Những nghịch lý của thời gian (5)
Trong cuốn nhật ký của tôi thời tuổi đôi mươi ở Quảng Trị, ở trang 22 thấy ghi một dòng, chỉ 2 câu vô chủ: “
7/12/1972: Báo động B52. Cả ngày nơm nớp. -Ái Tử”.
Đã quá cô đọng, lại được viết bằng mật mã tự tạo nên bẵng đi 34 năm, mãi đến năm 2006, khi lọ mọ lật lại xem, dò dẫm giải mã, tự mình còn thấy nghi ngờ, khó hiểu, nữa là người khác, huống chi con cháu mai sau.
Thời điểm ấy, ta đã rút khỏi Thành Cổ Quảng Trị được hơn 2 tháng (16/9/1972), sau đó địch vừa nống sang Nham Biều nhưng bị đánh lui (2/11/1972). Đành mỗi bên yên vị một bờ. Tôi mới từ Hà Nội vào, vượt Bến Hải hôm 30/10, được điều xuống Ái Tử hôm 5/11. Đại đội trinh sát sư đoàn Xê 20 chúng tôi có một đài quan sát ở cao điểm 20 Ái Tử. Gọi cao điểm là theo bản đồ, theo binh địa, nghĩa là bình độ 20 (m) chứ thực ra cũng chỉ là một doi đất nhoi nhoi rìa căn cứ Ái Tử.
Cao điểm 20 nằm cách cầu Quảng Trị cỡ hơn 1 cây số, nhưng ngày ấy quanh Thành Cổ QT, cả về 2 phía đều tan hoang vỡ vụn, nên từ CĐ 20 nhìn được xa mãi sang bên thành, phía địch. Nhìn bằng mắt thường từ phía trái chỉ còn thấy Nhà in thị xã, rồi đến nhà thờ La Vang, cuối cùng là Động Ông Do. Đấy là những gì còn sót lại, nhô lên trên đưỡng chân trời, dù không cái nào còn nguyên vẹn. Nhìn bẳng ống nhòm của trinh sát thì còn thấy xe cộ và quân bên kia đi lại.
Khá gần chiến tuyến, nhưng CĐ20 lại không đủ gần như Nham Biều, An Đôn, nên vừa phải hứng cuối tầm các loại đạn chiến thuật như cối, pháo tầm gần, nhưng vẫn phải hứng chịu các loại vũ khí tầm chiến dịch, như pháo hạm đội, B52.
Những ngày cuối Bảy Hai ở Ái Tử, chúng tôi thường xuyên nhận được thông báo từ Ban 2 về các tọa độ quanh vùng và thời điểm có thể bị bom B52. Thông tin này là do các đồng nghiệp ở A12 hoặc do trinh sát mặt trận báo về. Điều đáng nói, đáng nhớ chính là khi căn trên bản đồ thì tọa độ được dự báo sẽ bị bom 52 lại bao trùm cả đài quan sát của mình, cả hầm của mình. Ngày 7/12/1972 đã xảy ra một tình huống như vậy với chúng tôi.
Cứ thử dựng lại vài kịch bản dựa theo đầu bài với 7 từ “
Báo động B52. Cả ngày nơm nớp” trong nhật ký:
Kịch bản 1: Nhận được dự báo đồng thời với lệnh của cấp trên: “Không được rời đài bẳng bất kỳ mọi giá”. Toàn bộ đài quan sát (8 người, trong đó có đại trưởng Hiền) ai về hầm nấy, ngồi đợi bom và cầu khấn bình an.
Kịch bản 2: Nhận được thông báo, đại đội trưởng phân công mọi người chia nhau xuống Nham Biều, An Đôn nắm tình hình, nhằm tản người ra khỏi CĐ 20, chiều tối mới về đài.
Còn có thể có nhiều kịch bản nữa. Tôi thì thiên về kịch bản 1, nhưng không phải ai về hầm nấy, đợi chịu trận mà là ai làm việc gì, cứ làm việc nấy, vẫn quan sát, cơm nước, điện đài, vẽ vời, quật tiến lên và tán róc, … Chỉ cần lưu ý, hạn chế lên khỏi hầm. Rồi có thể không có bom B52, có thể có bom B52 nhưng không đúng vào CĐ20 hoặc đúng vào CĐ20, nhưng không trúng hầm nào của đài.
Dòng nhật ký được viết sau một ngày nơm nớp. Liệu chính trong lúc nơm nớp kéo dài suốt cả ngày ấy người ta nghĩ gì? Sao lúc ấy không viết để giết thời gian? Có biết bao phỏng đoán, tưởng tượng, thắc mắc, cảm giác phi lý chỉ vì dòng nhật ký quá cô đọng và trí nhớ rất kém cỏi của tôi bây giờ.
Sau Ái Tử ít ngày, khi về đài quan sát trên cao điểm 108, chúng tôi cũng gặp một tình huống tương tự. Lấn ấy chỉ có 1 kịch bản duy nhất: Lệnh trên không được dời đài. Mọi người dốc đồ ăn dự trữ ra ăn xả láng, rồi ngồi đánh bài, chờ bom. Đúng giờ G (13:00), bom B52 rú nổ đinh tai, nhưng may mắn không quả nào trúng khu vực đặt đài. Dở hơi, thoát bom thì lại đến cháy thực phẩm, có bao nhiêu mang ra xài hết rồi, bây giờ thì phải cơm chay đến cuối tháng. Khoảng 1 tháng sau, đêm 27, rạng 28/1/1973, chúng tôi còn quan sát được trận bom B52 nổ mãi mãi xa xa phía Xekimtat - Đấy là 1 trong những đợt bom B52 cuối cùng trên Đất Việt.
Chắc là ngày ấy cũng có một cái lý nào đó để mình sống như vậy, đồng đội quanh mình sống như vậy, chứ chắc gì đã phi lý như bây giờ phán xét lại.