Những chuyện ngày xưa ...
Hương Canh được xem là một làng quê trung du, nhưng là cuối trung du, đầu châu thổ sông Hồng. Sau làng là thoai thoải đồi núi, đất đá ong Tam Đảo, nhưng phía trước làng lại là đồng lúa phẳng phiu trải đến tận sông Hồng, qua Sơn Tây. Hương Canh chỉ cách Hà Nội 30-40 km, chính vì vậy, sau khi Pháp chiếm Hà Nội, lần 1 rồi lần 2, ... thì Hương Canh cứ nổi chìm theo Hà Nội, khi thì "thuộc Pháp", khi khác lại "Tự do", có lúc lại vào tay Việt Minh. Lần đầu không biết vào năm nào, nhưng lần cuối cùng Pháp chiếm Hương Canh thì là năm 1949.
Dấu ấn của những lần Pháp chiếm Hương Canh là bốt Đen, bốt Đỏ, là ngôi nhà do một người mũi lõ bỏ tiền xây năm 1935, lợp ngói Hưng Ký, có tượng con sư tử trên cổng, ngóng đầu về phía Pari, quê ông ta. Di tích sống của lần Pháp chiếm HC lần cuối cùng là hai người con lai: Anh Na, chị Hảo, sinh khoảng 1950-1953. Tôi thấy buốt ruột khi thời gian và vòng quay cuộc sống cứ gặm hết dần những dấu ấn của một thời. Thấy hiu hiu buồn và bất lực.
Rất tình cờ ngôi nhà chính của gia đình tôi nằm sát với bốt Đỏ và ngôi nhà Kim Tây với tượng con sử tử. Khi Pháp chiếm Hương Canh, gia đình tôi tản cư ra vùng Tự do (Lập Thạch). Ngôi nhà cổ kính vừa là nhà thờ, vừa là trường dạy chữ nho của ông tôi bị biến thành một phần của bốt Đỏ, bao gồm nhà cho lính ở, nhà kho, nhà bếp, trạm gác, ... Chúng xây chặn ngay trước cửa nhà tôi một bức tường dài, tách nhà ra khỏi sân vườn và trổ phía tường sau thành 2 cửa thông sang bốt Đỏ, với 2 giao thông hào xây nửa chìm nửa nổi kiên cố.
Bức tường bao bọc mặt trước nhà tôi được xây bằng xi măng chứ không phải bằng vôi cát hay đất ngào với mật và cũng không xây bằng gạch thoi như những bức tường khác, mà xây bằng gạch lát nhà, hình vuông và rất mỏng. Cứ mỗi lớp gạch mỏng 2-3cm lai tới một lớp xi măng xanh biếc, dày gần gấp đôi. Nói cách khác, bức tường quái dị này chủ yếu là xi măng, như một dạng bê tông, rất dày. Ở tầm ngang mặt có trổ rất nhiều lỗ châu mai, hẹp phía trong nhà, loe nhìn ra phía ngoài sân và vườn.
Tôi đã hỏi nhiều lần, nhiều người, nhưng tất cả đều nói: chưa bao giờ có giao tranh ở quanh bốt Đỏ. Như vậy là những chiếc lỗ châu mai quanh nhà tôi chưa bao giờ khạc ra lửa. Nhưng không hiểu vì sao trong vườn nhà tôi thì vô khối đạn và vỏ đạn, chủ yếu là đạn súng trường và đạn súng lục, có cả đầu đạn đum-đum. Ngay học cấp I, tôi và em gái thường thu nhặt trong vườn, có khi được cả rổ, vừa để dọn đất trồng rau, vừa để đổi cho mấy cô đi rao "Ai đồng nát, cát tút đổi kẹo nào?" để được mấy tăm kẹo mạ, mút chùn chụt.
Hòa bình lập lại, từ vùng Tự do trở về, cha mẹ tôi chật vật hàng năm mới gỡ bỏ dần được từng đoạn của bức tường bê tông dài này. Phải thuê người lấy búa tạ quai thật lực. Chỉ vỡ gạch chứ phần xi măng (made in France) thì rắn như thép. Đầu tiên phải bịt cái giao thông hào phía sau đi sang bốt Đỏ rồi cố khoét lấy một lối thoát để đi ra sân. Năm 1955, nhà tôi mất một con trâu vì bị trúng mìn ở ngay sân nhà.
Phần cuối cùng của bức tường với một chiếc lỗ châu mai day nhất còn lại mãi sau này, sang thế kỷ 21. Một hôm, các cháu tôi a lô, xin phép dỡ nó đi để tiện sinh hoạt. Dù nuối tiếc nhưng chẳng có cớ gì giữ lại, tôi đành nói các cháu gắng cho chiếc lỗ châu mai sống thêm đến chủ nhật (24/8/2008), tôi thu xếp từ Hà Nội về, ngậm ngùi lần cuối để vĩnh biệt "Châu Mai - Bốt Đỏ". Ngay cả bây giờ, việc đập phá bức tường "bê tông cổ" ấy cũng không dễ dàng gì, trong khi những phần tường khác do ông bà tôi xây bằng gạch thoi và vôi cát thì bở bùng bục, lấy tay cạy ra được.
Các cháu tôi đang dỡ bỏ mấy bức tường cũ (phía trái) và bức tường có lỗ châu mai (giữa hình)