Nghịch lý của thời gian (6)
Sau hè Bảy Hai, khi ta mất Thị xã Quảng Trị, bọn tôi trụ ở đài trinh sát trên cao điểm 20, Ái Tử. Trên vạt đồi thoai thoải ven làng Ái Tử ấy có 3 nhóm, đều là những nhóm không trực tiếp chiến đấu và thuộc 3 đơn vị khác nhau. Nhóm đông nhất là bọn tôi, đài trinh sát sư đoàn, khoảng 7-8 người, chia 3 hầm. Nhóm trinh sát pháo (không biết có phải e84 không?) khoảng 4-5 người, chia 2 hầm, nằm chếch về phía Nham Biều. Nhóm này biết chắc có Bình, tên bạn ấy có trong nhật ký của tôi, trang 21. Tôi rất hay liệng sang chơi cờ tướng với nhóm TS pháo. Tôi vẫn mê và chơi cò tướng cho tới tận bây giờ, còn Bình và nhóm TS pháo thì ván cờ thắng tôi chiều 4/12/1972 là ván cờ cuối cùng chơi trên dương thế. Sau khi tôi chịu thua ván cuối, chào chia tay với Bình thì 4-5 phút sau, khi tôi và Kha còn chưa kịp về đến hầm của mình, thì bom B52 ập xuống. Ngày ấy trở thành ngày giỗ chung của các anh bên đài TS pháo ở CĐ 20 Ái Tử.
Chếch về phía sau một chút, bên kia bãi tăng là hầm chỉ huy của một đơn vị bộ binh. Hầm nằm trơ trên sườn đồi thoải trống trải, không cây cỏ. Tôi chỉ nghe mấy đứa trong đài nói chứ tôi chưa bao giờ gặp ai trong nhóm này. Nghe mấy đứa kể: “Đấy là hầm ông Cưu, thiếu tá, trung đoàn phó, và bọn vệ binh. Hầm ông ấy rất sâu và kiên cố. Ông ấy không bao giờ ló lên khỏi hầm đâu mà thấy được. Tối tối, liên lạc mang cái thùng đạn đại liên đi “đổ bô” cho ông ấy.” Nếu đúng như mấy đứa kể thì quả là mấy bố chỉ huy bộ binh khôn ngoan, đào hầm trụ lại trên vạt đất hoàn toàn trống trải, bên La Vang nhìn sang rõ mồn một, rồi ban ngày nằm ỉm dưới hầm, ban đêm mới lên thì địch không thể nào ngờ. Đến thám báo như tôi sống ngay kề mấy chục mét mà còn không biết nữa là. Nghe thì biết vậy, chứ tôi cũng chẳng rồi hơi điều tra xem có đúng thế không hay là lính bịa, đấy là bộ chỉ huy tiền phương của trung đoàn nào, sao lại ít người thế?
Chiến trường ai có việc người ấy, ai biết việc người nấy. Mà thực ra chiến trường có rất ít việc. Việc đáng kể nhất, nhưng ít ai kể chính là việc trốn tránh thần chết. Có sống mới mong chiến thắng được quân thù. Hãi hùng nhất đối với Ái Tử nói riêng, QT nói chung chính là pháo khoan. Loại pháo này thường giũi vào đêm, trước khi ngủ. Ú ú ú, ụt ụt hụt. Cứ như có người giật giật vào tay áo, tiếng nổ trầm, không vang, nghe như tiếng ma. Qua được đêm, sáng ra, chui lên mặt đất cứ như nhận được thêm một suất sống mới.
Có lần, sáng ra, thò đầu lên cửa hầm, tôi thấy vết nổ mới của một quả pháo cách hầm khoảng chục mét, xung quanh còn vương vãi thân xác của một chú mèo, mảng da bụng với 2 dãy vú hồng hồng xơ xướp văng phơi lên lớp rào bùng nhùng. Tội nghiệp. Một lần khác, giữa đêm nghe pháo nổ cầm canh, quả gần, quả xa, bỗng chen vào một tiếng bom nổ đơn độc, khá gần, khó hiểu. Sáng ra, tôi và Tiến "lính mổ" tò mò lên tìm xem quả bom đêm qua nổ ở đâu. Thì ra đúng là có 1 quả bom nổ ngay gần bãi tăng, cách hầm chúng tôi khoảng 30-40m. Chỗ ấy tôi biết, vốn có một quả bom điếc nằm chỏng chơ trên đất. Chắc một quả pháo đêm qua tình cờ bắn đúng vào nó.
Nói chuyện trốn tránh thần chết, tôi lại nhớ một chuyện đọc từ hồi còn nhỏ, trong đó nói rằng: "Thần chết thường một tay cầm sổ, một tay cầm lưỡi hái, dượt tìm những kẻ trốn tránh ông, chứ những kẻ trêu trọc, đùa giỡn, chế giễu ông thì lại nhởn nhơ, vô tư". Nhớ Bà ngoại tôi, khi ốm yếu, lê lệt, Bà hay chửi: “Cha bố thằng Giời già, sao không cho Bà chết đi, sống khổ thế này”, tôi nghe vừa sợ, vừa ái ngại, vừa thương Bà vô kể. Thế mà Ông Giời Già cứ tránh mặt Bà ngoại tôi mãi cho đến tận khi Bà hơn 80. Ngẫm thấy cũng kỳ, rất nhiều người dặn dò trước, viết trước về cái chết của mình, nếu chẳng may xảy ra thì hãy thế này, thế kia. Và rồi những điều dặn dò lo xa ấy đã trở thành hiện thực. Như vậy, các cụ gọi là “nói gở”.
Trở lại chuyện Ái Tử, bẵng đi tới cuối năm (72), một hôm tôi nhìn thấy có một nấm mồ mới không mộ chí, chôn nghuệch ngoạc ngay gần căn hầm của ông Cưu. Mấy hôm gió mưa, nấm đất tẹt xuống chỉ còn lùm lùm như tổ mối, cảm giác như nhìn cả thấy lờ mờ chiếc tăng nylon đen dưới lớp đất đỏ. Hỏi thì nghe lính bảo: “Ông Cưu đấy”. Tôi giật mình, thầm khấn người láng giềng chưa biết mặt phù hộ cho tôi, cho anh em chúng tôi.
Cái góc ven đồi Ái Tử thoai thoải hẹp ấy độc đất lắm, chỉ trong 2 tháng mà thấy phần chết nhiều hơn phần sống. Chỉ sót một khe hở nhỏ may mắn và ưu ái dành cho đài TS Xê 20 bọn tôi. Gần chục mạng lính mà không ai hề hấn gì cho đến tận hết cuộc chiến.
Cuối tháng 12, tôi được điều về đài 108, cách Ái Tử chứng 5-6km ở tuyến sau. Rồi có một lần tôi tháp tùng ông Ngọc, trưởng ban trinh sát mặt trận B5, đi thị sát tuyến trước. Tính cờ chúng tôi quay lại bãi tăng Ái Tử. Tôi ngơ ngác nhìn. Không còn thấy mộ ông Cưu đâu. Lính đã chuyển ông về an táng phía sau cho đàng hoàng hơn, hay gió cát xứ Quảng đã ngụy trang cho nơi yên nghỉ của vị sỹ quan xấu số ấy, hay mưa lũ sông Thạch Hãn đã xi xoa, "cào bằng" để ông được bình dân, thanh thản như vạn vạn người lính vô danh khác đã ngã xuống và thân xác tan hòa vân vi vào đất đai xứ Quảng nghiệt ngã này.
Mấy mươi năm sau, mỗi dịp quay lại các nghĩa trang QT, tôi vẫn lặng lẽ lần tìm xem có mộ chí nào ghi tên “Cưu” hay “Kưu” không.