Anh TTNL ơi em thấy mấy tay mê kỹ thuật , tay nào cũng có cái tật nghịch ngợm . Em lúc ra trường BK ngành điện khi về cơ quan nhận công tác chưa được một tuần em cũng chơi dạy một lần tởn tới già .
Chuyện này thì đúng là kinh thật. Đổ nhà, chết người như chơi. Mà chết hay bị thương lại không được là liệt sỹ hay thương binh đâu.
.
Nói đùa một tý thôi.
Mọi người hỏi chuyện lái xe. Tôi chẳng biết phải trả lời thế nào. Lúc đó tôi thực sự không nghĩ gì cả. Không lo sợ, không ướt áo mà lại thích thú mới lạ chứ. Thế này đi, tôi sẽ nhắc lại lời phê trong sổ liên lạc của rất nhiều thày cô từ lúc tôi học phổ thông vậy:
"Ngoan, hiền. Học tập tốt. Nghịch ngầm."
Lần nào tôi cũng bị mẹ tôi truy là làm gì trong lớp mà để thày cô phê là "nghịch ngầm". Cho đến bây giờ tôi vẫn không trả lời được câu hỏi đó vì tôi thấy mình chẳng nghịch gì cả và không hiểu tại sao các thầy cô lại nói thế ?!
Có điều này tôi tự nghiệm thấy, nhiều lần hút chết tôi cũng chỉ tái mặt mất vài giây, sau đó lại thấy bình thường. Đã có lần tôi viết, tôi đi vào cuộc chiến cứ như đi đùa chơi với cái chết. Chỉ có cái chết của đồng đội mới làm tôi đau và dằn vặt nhiều.
CHUYỆN XV
QUA ĐÈO HẢI VÂN (tiếp 14)
Làng Kim Liên là một làng bán nông nghiệp vừa làm ruộng ở vùng bán sơn địa vừa làm chài lưới. Một cái làng nghèo. Tất cả các nhà trong làng đều lợp tôn, vách thưng bằng loại cây gì đó như cây đót hoặc bằng lá gồi. Trong làng không có cây gì đáng kể ngoại trừ phi lao. làng cũng không có đường làng. Từ nhà này sang nhà khác muốn đi lối nào thì đi toàn cát pha và lá phi lao rụng.
c20 chúng tôi ở đó một vài hôm thì quân đoàn 2 xin được đi chiến đấu tiếp, lập nên cánh quân duyên hải.
Thằng Toàn, người Vĩnh Linh là cây đập bóng chuyền số một của đại đội tôi. Ngoài cách đập thông thường, nó còn có kiểu riêng là đập quai, đánh bóng vòng qua đầu làm đối phương rất khó chắn. Toàn cao to, trắng trẻo, đẹp trai, tính tình cới mở. Không biết nó kiếm đâu ra một chiếc bình bịch, loại xe đam (xe nam) mầu đỏ xậm, hiệu Honda (mãi sau này tôi mới biết là xe Honđa “67”). Hai bên bình xăng có biểu tượng cánh phượng hoàng bạc, lóng lánh. Cả đại đội chưa thằng nào biết đi bình bịch. Mấy thằng đạp cái cần số mãi không được. Loay hoay một hồi cũng về được số không rồi đạp nổ máy. nhưng cứ vào số là xe chồm lên và tắt máy. Thằng toàn chạy sang tôi vì nghĩ chắc là tôi lái được ô tô thì phải đi được bình bịch.
Đúng là tôi biết về xe máy rất rõ. Từ những năm 60, bố tôi đã đi làm bằng bình bịch, loại xe Simpson Spart của Đức, xe MZ, rồi xe gì rất to của bộ đội có hai xi lanh, hai ống xả, tiếng nổ rất chậm rãi bùng . . . boằng . . . bùng . . . boằng . . ., loại xe có thể lai thêm cái thùng ở bên cạnh gọi là mô tô ba. Nói thế, nhưng tôi cũng chỉ được ngồi đằng sau thôi, chưa bao giờ cầm lái. Tuy vậy cách bóp côn vào số tay hay đạp số chân thì tôi rất rõ. Hồi học trinh sát ở tiểu đoàn 74 ở Sơn Tây, ở gần đó có đơn vị huấn luện lái mô tô. Tôi rất hay xem họ tập. Bài khó nhất là dừng xe giữa dốc. Mô tô không có phanh hãm như ô tô nên lúc dừng xe giữa dốc muốn đi tiếp phải tăng ga, nhả côn và nhả phanh kết hợp với nhau. Không cẩn thận là xe tụt xuống dốc hoặc chết máy. Sau này khi lái xe Jeep tôi áp dụng khá ngon.
Tôi chạy ngay sang chỗ Toàn. Xe của Nhật chỉ khác xe của các nước XHCN là cần khởi động nằm ở bên phải, ngồi lên rồi mới đạp. Tôi bóp côn, về số không rồi đạp cho máy nổ. Toàn vội trèo ngay lên ngồi sau. Thế là, “không tiền khoáng hậu”, hai thằng vù đi chơi Đà Nẵng. Mặc dù không mang theo bản đồ hay thứ gì khác nhưng tôi vẫn còn nhớ được các con đường đã xem trên bản đồ từ trước. Qua cầu Nam Ô một đoạn dài là bãi tha ma. đường rất vắng, thỉnh thoảng mới có xe máy chạy ngược chiều. Thêm một đoạn nữa thì nhìn thấy bức tượng trắng rất lớn ở trên đồi cao, bức tượng Phật ngồi trên tòa sen. Bây giờ tôi không còn nhớ chính xác nó ở chỗ nào. Qua ngã ba Huế, tôi cho xe chạy thẳng vào thành phố. Vào đến thành phố mới thấy rất nhiều xe máy chạy rầm rập. Tôi chạy xe khá nhanh, cũng lạng lách ra trò như ngày nào lạng lách xe đạp trên đường Hà Nội-Hà Đông để vượt qua xe buýt Karosha (xe Tiệp) và xe Lvov (của Liên Xô). Nhiều lần cái Yến “béo” và thằng Quát “điên” đi xe buýt đến lớp nhìn thấy tôi trên đường phải kêu trời vì tôi đi quá nhanh.
Đủ các kiểu xe máy trong thành phố. Ngay từ ngày đó, xe máy đã nhiều hơn xe đạp. Chúng tôi cứ dông thẳng dọc thành phố. Được một lúc thì thấy đường phố vắng vẻ hơn. Trước mặt tôi là một cây cầu thép, giàn thép nổi vồng lên thành từng múi, từng múi, trông khá hoành tráng. Đó là cầu Trịnh Minh Thế. Sang bên kia cầu, đường rất vắng vẻ. Thế là hết vui rồi ! (Lúc đó ở bên kia cầu rất vắng vẻ và hết thành phố rồi).
Tôi vòng xe, quay lại. Hai thằng lợn lờ các phố cho biết. Thành phố rất nhiều biển quảng cáo. Nhiều biền rất lớn và treo rất cao. Tôi nhớ nhất cái biển quảng cáo đen trắng “Hinos” với hình đầu tây đen nhe hàm răng trắng. Đó là kem đánh răng đầu tây đen. Lòng vòng một hồi rồi hai thằng quay về đơn vị. Đang chạy thì bỗng có hai quân cảnh thuộc ban quân quản của thành phố chặn xe chúng tôi lại hỏi giấy tờ. Nói dối loanh quanh một hồi, cuối cùng vẫn bị họ thu mất xe. Chúng tôi nói với họ sẽ về đơn vị lấy giấy tờ và ghi lại biển số xe..
Thế là hai thằng phải lóc cóc đi bộ. Chết cha ! xa quá ! Đoạn này chưa ra đến ngã ba Huế. Hai thằng bàn nhau vẫy tay đi nhờ. Mãi rồi cũng có người nhận cho đi nhờ và chở luôn cả hai thằng. Ông ta tầm trung niên cũng chạy chiếc xe đam và chỉ đi đến Nam Ô. Nhưng ông ấy chở chúng tôi đến tận Kim Liên rồi mới quay xe lại.
Rồi chúng tôi bàn nhau xin ban 2 cho giấy đi lấy lại xe. Bọ Luyến suy nghĩ một lúc rồi đồng ý cho giấy và giao nhiệm vụ cho hai thằng đi lấy xe về và đưa lên ban 2 để sử dụng cho ban “đi công tác”. Thật là “không có cái dại nào bằng cái dại nào”. Bố sư khỉ !
. . . (còn nữa)