập đoàn quân 20 [tại sở chỉ huy dự bị], ngày 14 tháng 12 năm 1942. 14 giờ 30.

Tập đoàn quân ra lệnh:

1. Hoãn thực hiện Mệnh lệnh độc lập số 079 và 080 tới ngày 15 tháng 12 năm 1942.

2. Tới chỉ huy các đơn vị: tận dụng ngày 14 tháng 12 và đêm 14 tháng 12 rạng 15 tháng 12 năm 1942 để tổ chức hiệp đồng các lực lượng tốt hơn, củng cố lại các đơn vị và bổ sung cho họ tới mức cần thiết tối thiểu bằng các bộ phận hậu cần.

3. Để thực hiện nhiệm vụ được giao trong Mệnh lệnh độc lập số 079 và 080, tổ chức các phân đội xung kích gồm bộ binh, súng cối, súng máy, súng trường chống tăng, công binh mang bộc phá cùng 1 hay 2 xe tăng và pháo hộ tống để tiêu diệt các lô cốt lẻ… và đồng thời cô lập các trung tâm đề kháng lẻ của địch.

4. Để cải thiện các vị trí chiến thuật trong đêm 14 tháng 12 rạng 15 tháng 12, thực hiện các nhiệm vụ sau:

a. Chỉ huy Sư đoàn bộ binh 326 sẽ chiếm Vasel’ki và các điểm cao tại Mốc 198.0 với các phân đội xung kích.
b. Chỉ huy Sư đoàn bộ binh 251 sẽ quét sạch rừng “Sapog”.
c. Chỉ huy Sư đoàn bộ binh Cận vệ 42 sẽ chiếm điểm cao 102.0.

Tới chỉ huy các sư đoàn thuộc Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8: từ 09 giờ 00 tới 12 giờ 00 ngày 15 tháng 12 năm 1942, tiêu diệt các vị trí phòng thủ địch bằng hỏa lực được chuẩn bị phần tử chu đáo và từ 12 giờ 00 đến 12 giờ 10 [tiến hành] một đợt pháo kích bằng pháo binh và súng cối vào tiền duyên và chiều sâu chiến thuật gần của địch.

Bộ binh và xe tăng tiến công lúc 12 giờ 10 ngày 15 tháng 12 năm 1942.

Tham mưu trưởng Tập đoàn quân 20, Thiếu tướng Vashkevich.18


Nhật ký chiến đấu của Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8, tháng 5 năm 1942 tới tháng 1 năm 1943.

25 tháng 11 năm 1942 – 08 giờ 20 – pháo kích dọn đường bắt đầu. 09 giờ 50 – các đơn vị thê đội một bước vào tiến công. Lúc 11 giờ 30 toàn bộ các đơn vị thuộc Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8 tiếp tục nối lại tiến công…

Tổn thất quân số của Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8 từ ngày 25 tới 30 tháng 11 năm 1942 gồm 1.116 hy sinh, 4.623 bị thương, 197 mất tích và 122 bệnh binh, tổng cộng 6.058 người. Chiến lợi phẩm gồm 10 tù binh bị bắt, 125 súng trường, 9 trung liên, 2 đại liên, 2 xe tăng và 8 súng cối bị tịch thu; tiêu diệt 5.405 địch và 225 ngựa; phá hủy 557 súng trường, 29 trung liên, 21 đại liên, 18 pháo, 17 xe tăng và 15 lô cốt. Ba điểm dân cư Khlepen', Kholm, và Prudy đã được giải phóng…

Đến ngày 7 tháng 12 năm 1942, quân số của Sư đoàn bộ binh Cận vệ 26 còn lại 118 xạ thủ súng trường và tiểu liên, 22 xạ thủ súng tự động, 67 xạ thủ đại liên, 159 trinh sát và 153 xạ thủ súng trường chống tăng…

Đến ngày 7 tháng 12 năm 1942, còn lại 27 xạ thủ súng trường và súng tự động trong Lữ đoàn bộ binh độc lập 148. Còn lại 695 người trong Lữ đoàn bộ binh độc lập 150, bao gồm 110 “chiến đấu viên”.19
Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
chiangshan
Trung tá
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #165 vào lúc: 25 Tháng Tư, 2011, 09:27:09 pm »

Nhật ký chiến đấu của Quân đoàn xe tăng 5: từ tháng 5 tới tháng 12 năm 1942.

Trong đêm 8 rạng ngày 9 tháng 12 năm 1942, thực hiện Mệnh lệnh tác chiến số 2 của Tập đoàn quân 20, trong đó Quân đoàn xe tăng 5 có nhiệm vụ tổ chức tiến công từ vị trí xuất phát ở khu vực Arestovo và Podosinovka trên hướng chung Bol'shaia Mel'nitsa và chiếm khu vực Kharino, Borodino, Mốc 290.7, Pomel'nitsy nhằm kiểm soát tuyến qua Zherebtsovo…

DIỄN BIẾN CHIẾN ĐẤU NGÀY 11 THÁNG 12 NĂM 1942

Trong quá trình các đơn vị tác chiến của quân đoàn tiếp cận Podosinovka, địch dùg pháo binh bắn phá dữ dội.

Lúc 15 giờ 30, nhận được lệnh từ phó chủ nhiệm bộ đội thiết giáp, Tướng Mostovenko, yêu cầu đào công sự giữ vững vị trí cho đến khi bộ binh tới.

Trong đêm 12 tháng 12 năm 1942, nhận được lệnh của Tư lệnh Tập đoàn quân 20 cho rút xe tăng về các vị trí xuất phát… Tổn thất của xe tăng trong trận đánh ngày 11 tháng 12 năm 1942 là 17 KV, 20 T-34, 11 T-70 và Lữ đoàn bộ binh cơ giới hóa 5 tổn thất khoảng 50 phần trăm quân số, gồm 95 sĩ quan chỉ huy, 320 hạ sĩ quan và 412 chiến sĩ, tổng cộng 827 người.

DIỄN BIẾN CHIẾN ĐẤU NGÀY 12 THÁNG 12 NĂM 1942

Lúc 08 giờ 30 khoảng 1 tiểu đoàn bộ binh địch với 18 xe tăng phản kích Tiểu đoàn 1 Lữ đoàn bộ binh cơ giới hóa 5, kết quả là 2 đại đội rút khỏi Zherebtsovo và chiếm lĩnh phòng ngự phía bắc Zherebtsovo 250 mét… Lúc 13 giờ 00 quân ta chiếm được Podosinovka. Tư lệnh Tập đoàn quân 20 ra lệnh tiếp tục tiến lên. Đã rõ ràng rằng khi bộ binh và xe tăng ta tới khu ngoại vi phía đông Podosinovka, pháo phản lực bắn loạt [của ta] bắn 2 loạt vào ranh giới phía đông Podosinovka và 7 xe tăng ta bị phá hủy…

Tổn thất chiến đấu trong ngày gồm Lữ đoàn xe tăng 24 mất 4 KV, 4 T-70; Lữ đoàn xe tăng 41 mất 9 T-34; Lữ đoàn xe tăng 70 mất 6 T-34 và Lữ đoàn bộ binh cơ giới hóa 5 mất 395 người.

DIỄN BIẾN CHIẾN ĐẤU NGÀY 13 THÁNG 12 NĂM 1942

Chiến sự tiếp diễn ở khu vực Podosinovka… Tổn thất trong ngày là Lữ đoàn bộ binh cơ giới hóa 5 mất 171 người, Lữ đoàn xe tăng 41 mất 2 T-34, 3 T-70, 4 T-60; Lữ đoàn xe tăng 70 mất 5 T-34, 2 T-70, 8 T-60 và Lữ đoàn xe tăng 24 mất 2 KV.

Trong ngày 14 tháng 12 năm 1942, các xe tăng của quân đoàn được bố trí ở khu vực Arestovo ban đầu. Đến tối nhận được chỉ dẫn cho bộ đội thiết giáp của phó tư lệnh tập đoàn quân về việc tổ chức 1 tiểu đoàn tăng từ số xe còn lại của tất cả các lữ đoàn. Bộ phận còn lại của các tiểu đoàn bộ binh cơ giới hóa thuộc Lữ đoàn bộ binh cơ giới hóa 5 và các lữ đoàn tăng được sáp nhập thành 1 tiểu đoàn bộ binh cơ giới hóa…

Trong quá trình tác chiến từ ngày 11 đến 14 tháng 12 năm 1942, các đơn vị thuộc Lữ đoàn bộ binh cơ giới hóa 5 đã tiêu diệt khoảng 3 tiểu đoàn bộ binh, khoảng 15 xe tăng, 90 xe vận tải và 4 trận địa cối… trên tiền duyên khoảng 10 hỏa điểm đã bị chế áp. Khoảng 15 xe tăng địch đã bị đánh bật trở về.

Từ ngày 15 đến 17 tháng 12 năm 1942, quân đoàn bố trí trong các vị trí xuất phát tiến công. Lúc 09 giờ 30 ngày 19 tháng 12 năm 1942 nhận được điện mã hóa từ Tham mưu phó Phương diện quân Tây, Thiếu tướng Pokrovsky về việc rút quân đoàn về dự bị phương diện quân. Ngày 20 tháng 12 năm 1942, theo chỉ thị của Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây, Thiếu tướng Semenchenko rời quân đoàn và Đại tá Sakhno nắm chỉ huy Quân đoàn xe tăng 5.20


Tới chỉ huy các đơn vị thuộc Tập đoàn quân 20, ngày 21 tháng 12 năm 1942. 17 giờ 20.

Chỉ thị về chuẩn bị lực lượng tiến công và biện pháp đột phá dải phòng ngự địch dọc tuyến sông Osuga, Bol'shoe và Maloe Kropotovo, Podosinovka, Zherebtsovo, Talitsa, Staroe Murzino, Isaevskoe, Stepanovo:

1. Kể từ ngày 25 tháng 11 năm 1942, bộ đội Tập đoàn quân 20 đã tác chiến liên tục ở phía tây sông Vazuza. Trong quá trình chiến đấu đã tạo ra được đoạn đột phá rộng 11 ki-lô-mét và sâu 6 ki-lô-mét trên dải phòng ngự được củng cố khá tốt của địch. Quân ta đã đánh bại Sư đoàn bộ binh 78 cùng Sư đoàn xe tăng [thiết giáp] 5 và 9 và gây thiệt hại nặng cho các đơn vị thuộc Sư đoàn bộ binh 129, 216, 52 và Sư đoàn xe tăng [thiết giáp] 2. Theo các thông tin được ghi nhận, trong quá trình chiến đấu đã tịch thu hoặc phá hủy: 271 khẩu pháo gồm nhiều cỡ nòng, 186 xe tăng, 90 máy bay, 646 đại liên, 335 vũ khí tự động, 4.200 súng trường, 6.000 viên đạn pháo và 500.000 viên đạn bộ binh. Hơn 10.000 sĩ quan và binh lính địch bị diệt và 265 tên bị bắt làm tù binh; ngoài ra nhiều quân trang, quân dụng khác bị tịch thu hoặc phá hủy. Dù có thành công về lãnh thổ lớn, tầm quan trọng chiến dịch và chiến lược của các trận đánh trên được quyết định bởi các yếu tố: sự tạo thành nguy cơ trực tiếp đe dọa tuyến liên lạc chính của cụm quân Rzhev-Olenino-Chertolino; việc cầm chân và ở một mức độ đáng kể là tiêu diệt các đơn vị dự bị chiến dịch địch – Sư đoàn xe tăng [thiết giáp] 2, 5 và 9 vốn được chỉ định chuyển tới Stalingrad.

2. Tính chất đặc biệt ác liệt và kéo dài của cuộc chiến đấu được thể hiện khi bộ đội của tập đoàn quân tới được tuyến sông Osuga, Bol'shoe and Maloe Kropotovo, Podosinovka, và Talitsa. Nguy cơ bị cắt liên lạc buộc địch phải điều chuyển lực lượng dự trữ từ các khu vực mặt trận khác và hy sinh những đơn vị dự bị chiến dịch để giữ vị trí của chúng bằng mọi giá.

3. Kinh nghiệm của các trận đánh trên [cho thấy] hệ thống phòng ngự địch (một dải các vị trí phòng ngự vững chắc được chuẩn bị từ trước) đòi hỏi một lần nữa chúng ta phải thay đổi phương thức tiến công và tổ chức lại các đơn vị tác chiến.

4. Trong các trận đánh tới, để đột phá phòng ngự địch, chúng tôi đề xuất những cơ sở sau cho việc tổ chức đội hình chiến đấu của sư đoàn:

a. Tổ chức lực lượng thành 2 hoặc 3 thê đội.

b. Bố trí các phân đội xung kích trong thê đội một tấn công… Kết cấu ước tính của một phân đội có thể gồm 1 hoặc 2 trung đội bộ binh trang bị lựu đạn, vũ khí tự động và chai cháy “KS”, 1 hoặc 2 tiểu đội công binh trang bị bộc phá, 2 tới 3 súng trường chống tăng, 1 tiểu đội hoặc trung đội cối 82mm và 1 hoặc 2 xe tăng và pháo đi cùng kéo sau xe tăng.

c. Nhiệm vụ của thê đội một là đột phá mục tiêu tấn công tới toàn bộ chiều sâu vị trí phòng ngự đầu tiên của địch…

d. Các thê đội tiếp theo sẽ …tiêu diệt toàn bộ chiều sâu chiến thuật phòng ngự của địch, trong khi tăng cường sức tiến công của các phân đội xung kích thê đội một. Bố trí các phân đội chốt trong thê đội ba.

e. Pháo binh cấp trung và sư đoàn… không được phối thuộc trong thành phần các binh đội và phân đội xung kích sẽ yểm trợ và bảo vệ cuộc tiến quân của các phân đội xung kích bằng hỏa lực trực tiếp…

f. Pháo binh tăng cường… [phải] có liên lạc trực tiếp với chỉ huy bộ binh.

5. Tận dụng thời gian còn lại trước chiến dịch [như sau]: 20-21 tháng 12 năm 1942 để triển khai tổ chức và củng cố các đơn vị… theo mệnh lệnh ngày 19 tháng 12 năm 1942 cho các cán bộ chỉ huy: sắp xếp lực lượng và chăm sóc quân y cho các đơn vị; cho quân nhân nghỉ ngơi; ngày 22 và 23 tháng 12 năm 1942 tổ chức đội hình và huấn luyện các đơn vị xung kích.

Tư lệnh Tập đoàn quân 20, Trung tướng General Khozin.
Ủy viên Hội đồng Quân sự Tập đoàn quân 20, Thiếu tướng Lobachev.
Tham mưu trưởng Tập đoàn quân 20, Thiếu tướng Vashkevich.21
Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
chiangshan
Trung tá
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #166 vào lúc: 25 Tháng Tư, 2011, 09:33:40 pm »

Một tài liệu về tác chiến của Tập đoàn quân 20 dọc tuyến sông Vazuza, 25 tháng 11 tới 18 tháng 12 năm 1942.

Ngày 1 tháng 10 năm 1942, chỉ huy Tập đoàn quân 20 nhận được Chỉ thị số 0289 từ Tư lệnh Phương diện quân Tây, cho biết nhiệm vụ tiêu diệt tập đoàn địch ở Sychevka-Rzhev của Phương diện quân Tây với bộ đội Tập đoàn quân 29, 30, 31 và 20 cùng các đơn vị của Phương diện quân Kalinin.

Theo chỉ thị trên, Tập đoàn quân 20 được giao nhiệm vụ đột phá tuyến phòng ngự địch ở khu vực Vasel’ki, Pechora và tổ chức mũi tiến công của Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8 vào Sychevka cùng với binh đoàn cơ động. Đến cuối ngày đầu tiên của chiến dịch [Tập đoàn quân 20] phải tới được tuyến đường sắt Rzhev-Sychevka và làm chủ Sychevka…

Sau đó, trong khu phòng ngự vững chắc dọc sông Vazuza ở khu vực Podosinovka, Sychevka, Mar'ino và dọc tuyến Viazovka, luriantino, Podsoson'e ở phía tây và tây nam, [tập đoàn quân] sẽ tiến công bằng lực lượng chủ lực trên hướng tây bắc qua Karpovo, Osuiskoe, Afonasovo. Hiệp đồng với Tập đoàn quân 31 tiêu diệt cụm quân Rzhev của địch…

Theo Chỉ thị số 0289/OP của Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây, tập đoàn quân phải chuẩn bị để tiến công vào ngày 12 tháng 10 năm 1942. Tuy nhiên tập đoàn quân chưa sẵn sàng tác chiến ở thời điểm chỉ định, và ngày tiến công đã được hoãn lại…

Vào ngày 25 tháng 11 năm 1942, Tập đoàn quân 20 bao gồm 114.176 người, 66.103 súng trường, 6.986 PPD (trung liên) và PPSh (tiểu liên), 317 xe tăng, 919 khẩu pháo các loại, 1.331 súng cối, 1.942 súng trường chống tăng và 6.104 xe vận tải…

Quân Đức ngoan cố phòng ngự trong suốt quá trình chiến dịch. Liên quan tới chuyện này, một tù binh Đức [hạ sĩ] tuyên bố, “Đối với chúng tôi rõ ràng là phải phòng thủ bằng mọi giá; nếu không quân Nga sẽ chiếm được đường xe lửa Rzhev, và quân Đức sẽ phải rút về Smolensk, và rồi chắc chắn lính Nga sẽ có mặt ở Berlin…”

Theo lời khai của một lính Đức bị bắt, “Địch chuẩn bị cho chiến dịch mùa đông tốt hơn năm trước… từ tháng 11 binh lính đã được phát thêm áo choàng thứ hai và tất cả các hầm ngầm và công sự đều được trang bị lò sưởi”.

ĐẶC ĐIỂM HỆ THỐNG PHÒNG NGỰ CỦA ĐỊCH

Đặc trưng chính của công tác chuẩn bị của công binh trên địa hình phòng tuyến này là một hệ thống các cứ điểm dựa vào những ngôi làng đã bị phá hủy và các cao điểm được nối với nhau bằng giao thông hào ở phía trước…

Hệ thống hỏa lực của địch… được tổ chức với sự kết hợp của hỏa lực súng máy, súng cối và pháo binh phía trước các cứ điểm… Hệ thống hỏa điểm dọc tiền duyên được di chuyển từ điểm này qua điểm khác, và điều đó gây khó khăn cho việc phát hiện và tiêu diệt chúng.

Vào ngày 25 tháng 11 năm 1942, Sư đoàn bộ binh 78 và Sư đoàn xe tăng [thiết giáp] 5 Đức đối diện Tập đoàn quân 20 có quân số 17.820 tên.

So sánh lực lượng hai bên vào ngày 25 tháng 11 năm 1942 như sau [theo tỉ lệ]:
   


Quân số
Súng trường
Súng tự động
Trung liên
Đại liên
Súng trường chống tăng
Pháo chống tăng
Dã pháo
Súng cối
          Lực lượng Tập đoàn quân 20

5,4
6
6,3
3,3
3,6
17,2
6
3,4
10
          Sư đoàn bộ binh 78 và xe tăng 5 Đức

1
1
1
1
1
1
1
1
1

Pháo binh chiến dịch bắt đầu lúc 07 giờ 20 ngày 25 tháng 11 năm 1942. Lúc 09 giờ 20, sau một đợt pháo hỏa chuẩn bị kéo dài một tiếng rưỡi, cuộc tiến công bắt đầu…

Trong ngày tiến công đầu tiên, các đơn vị cánh trái của Tập đoàn quân 31 cũng không đạt được thành công…

So sánh lực lượng hai bên vào ngày 11 tháng 12 năm 1942 như sau:



Quân số
Quân số (trên km mặt trận)
Dã pháo
Pháo (trên km mặt trận)
          Tập đoàn quân 20

80.322
3.825
866
41
          Quân Đức (Sư đoàn bộ binh 78 và xe tăng 5)

31.651
1.507
287
13,7
          So sánh

2,5:1

3:1

Giai đoạn hai chiến dịch bắt đầu lúc 10 giờ 10 ngày 11 tháng 12 năm 1942 với một đợt pháo hỏa dọn đường kéo dài 30 phút. Qua hỏi cung, một tù binh Đức bị Tập đoàn quân 20 bắt khai rằng, “Dường như thế giới đang đi đến ngày tận thế… Khi pháo kích chấm dứt, tôi muốn chui ra nhưng một lần nữa phải ẩn nấp vì chiến xa đang tràn tới. Từ trong hố cá nhân tôi đếm được tới 40 chiến xa hạng nặng… Chúng tôi nghĩ rằng mình sẽ chết nhưng đã được cứu bởi những khẩu đại bác xung kích tầm xa”.

Vào ngày 12 tháng 12 năm 1942 chiến dịch tiến công của bộ đội Tập đoàn quân 20 tiếp tục ở hướng tây và tây nam.

Bắt đầu từ ngày 18 tháng 12, Tập đoàn quân 20 chuyển vào phòng ngự. Tổn thất của tập đoàn quân trong giai đoạn từ 25 tháng 11 đến 12 tháng 12 năm 1942 là 13.929 hy sinh, 41.999 bị thương và 1.596 mất tích, tổng cộng 58.524 người…

Bộ đội Tập đoàn quân 20 đã phá hủy 220 khẩu pháo đủ loại của địch cùng 165 xe tăng, bắn rơi 13 máy bay và phá hủy 125 súng cối. Hơn 10.000 sĩ quan và binh lính địch bị tiêu diệt và 265 tên bị bắt làm tù binh, cùng với 1.100 súng trường, 180 súng tự động, 196 súng máy, 51 khẩu pháo, 21 xe tăng, 1 quân kỳ, 6.000 viên đạn pháo và 300 quả mìn bị tịch thu.22


Tác chiến của Tập đoàn quân 29, tháng 7 đến tháng 12 năm 1942.

Từ ngày 5 đến 12 tháng 12 năm 1942, với quy mô tác chiến cấp phương diện quân, Tập đoàn quân 29 chiếm lĩnh cánh trái của Tập đoàn quân 20 đang tiến công ở hướng chính vào Sychevka và mở rộng đoạn đột phá dọc theo trục Sychevka…

KẾT LUẬN

Đặc điểm của giai đoạn chuẩn bị tiến công là sự yếu kém về kỹ năng của một bộ phận cán bộ chỉ huy cùng cơ quan tham mưu trong việc tổ chức công tác trong tình huống phức tạp và thời gian hạ chế. Không có đủ thời gian cần thiết cho rekognostsirovka (trinh sát cá nhân) địa hình và tổ chức hiệp đồng cấp tiểu đoàn-sư đoàn và tiểu đoàn-đại đội xe tăng…

Chiến dịch tiến công tháng 12 của tập đoàn quân dọc theo trục Sychevka hoàn toàn không có sự chi viện của không quân. Chỉ có một trường hợp không quân cường kích hành động hỗ trợ Tập đoàn quân 29 vào ngày 5 tháng 12 năm 1942, nhưng trong trường hợp này tập đoàn quân được biết về quyết định của chỉ huy phương diện quân [cho không quân chi viện] quá muộn và không cảnh báo kịp cho bộ đội…

Các lữ đoàn xe tăng được đưa vào chiến đấu trong hành tiến sau khi đã hành quân 120 ki-lô-mét. Không có thời gian cho trinh sát hay nghiên cứu diễn biến chiến sự. Các kíp lái [xe tăng] không thông thạo hệ thống phòng thủ chống tăng của địch ở tiền duyên và trong tung thâm, họ không biết địa hình của trận đánh sắp tới và họ bước vào tham chiến và mất phương hướng. Vào ngày 5 và 6 tháng 12 năm 1942, trong những ngày tác chiến đầu tiên, khả năng quan sát trên chiến trường đã bị hạn chế bởi tầm nhìn kém (sương mù dày) và thiếu sự liên lạc với cái đài quan sát bộ binh, pháo binh và xe tăng.23
Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
chiangshan
Trung tá
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #167 vào lúc: 25 Tháng Tư, 2011, 09:34:56 pm »

Báo cáo về hoạt động tác chiến và báo cáo của Quân đoàn kỵ binh Cận vệ 2, 25 tháng 11 năm 1942 đến tháng 1 năm 1943.

Tới Tổng thanh tra kỵ binh Hồng quân, Đồng chí Thượng tướng Gorodovikov, báo cáo về tác chiến của Quân đoàn kỵ binh Cận vệ 2 từ 25 tháng 11 đến 18 tháng 12 năm 1942, ngày 20 tháng 12 năm 1942:

1. Mục tiêu chung của chiến dịch là tiêu diệt mấu lồi Rzhev nhằm đặt các tập đoàn quân của Phương diện quân Tây và Kalinin vào vị trí bên cánh thuận lợi cho các trận tấn công tiếp theo theo trục nam và tây nam…

2. Nhiệm vụ của tập đoàn quân. Tập đoàn quân 20 được giao nhiệm vụ đột phá chiến tuyến địch trên chính diện rộng 10 ki-lô-mét ở khu vực Vasel’ki, Pechora. Tiến hành mũi chủ công trên cánh phải, [đơn vọ] sẽ tiêu diệt địch ở tây sông Vazuza và chiếm tuyến đường sắt Osuga-Sychevka cùng thành phố Sychevka. Sau đó [đơn vị] sẽ ngăn chặn lực lượng dự bị địch tiếp cận từ phía nam và phản kích từ phía đông nam. Sau đó, [đơn vị] sẽ hoạt động trên hướng bắc và đông bắc với 4 sư đoàn bộ binh và binh đoàn cơ động (Quân đoàn kỵ binh Cận vệ 2 và Quân đoàn xe tăng 6) nhằm bắt tay với các tập đoàn quân thuộc Phương diện quân Kalinin tiêu diệt tập đoàn địch ở Rzhev. Trên cánh phải, Tập đoàn quân 31 sẽ tiến hành mũi chủ công trên hướng ga Osuga và sau đó ngoặt sang hướng bắc để tiến công theo dọc đường xe lửa tới Rzhev, phối hợp với Tập đoàn quân 20. Trên cánh trái, Tập đoàn quân 29 sẽ mở trận tiến công thứ yếu bằng cánh phải của mình.

Trong thời gian hoãn ngày mở chiến dịch, thẩm vấn tù binh cho thấy địch đã phát hiện chuẩn bị của ta. Kết quả là chúng có thời gian để tiến hành các biện pháp đối phó, đầu tiên là tăng cường bãi mìn và củng cố trong tung thâm và sau đó đưa các sư đoàn sung sức tới…

Quân đoàn xe tăng 6 hoạt động trên hướng đông nam có nhiệm vụ chiếm Sychevka.

Sau một đợt bắn pháo chuẩn bị mạnh nhưng trong điều kiện thời tiết với tầm nhìn kém và chỉ phát huy hỏa lực theo diện, lúc 10 giờ 00 ngày 25 tháng 11 cuộc tiến công bắt đầu. Trong ngày hôm đó Tập đoàn quân 20 chỉ tiến được từ 1 đến 2 ki-lô-mét, chỉ đè bẹp được sức đề kháng của địch dọc theo tiền duyên phòng ngự…

Tập đoàn quân 31 và 29 bên cạnh cũng tiến công ở những khu vực khác nhau nhưng bị chặn lại. Chiến dịch được đánh giá là không hoàn thành nhiệm vụ…

Từ 25 tháng 11 năm 1942 đến 18 tháng 12 năm 1942, Quân đoàn kỵ binh Cận vệ 2 tổn thất 6.717 người hy sinh, bị thương và mất tích. Tổn thất về ngựa lên tới 6.141.

Tư lệnh Quân đoàn kỵ binh Cận vệ 2, Thiếu tướng Kriukov.24


Báo cáo chiến đấu và tổng kết hoạt động của Quân đoàn kỵ binh Cận vệ 2, từ 26 tháng 11 năm 1942 tới 11 tháng 2 năm 1943.

Từ một báo cáo của chỉ huy đơn vị kỵ binh, Đại tá Kursakov, ngày 12 tháng 1 năm 1943:

1…. Quá trình bước vào đột phá của Sư đoàn kỵ binh Cận vệ 3:

Lúc 24 giờ 00 ngày 25 tháng 11 năm 1942, Sư đoàn kỵ binh Cận vệ 3 nhận được lệnh bước vào đột phá với đội hình mở nhằm đánh chiếm Nông trường quốc doanh A. M. Nikishkino và Belokhvostovo và kiểm soát tuyến đường sắt Rzhev-Sychevka…

Kết luận: các đơn vị của sư đoàn đã không tiến hành đột phá, họ không chuẩn bị sẵn sàng và nhanh chóng bị thiệt hại nặng…

Trong thời gian từ 27 tháng 11 năm 1942 đến 2 tháng 12 năm 1942, đơn vị tiến hành chiến đấu quyết liệt ở khu vực Belokhvostovo, Lozhki, và Karpovskii Bol'shak…

Từ ngày 18 tháng 12 năm 1942 muối đã cạn, bộ đội phải ăn mà không có muối; không có chăn hay thức ăn cho thú nuôi và ngựa… Có rất nhiều trường hợp thiếu cỏ khô cho ngựa…

5. Tổn thất của đơn vị kỵ binh như sau: 1.600 người, 1.200 ngựa (khoảng 400 chiến lợi phẩm), 9 đại liên và 9 khẩu pháo tiến vào đột phá. Khoảng 1.000 người, 50 ngựa và 5 đại liên thoát ra… Trong số này có 75 thương binh và khoảng 100 bệnh binh. Quân ta phá hủy 4 đại liên và 4 pháo. Quân ta giấu 7 xe vận tải đủ loại, 3 khẩu súng cao xạ… và 5 khẩu cối 120mm trong rừng.

6. Trong số 600 thương vong, 132 thương binh và bệnh binh ở lại với du kích trong đầm lầy Ushinskii và 75 bệnh binh ở lại với đơn vị du kích Sychevka; 128 thương binh hy sinh trong rừng Kortutavsdi; 66 người không phá vây và ở lại với du kích (bao gồm cả tiểu đoàn quân y); khoảng 20 người hy sinh do kiệt sức, 15 người bị xử bắn vì vi phạm kỷ luật và 10 người bị bắt; tổng cộng 430 người; 170 người hy sinh trong chiến đấu, cho con số chung là 600.

7. Khoảng 600 ngựa bị giết hay chết do vết thương, 550 bị gục do kiệt sức, 300 (từ số kiệt sức) bị giết để cung cấp thức ăn cho bộ đội và hàng chục con khác ở lại cùng du kích.

8. Theo các thông tin sơ bộ, tổn thất của địch là 300 chết và khoảng 300 bị bắt hay bị diệt… [Quân ta] bắn rơi 6 máy bay và đốt cháy 2 chiếc trên sân bay, phá hủy hay đốt cháy khoảng 36 xe tăng.

Chỉ huy đơn vị kỵ binh, Đại tá Kursakov.
Chỉ huy Sư đoàn kỵ binh Cận vệ 3, Đại tá Iagodin.25
Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
chiangshan
Trung tá
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #168 vào lúc: 25 Tháng Tư, 2011, 09:35:45 pm »

Tập đoàn quân 41, 22, 39 và các đơn vị trực thuộc

Báo cáo của đại diện Tập đoàn quân không quân 3 đi cùng Quân đoàn cơ giới 1 trong Chiến dịch “Sao Hỏa”.

Ngày 25 tháng 11 năm 1942, Quân đoàn cơ giới 1 (Lữ đoàn xe tăng 219 và 65, Lữ đoàn cơ giới 19, 35 và 37) tiến công ở khu vực Maloe Klemiatino-Emel'ianova với nhiệm vụ đánh chiếm đường Belyi-Vladimirskoe. Quân đoàn tiến công thắng lợi, ngày 25 tháng 11 tới được Grmovo, Tarakanovo, Prokudino và Sorokino. Lữ đoàn cơ giới 35 và 37 tiến về phía nam từ khu vực Sorokino và đến cuối ngày 26 tháng 11 đã chiếm được Skolitsa, Shalokhostovo, Bocharniki và ga Matrenino. Lữ đoàn cơ giới 35 chiếm lĩnh vị trí phòng ngự trong khu vực Syrmatnaia. Lữ đoàn cơ giới 19 cùng Lữ đoàn xe tăng 219 và 65 tới được khu vực Koniakovo, Klimovo, Azarovo và Kushlevo. Các đơn vị đi trước cắt đường Belyi-Vladimirskoe và chiếm Bulygino, Petelino, Dudino. Lữ đoàn xe tăng 65 chiếm Bulygino, Gorodnia, Komary và Tserkovishche. Lữ đoàn cơ giới 37 làm chủ ga Nikitinka.

Ngày 28 tháng 11 năm 1942, chiến sự ác liệt diễn ra ở khu vực Basino và Sheverdino. Lữ đoàn xe tăng 219 bị tổn thất lớn và phải rút về tuyến sau củng cố. Các đơn vị ta chiếm Basino và Sheverdino. Địch phản kích từ phía đông nhằm giải tỏa đường. Từ ngày 28 tháng 11 đến 2 tháng 12 quân đoàn chiếm đấu bảo vệ vị trí. Địch điều động Sư đoàn xe tăng [thiết giáp] 12 (80 xe tăng và 3 tiểu đoàn bộ binh cơ giới hóa) từ khu vực Leningrad tới.

Ngày 2 tháng 12, tư lệnh Tập đoàn quân 41 ra lệnh cho Quân đoàn cơ giới 1 chiếm lĩnh vị trí phòng ngự dọc sông Nacha. Địch cố gắng tái chiếm lại con đường và đưa lực lượng tới Belyi. Từ ngày 3 tháng 12 địch bắt đầu tập trung lực lượng xuống phía nam ở Volynovo (60 xe tăng từ Sư đoàn xe tăng [thiết giáp] 20). Ngày 12 tháng 12 địch tiến công và đến cuối ngày 7 tháng 12 đã chiếm được Oleshkovo, Ramanovo, Shiparevo cùng Dubrovka, Novye Tscherepy, Tsitsina ở phía bắc và bao vây Quân đoàn cơ giới 1. Từ ngày 8 tháng 12 quân đoàn chiến đấu trong vòng vây ở khu rừng phía đông Shiparevo.

Trong đêm 15 rạng 16 tháng 12, theo lệnh của chỉ huy Tập đoàn quân 41, quân đoàn tiến hành phá vây ở giữa Shiparevo và Tsitsina. Bốn ngàn chiến sĩ vượt được vòng vây nhưng không mang được xe tăng và pháo.26


Báo cáo và tổng kết tác chiến của Sở chỉ huy Quân đoàn cơ giới 1

Quân đoàn tham gia chiến đấu từ 25 tháng 11 đến 16 tháng 12 năm 1942.

Tác chiến của Quân đoàn cơ giới 1 từ 25 tháng 11 đến 15 tháng 12 năm 1942.

Trước chiến dịch, lực lượng của quân đoàn gồm 15.200 người, 10 xe tăng KV, 119 xe tăng T-34 và 95 xe tăng T-70, 44 pháo 76mm, 56 pháo 45mm, 102 súng cối 82mm, 10 súng cối 120nn, 309 súng máy Degtiareva, 252 súng trường chống tăng, 3.890 súng tự động và 8 hệ thống bắn M-13 [pháo phản lực bắn loạt]…

Trong 1 tháng rưỡi trước chiến dịch, quân đoàn tiến hành huấn luyện các đơn vị… Hỗ trợ vật chất của các đơn vị được nâng tới mức đủ, trừ benzene loại 2. Các đơn vị chuẩn bị để hoàn thành nhiệm vụ được giao…

ĐẶC ĐIỂM [PHÒNG NGỰ] ĐỊCH

Trong những tháng gần đây, đối diện khu vực đột phá của quân đoàn, địch phòng ngự và củng cố các vị trí dọc theo tuyến Shiparevo, Tsitsina và Novaia Dubrovka và có một trung tâm chống tăng mạnh ở nam Belyi. Đến 20 tháng 11 năm 1942, các đơn vị của quân đoàn đã tập kết ở khu vực Seichastnoe, Ramenka và Sluzhbino. [Quân đoàn] có nhiệm vụ bước vào đột phá dọc theo mặt trận [kéo dài] từ Shiparevo tới Dubrovka. Trong khi phát triển thành công của Quân đoàn bộ binh 6, đến cuối ngày thứ ba [quân đoàn] sẽ đánh chiếm Matrenino, Vladimirskoe và Shapkovo, thiết lập một chốt chặn trên đường Belyi-Kholm-Zhirkovskii và ngăn chặn lực lượng dự bị địch cơ động tới Belyi. Sau đó, [quân đoàn] sẽ tiến tới bờ sông Dnepr, tại đây phối hợp với các đơn vị thuộc Phương diện quân Tây, [quân đoàn] sẽ hoàn thành hợp vây tập đoàn địch ở Olenino-Rzhev…

Theo kế hoạch tác chiến của tập đoàn quân… các đơn vị Quân đoàn bộ binh 6 sẽ mở cửa đột phá và Quân đoàn cơ giới 1 sẽ được sử dụng như một thê đội nhằm phát triển mũi đột phá… Thực hiện mệnh lệnh của tư lệnh Tập đoàn quân 41, từ 18 giờ 00 ngày 24 tháng 11, các đơn vị của quân đoàn bắt đầu chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công và đến sáng 25 tháng 11 năm 1942… đã tập kết… ở Vydra, Lomzimino, Ramenka...

Sau đợt bắn phá của pháo binh, lúc 15 giờ 00 ngày 25 tháng 11 năm 1942, các đơn vị của Quân đoàn bộ binh 6 đang tiếp cận Podiasen'e và Dubrovka nhưng bị chặn không tiến xa hơn được. Lúc 15 giờ 00, theo lệnh của tư lệnh tập đoàn quân, quân đoàn được đưa vào đột phá mặc dù dải phòng ngự địch vẫn chưa bị chọc thủng hoàn toàn…

Sáng ngày 27 tháng 11 năm 1942, các đơn vị của quân đoàn sau khi đột phá tiền duyên phòng ngự địch đã tiến vào tung thâm tác chiến…

Từ 30 tháng 11 đến 4 tháng 12 năm 1942, các đơn vị của quân đoàn chiến đấu quyết liệt với lực lượng dự bị lớn của địch đang tiếp cận (Sư đoàn xe tăng [thiết giáp] 1 và 12)… Đến 5 tháng 12 năm 1942 quân đoàn chiếm lĩnh các vị trí dọc theo tuyến Gorodnia, Svetloe, Koniakovo, Ivashkino, Klimovo, Zheguny, Tikhonovo, Azarova và Zhukovo…

Theo lệnh của tư lệnh Tập đoàn quân 41, quân đoàn chuyển vào phòng ngự dọc tuyến sông Nacha và trong giai đoạn từ ngày 5 đến 7 tháng 12, quân đoàn đẩy lùi nhiều đợt tiến công của bộ binh và xe tăng địch… Từ ngày 8 đến 15 tháng 12 năm 1942, quân đoàn chiến đấu trong trạng thái bị bao vây hoàn toàn dọc theo tuyến Sviriukovo, sông Vena River và Marino.

Quân đoàn cùng các đơn vị phối thuộc bị tiêu hao nặng trong đợt tiến công trước, đạn dược còn lại hạn chế (tối đa 1 cơ số), không có lương thực thực phẩm và bị tiến công bởi lực lượng địch vượt trội (Sư đoàn xe tăng [thiết giáp] 12, 19 và 20) đã kiên cường bám trụ vị trí phòng ngự… Đến 15 tháng 12 năm 1942 quân đoàn đã hết nhiên liệu và đạn.

…Tư lệnh Tập đoàn quân 41 và đồng chí Zhukov, Thứ trưởng Bộ Dân ủy Quốc phòng đã được thông báo về điều này. Đại tướng Zhukov ra lệnh, “Trong đêm 15 rạng 16 tháng 12 năm 1942, phá hủy trang bị, cho bộ đội phá vây tới các vị trí của bộ đội [tập đoàn quân] bằng cách tiến công về Tsitsina”. Lúc 20 giờ 00 ngày 15 tháng 12, các lữ đoàn trưởng được phổ biến chỉ thị về phá vây. Kế hoạch đột phá như sau: bắt đầu rút các đơn vị dưới sự yểm hộ của pháo binh và tiến công Tsitsina với toàn bộ số xe tăng còn lại… Bộ binh sẽ tấn công về Ploskoe ở giữa Tsitsina và Shiparevo. Cuộc rút lui sẽ được tiến hành theo 3 thê đội. Lữ đoàn cơ giới 19 và Lữ đoàn bộ binh 74 sẽ tiến công trong thê đội một, Lữ đoàn bộ binh 91 và Lữ đoàn cơ giới 37 cùng quân đoàn bộ và các đơn vị quân đoàn ở thê đội hai và Lữ đoàn cơ giới 35 và 48 trong thê đội ba. Tiểu đoàn xe bọc thép độc lập 32 sẽ yểm hộ hoạt động của các đơn vị và rút lui từ phía đông…

Đòn tiến công của quân đoàn đã gây bất ngờ cho địch, và đến bình minh ngày 16 tháng 12 năm 1942, tất cả các đơn vị của quân đoàn đã tới được khu vực Bol'shoe và Maloe Klemiatino…

Trong 20 ngày chiến đấu, [quân ta] gây ra những thiệt hại sau cho địch. Trên 8.900 binh lính và sĩ quan bị tiêu diệt; 184 xe tăng, khoảng 100 khẩu pháo các cỡ, hơn 100 súng máy và khoảng 100 lô cốt bị phá hủy; Sư đoàn xe tăng [thiết giáp] 9 và 12 bị đánh tan và Sư đoàn xe tăng [thiết giáp] 1, 19 và 20 bị thiệt hại nặng. Hai tiểu đoàn độc lập và 2 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 246 bị đánh bại. Sở chỉ huy của 2 tiểu đoàn và 2 trung đoàn bị tiêu diệt.

Tổn thất của quân đoàn trong 20 ngày chiến đấu gồm 2.280 hy sinh và 5.900 bị thương (trong đó 1.300 hy sinh và khoảng 3.500 bị thương trong vòng vây).

Mười lăm quân nhân được tặng thưởng huân chương “Chiến tranh Vệ quốc”, 133 được tặng huân chương “Cờ Đỏ”, 218 được tặng huân chương “Vì lòng dũng cảm”, 207 được tặng huân chương “Vì thành tích chiến đấu”, tổng cộng 573 người.

Tham mưu trưởng Quân đoàn cơ giới 1, Đại tá Colonel Dubovoi
Trưởng ban tác chiến Quân đoàn cơ giới 1, Trung tá Lebedev.27


Nhật ký tác chiến của Tập đoàn quân 22, tháng 11 đến tháng 12 năm 1942.

Trong tác chiến từ ngày 25 đến 30 tháng 11 năm 1942, Tập đoàn quân 22 tiêu diệt 4.363 binh lính và sĩ quan địch, 7 khẩu pháo, 3 xe tăng, vân vân. Từ 20 đến 30 tháng 11 năm 1942, tập đoàn quân mất 8 khẩu pháo, 15 xe tăng bị phá hủy và 76 xe tăng bị đốt cháy.

Trong giai đoạn tháng 11 và tháng 12, tập đoàn quân chủ yếu tiến hành các hoạt động tác chiến với mục tiêu thăm dò lực lượng địch trong khu vực Olenino [sic].28
Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
chiangshan
Trung tá
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #169 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2011, 07:07:30 pm »

PHỤ LỤC B

Chỉ huy Hồng quân trong Chiến dịch “Sao Hỏa”
(25 tháng 11 đến 14 tháng 12 năm 1942)



Phái viên STAVKA kiêm Phó tổng tư lệnh tối cao: Đại tướng G. K. Zhukov.


Các tập đoàn quân chủ công

PHƯƠNG DIỆN QUÂN KALININ



Tập đoàn quân 41


Quân đoàn bộ binh Siberi tình nguyện 6
     Sư đoàn bộ binh Siberi tình nguyện 150
     Lữ đoàn bộ binh Siberi tình nguyện 74
     Lữ đoàn bộ binh Siberi tình nguyện 75
     Lữ đoàn bộ binh Siberi tình nguyện 78
     Lữ đoàn bộ binh 91
Sư đoàn bộ binh Cận vệ 17
Sư đoàn bộ binh 93

Sư đoàn bộ binh 134
Sư đoàn bộ binh 234
Sư đoàn bộ binh 262
Quân đoàn cơ giới 1





     Lữ đoàn cơ giới 19

     Lữ đoàn cơ giới 35
          Trung đoàn xe tăng 4
     Lữ đoàn cơ giới 37

          Trung đoàn xe tăng 3
Lữ đoàn xe tăng 65
Lữ đoàn xe tăng 219

Lữ đoàn cơ giới 47
Lữ đoàn cơ giới 48
Lữ đoàn xe tăng 104 (từ TĐQ 22 hôm 1.12)
Lữ đoàn xe tăng 154 (từ TĐQ 43 hôm 1.12)
Trung đoàn xe tăng độc lập 40 (1.12)
Trung đoàn xe tăng độc lập 229 (1.12)

Tập đoàn quân 22


Sư đoàn bộ binh 155

Sư đoàn bộ binh 185
Sư đoàn bộ binh 238

Sư đoàn bộ binh 362
Lữ đoàn bộ binh 114
Quân đoàn cơ giới 3


     Lữ đoàn cơ giới 1
     Lữ đoàn cơ giới 3
     Lữ đoàn cơ giới 10
     Lữ đoàn xe tăng Cận vệ 1
Lữ đoàn xe tăng 49
Lữ đoàn xe tăng 104 (chuyển tới TĐQ 41 từ 1.12)
Trung đoàn xe tăng độc lập 39

Tập đoàn quân 39

Sư đoàn bộ binh 135
Sư đoàn bộ binh 158
Sư đoàn bộ binh 178
Sư đoàn bộ binh 186
Sư đoàn bộ binh 348
Sư đoàn bộ binh 373
Lữ đoàn bộ binh 100
Lữ đoàn bộ binh 101
Lữ đoàn bộ binh 117
Lữ đoàn bộ binh 136
Lữ đoàn xe tăng 28

Lữ đoàn xe tăng 81

Lữ đoàn cơ giới 46
Trung đoàn xe tăng 28
Trung đoàn xe tăng 29
Trung đoàn xe tăng 32
         

Tư lệnh - Đại tướng M. A. Purkaev
Chính ủy - Trung tướng D. S. Leonov
Tham mưu trưởng - Trung tướng M. V. Zakharov

Tư lệnh - Thiếu tướng G. F, Tarasov
Thiếu tướng I. M. Managarov (12.1942)
Phó tư lệnh - Thiếu tướng I. I. Popov
Thiếu tướng S. I. Povetkhin
Đại tá N. O. Gruz
Đại tá I. P. Repin
Đại tá A. E. Vinogradov
Đại tá I. P. Sivakov
Đại tá F. I. Lobanov (Bị thương 13.12)
Đại tá E. V. Dobrovol'sky (Thiếu tướng từ 27.11)
Đại tá S. E. Iseev (tới 1.12)
Thiếu tướng G. A. Latyshev (từ 2.12)
Đại tá A. P. Kvashnin
Đại tá S. I. Tur'ev
Thiếu tướng V. K. Gorbachev
Tư lệnh - Thiếu tướng M. D. Solomatin
Chính ủy - Đại tá G. I. Kuparev
Phó tư lệnh - Đại tá A. M. Goriainov (bị thương nặng hôm 28.11)
Tham mưu trưởng - Đại tá I. V. Dubovoi
Chủ nhiệm pháo binh - Đại tá B. S. Trakhtenberg (Hy sinh 5.12)
Phó tư lệnh về hậu cần - Thiếu tướng I. N. Shevchenko (Bị thương 14.12)
Đại tá V. V. Ershov (Bị thương 5.12)
Trung tá L. V. Dubrovin (từ 5.12)
Trung tá V. L. Kuz'menko
Thiếu tá M. N. Afanas'ev (Hy sinh 27.11)
Trung tá N. M. Shanaurin (Hy sinh 8.12)
Đại úy P. R. Ugriumov (từ 8.12)
Thiếu tá E. M. Pavlenko
Trung tá A. I. Shevchenko
Đại tá Ia. A. Davydov (Bị thương 2.12)
Trung tá S. T. Khilobok (từ 2.12)
Đại tá I. F. Dremov
Đại tá Sheshchubakov
Thiếu tá A. G. Zubatov
Trung tá F. V. Artamonov

Thiếu tá Shmelev

Tư lệnh - Thiếu tướng V. A. Iushkevich
Thiếu tướng D. M. Seleznev (12.1942)
Tham mưu trưởng - Thiếu tướng M. A. Shalin
Đại tá A. P. Blinov (tới 5.12)
Đại tá I. V. Karpov (từ 6.12)
Đại tá M. F. Andriushchenko
Đại tá I. V. Karpov (tới 3.12)
Đại tá T. F. Eroshin (từ 4.12)
Thiếu tướng V. N. Dalmatov (tới 10.12)
Đại tá N. F. Pukhovsky (từ 13.13)
Tư lệnh - Thiếu tướng M. E. Katukov
Chính ủy - Chính ủy lữ đoàn(*) N. K. Popel'
Tham mưu trưởng - Đại tá M. T. Nikitin
Đại tá I. V. Mel'nikov
Đại tá A. Kh. Babadzhanian

Đại tá V. M. Gorelov
Thiếu tá V. S. Chernichenko
Thiếu tá A. G. Zubatov
Thiếu tá A. F. Burda

Tư lệnh - Thiếu tướng A. I. Zygin
Chính ủy -  Chính ủy lữ đoàn V. R. Boiko
Đại tá V. G. Kovalenko
Đại tá M. M. Busarov
Thiếu tướng A. G. Kudriavtsev
Thiếu tướng V. K. Urbanovich
Đại tá I. A. Il'ichev
Đại tá K.I. Sazonov




Đại tá K. A. Malygin (7.12, chủ nhiệm thiết giáp TĐQ xung kích 3)
Trung tá E. M. Kovalev (từ 8.12)
Đại tá D. I. Kuz'min (Hy sinh 26.11)
Đại tá A. S. Nikolaev (từ 13.12)
Trung tá Menshurin


PHƯƠNG DIỆN QUÂN TÂY


Tập đoàn quân 20


Quân đoàn bộ binh Cận vệ 8

     Sư đoàn bộ binh Cận vệ 26
     Lữ đoàn bộ binh 148
     Lữ đoàn bộ binh 150
Sư đoàn bộ binh cơ giới hóa Cận vệ 1

Sư đoàn bộ binh Cận vệ 20 (từ TĐQ 31 hôm 1.12)

Sư đoàn bộ binh Cận vệ 30 (từ TĐQ 5 hôm 11.12)
Sư đoàn bộ binh Cận vệ 42
Sư đoàn bộ binh 243 (từ RVGK(***) hôm 12.12)
Sư đoàn bộ binh 247
Sư đoàn bộ binh 251
Sư đoàn bộ binh 326

Sư đoàn bộ binh 331
Sư đoàn bộ binh 354 (từ TĐQ 31 hôm 1.12)
Lữ đoàn trượt tuyết 48
Quân đoàn xe tăng 5

     Lữ đoàn xe tăng 24
     Lữ đoàn xe tăng 41
     Lữ đoàn xe tăng 70


     Lữ đoàn bộ binh cơ giới hóa 5

Quân đoàn xe tăng 6



     Lữ đoàn xe tăng 22
     Lữ đoàn xe tăng 100
     Lữ đoàn xe tăng 200

     Lữ đoàn bộ binh cơ giới hóa 6




Lữ đoàn xe tăng 11
Lữ đoàn xe tăng 17 (tới TĐQ 29 hôm 1.12)
Lữ đoàn xe tăng 18
Lữ đoàn xe tăng 20 (tới TĐQ 29 hôm 1.12)
Lữ đoàn xe tăng 25
Lữ đoàn xe tăng 31
Lữ đoàn xe tăng 32 (hôm 1.12)
Lữ đoàn xe tăng 80
Lữ đoàn xe tăng 93
Lữ đoàn xe tăng 145 (tới TĐQ 31 hôm 1.12)
Lữ đoàn xe tăng 240
Lữ đoàn xe tăng 255

Quân đoàn kỵ binh Cận vệ 2
     Sư đoàn kỵ binh Cận vệ 3
     Sư đoàn kỵ binh Cận vệ 4
     Sư đoàn kỵ binh 20
         Tư lệnh - Thượng tướng I. S. Konev
Chính ủy - Trung tướng N. A. Bulganin
Tham mưu trưởng - Thượng tướng V. D. Sokolovsky
Tư lệnh - Thiếu tướng N. I. Kiriukhin (tới 8.12.1942)
Trung tướng M. S. Khozin (từ 8.12.1942)
Chính ủy -  Chính ủy sư đoàn(**) A. A. Lobachev
Thiếu tướng F. D. Zakharov (tới 23.12)
Thiếu tướng A. S. Ksenofontov (từ 24.12)
Thiếu tướng I. I. Korzhenevsky


Thiếu tướng V. A. Reviakhin (tới 3.12)
Đại tá N. A. Kropotin (từ 4.12)
Thiếu tướng I. F. Dudarev (tới 30.11)
Đại tá P. la. Tikhonov (từ 3.12)
Thiếu tướng A. D. Kuleshov
Thiếu tướng F. A. Bobrov
Đại tá A. A. Kutsenko
Thiếu tướng G. D. Mukhin
Đại tá B. B. Gorodovikov
Đại tá G. P. Karamyshev (tới 12.12)
Trung tá I. I. Iaremenko (từ 13.12)
Đại tá P. F. Berestov
Đại tá D. F. Alekseev

Thiếu tướng K. A. Semenchenko (tới 20.12)
Đại tá M. G. Sakhno (từ 20.12)
Đại tá V. V. Sytnik
Trung tá N. P. Nikolaev
Trung tá K. N. Abramov (Bị thương 12.12)
Trung tá F. Ia. Degtev (Bị thương 13.12)
Thượng úy Ehmulov
Trung tá G. G. Skripka (Bị thương 12.12)
Thiếu tá A. I. Khailenko (từ 12.12)
Tư lệnh - Thiếu tướng A. L. Getman (ốm)
Đại tá P. M. Arman (tới 11.12)
Đại tá I. I. Iushchuk (từ 11.12)
Chính ủy -  Chính ủy lữ đoàn P. G. Grishin
Đại tá N. G. Vedenichev
Đại tá I. M. Ivanov
Đại tá V. P. Vinakurov (Hy sinh 31.11)
Đại tá N, A. Iuplin (từ 31.11)
Đại tá I. T. Esipenko (tới 26.11)
Chính ủy tiểu đoàn cao cấp E. F. Rybalko (từ 26.11, hy sinh 31.11)
Đại tá I. I. Iushchuk (1.12 to 11.12)
Trung tá I. I. Savransky (từ 11.12)
Đại tá M. M. Balykov
Trung tá I. D. Beloglazov
Trung tá V. F. Kotov
Đại tá N. P. Konstantinov (Hy sinh 4.12)
Đại tá N. K. Volodin
Đại tá V. E. Grigor'ev (Hy sinh 1.12)
Trung tá V. F. Orlov (từ 2.12)
Trung tá P. I. Chepiakin
Đại tá V. N. Buslaev
Thiếu tá Tchipkov
Đại tá S. S. Sergeevka
Trung tá I. D. Ivliev
Trung tá I. F. Ivanov (tới 9.12)
Thiếu tá A. I. Litovka (từ 10.12)
Thiếu tướng V. V. Kriukov
Đại tá M. D. Iagodin
Đại tá G. I. Pankratov
Đại tá P. T. Kursakov


Các tập đoàn quân hỗ trợ

Tập đoàn quân 30
Sư đoàn bộ binh Cận vệ 16
Sư đoàn bộ binh 52
Sư đoàn bộ binh 215
Sư đoàn bộ binh 220
Sư đoàn bộ binh 274
Sư đoàn bộ binh 359
Sư đoàn bộ binh 369
Sư đoàn bộ binh 375
Sư đoàn bộ binh 380 (từ TĐQ 39 hôm 15.11)
Lữ đoàn bộ binh 130
Lữ đoàn trượt tuyết 49
Lữ đoàn xe tăng 35 (Cận vệ 10 từ 19.11)
Lữ đoàn xe tăng 196
Lữ đoàn xe tăng 238 (chuyển sang RVGK 1.12)

Tập đoàn quân 31
Sư đoàn bộ binh Cận vệ 20 (tới TĐQ 20 hôm 1.12)
Sư đoàn bộ binh 88
Sư đoàn bộ binh 118
Sư đoàn bộ binh 133
Sư đoàn bộ binh 139

Sư đoàn bộ binh 239
Sư đoàn bộ binh 246


Sư đoàn bộ binh 336
Sư đoàn bộ binh 354 (tới TĐQ 20 hôm 1.12)
Sư đoàn bộ binh 371
Lữ đoàn xe tăng 32
Lữ đoàn xe tăng 92
Lữ đoàn xe tăng 145

Tập đoàn quân 29
Sư đoàn bộ binh cơ giới hóa Cận vệ 3 (1.12)
Sư đoàn bộ binh 19 (từ TĐQ 5 hôm 1.12)
Sư đoàn bộ binh 82
Sư đoàn bộ binh 312
Sư đoàn bộ binh 415 (tới TĐQ 20 hôm 10.12)

Lữ đoàn bộ binh 28
Lữ đoàn bộ binh 35
Lữ đoàn bộ binh 40
Lữ đoàn bộ binh 49
Lữ đoàn xe tăng Cận vệ 9
Lữ đoàn xe tăng 20 (từ TĐQ 20 hôm 1.12)
Lữ đoàn xe tăng 120 (từ TĐQ 5 hôm 1.12)
Lữ đoàn xe tăng 161 (từ TĐQ 5 hôm 1.12)
Lữ đoàn xe tăng 175
Lữ đoàn xe tăng 213 (từ TĐQ 33 hôm 10.12)
Lữ đoàn xe tăng 256 (từ TĐQ 33 hôm 10.12)
         

Tư lệnh - Thiếu tướng V. Ia. Kolpakchi
Thiếu tướng (27.11) P. G. Shafronov
Đại tá L. I. Vagin
Thiếu tướng A. F. Kupriianov
Đại tá S. G. Poplavsky
Đại tá V. P. Shul'ga
Đại tá V. K. Guriashin
Đại tá M. Z. Kazishvili
Đại tá P. D. Govorunenko
Đại tá M. N. Smirnov


Thiếu tá A. R. Burlyga
Trung tá E. E. Dukhovny
Thiếu tá V. I. Evsiukov

Tư lệnh - Thiếu tướng V. S. Polenov
xem TĐQ 20
Đại tá A. F. Bolotov
Đại tá A. la. Vedenin
Đại tá N. A. Krymsky
Trung tá I. I. laremenko (tới 25.11)
Trung tá N. Sukharev (từ 25.11)
Thiếu tướng P. N. Chernyshev
Thiếu tá M. G. Fedorenko (tới 7.12)
Đại tá P. L. Mishchenko (từ 8.12 tới 22.12)
Đại tá E. G. Ushakov (từ 22.12)
Thiếu tướng V. S. Kuznetsov
Đại tá D. F. Alekseev
Đại tá N. N. Oleshev
Trung tá P. I. Chepiakin
Trung tá N. B. Martynov
Đại tá S. S. Sergeevka

Tư lệnh - Thiếu tướng E. P. Zhuravlev
Đại tá A. I. Akimov
Đại tá G. A. Gogolitsyn
Đại tá I. V. Pisarev
Đại tá A. G. Moiseevsky
Đại tá V. F. Samoilenko (tới 11.12)
Đại tá A. I. Golovanov (từ 11.12)




Đại tá I. D. Beloglazov
Đại tá N. P. Konstantinov
Đại tá N. I. Bukov
Đại tá S.I. Alaev
Trung tá K. K. Stepanov
Trung tá Z. S. Gaev
Trung tá A. N. Pavliuk - Moroz




Chú thích của chiangshan:

(*) Quân hàm sĩ quan chính trị của Hồng quân, tương đương Đại tá.
(**) Quân hàm sĩ quan chính trị của Hồng quân, tương đương Thiếu tướng.
(***) Reserve Verkhovnogo Glavno Komandovanyia - Dự bị Bộ Tổng tư lệnh tối cao.


« Sửa lần cuối: 15 Tháng Sáu, 2011, 06:11:28 pm gửi bởi chiangshan » Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM