20. Hoài cổ hay Khúc kết
Tôi bắt đầu viết nhật ký từ đầu năm học lớp 9 (1968), kể từ sau khi có lớp học viết văn của Hội nhà văn, không biết có phải là một khoá nào đó của trường viết văn Nguyễn Du, tình cờ về “thực tế” một tháng ở “Hợp tác xã nông nghiệp cao cấp Tiên Hường”, làng tôi.
Anh Hiển là một học viên lớp viết văn, người Tày, quê Cao Bằng, dáng người đậm, tóc xoăn tít, được phân ở với gia đình tôi, cuối xóm Giữa, giữa làng. Quanh trong xóm có nhà văn Nguyễn Khắc Phê ở nhà bác Chuôm Đào, đang ngổn ngang “Đường qua làng Hà”, tiểu thuyết về chiến tranh phá hoại, nhà thơ Vương Anh ở nhà bà Hảo Hạng, đang ngất ngây “Tình còn, tình chiêng”, tập thơ về người Mường. Thầy Nguyên Hồng là hiệu trưởng ở nhà bà Loan Tiệp, xóm Bầu, gần cây đa rễ rủ leo heo, học viên gọi là “Cây đa thầy Hồng”, vừa vì gần nhà thầy, vừa vì liên tưởng hóm hỉnh chùm rễ đa với chòm râu lơ phơ của thầy Hồng. Các thầy cô Nguyễn Kiên, Anh Thơ, … khi đi, khi về, Hà Nội - Hương Canh.
Tôi bị anh nhà văn người Tày “bỏ bùa văn” khi nào không hay. Tuổi “hồng vệ binh” ấy dễ “bắt lửa” thật. Bắt đầu là tỷ tê ngấm những câu chuyện Cao Bằng, những giai thoại Tày Nùng huyền ảo của anh Hiển. Cao Bằng là trên cao nhưng bằng phẳng (!), Thin Tốc, tiếng Tày là đá rơi, đọc thành Tĩnh Túc, ... Rồi trốn học ngây người nấp sau cột đình Tiên để nghe ông Xuân Sanh bình thơ ông, trừu tượng như toán học, ngạc nhiên thấy ông Xuân Diệu đỏ mặt dị ứng với ngâm thơ, nhại giọng ngâm thơ của cô Tuyết rè rè trên đài tiếng nói Việt Nam, rón rén xem cụ Nguyễn Tuân thủng thẳng, ngất ngư bầu rượu trắng bên mình, nguyện cả đời không bao giờ uống rượu mùi, thứ rượu hồng hồng màu máu, và loi choi chạy trước đưa đường cho ông Nguyễn Đình Thi đi thăm nhà các học viên quanh trong mấy xóm Nội, xóm Bầu, xóm Giữa. Chưa thấy đâu văn nổi như phao, nhưng đã thấy đấy toán chìm lằm lặm so với năm lớp 8.
Tôi viết những dòng nhật ký đầu tiên trong đời vào cuốn sổ mà trang đầu là 2 câu thơ lưu niệm của anh Hiển viết cho tôi khi lớp viết văn bế mạc: “Một tháng trôi qua đà mấy chốc/ Người cày Ba Xá, kẻ về Cao”.
“Về Cao” là anh về Cao Bằng, quê anh, chắc thế. Nhưng còn “Ba Xá” có phải là Tam Canh, tên xã tôi hồi đó, nơi sáng sáng tôi “cày” ở lớp, ở trường, chiều về lẽo đẽo dong trâu cày vỡ, cày ải trên đồng Mong, đồng Mả không? Giá như bây giờ thì tôi chẳng ngượng ngùng, giấu dốt làm gì mà cứ hỏi thẳng anh: “Anh Hiển ơi, thế “Cày Ba Xá” nghĩa là thế nào, hả anh?”
Những dòng nhật ký đầu tiên chỉ thấy mây trời, hoa bướm, nắn nót, điệu vợi, đẹp vỏ mà rỗng ruột, có vẻ như chủ yếu để tập viết văn, đoạn đầu của giấc mơ và ảo tưởng mai sau thành những Nguyễn Tuân, Tô Hoài. Sang trang nhật ký lính thấy khác hẳn, đã có xương xẩu, xù xì, đắn đo, sống chết, trang này, liệu còn có trang sau? Trở về sau chiến tranh, nhật ký như gương soi. Đứng tuổi, xế chiều, nhật ký như liệu pháp chống bệnh quên của người già (Alzheimer).
8/11/1973: ...
Đi miết. Cố lắm mới nhích được tới giữa đôộng cát. Vẫn miên man là cát. Đôộng cát gợn lên vô vàn nếp nhăn ưu tư. Đằng sau là những vệt chân nối dài về xa tít, ghi lại quãng đường mình vừa đi.
Vẫn nhìn rõ, vẫn đọc được tất cả. Những bước sải dài hồ hởi của những phút hăm hở, sôi nổi; Những bước ngắn ngủn, lần chần của những phút đắn đo, do dự (định hướng đi); Những bước hằn sâu, thấm thía của những phút bước một, chầm chậm, vững chãi mà cực nhọc, những bước lờ mờ, nông cạn của những khi vội vã, dễ dàng, những bước quanh co, lắt léo của những khi gặp gai góc, lầy lội, những bước thẳng hướng, đơn giản của những khi dễ dãi, phẳng phiu...
Tất cả sinh động như một tấm gương lớn soi đời, chân chất, thực thà như nhật ký. Giá như lúc nào ta cũng soi thấy ta, đọc thấy ta trong dĩ vãng thì chắc là bóng ta trong tương lai sẽ gọn gàng, sạch sẽ hơn.
-Ngày áp giải hàng binh ra Gio Cam, Gio Linh (Q.2-Tr.n)Nói về nhật ký và hoài cổ, tôi nhớ và tâm đắc một kỷ niệm sau chiến tranh chừng chục năm, khi tôi mới ngoài 30 tuổi. Một đêm đông mênh mông tuyết, tôi ngồi nhâm nhi ly trà với bác T, không nhớ tên thật của bác là Tuấn, Tiến hay Thành, làm bảo vệ ở sứ quán ta tại Liên Xô.
Cách nhau hơn 1 giáp tuổi, nhưng cả 2 đều đã từng là “Bộ đội Cụ Hồ”. Câu chuyện bồng bềnh, lúc lãng đãng thả về dĩ vãng, hoài cổ, với ông là chiến dịch Thu Đông, Biên giới, lính Lê-dương, súng trung liên Đui-Sết, máy bay Bà già, với tôi là Quảng Trị, Ái Tử, lính Thủy quân lục chiến, súng B40, máy bay B52, chung với cả 2 là đời lính chiến, lúc lại trệt vào bờ với những chuyện lao động Việt Nam ở “Mát”, chuyện nồi hầm, bàn là, chuyện tem phiếu, con cái, có lúc lảng sang chuyện người, chuyện Gor-ba-chốp, chuyện Pe-re-strôi-ka.
"Ông T chừng 50 tuổi. Ông không phải là trí thức xét về học vị, nghề nghiệp, cả đến dáng dấp, giao tiếp. Mới nói chuyện với ông một lần. Dễ chịu. Hơi lúng túng. Ông là bạn chiến đấu trong những năm Năm mươi cùng với ông Khoan.
Câu chuyện xoay quanh bài hồi ký của ông Trần Độ và những ký ức chiến tranh ở vùng trung du. Cái áp đảo của ông trong câu chuyện không phải là kho kiến thức đồ sộ (có thể đặc, có thể rỗng), cũng không phải là duyên nói chuyện hay là tính chân thực. Cái mà mình mê là Tình yêu đơn sơ của ông với dĩ vãng. Trạng thái hoài cổ mà không sầu.
Ông T nói với mình: “Lúc đầu, tôi cứ lần chần. Cuộc sống của mình cũng như cuộc sống bao người. Điều mình thấy cũng có biết bao người khác thấy. Nó lặp lại, chỉ khác đi đôi chút, theo cả không gian và thời gian. Điều mà tôi nghĩ, tôi làm lúc tôi 30 tuổi là lạ lẫm đối với đứa con 7 tuổi của tôi lúc đó. Nhưng khi nó 30 tuổi, đến lân nó cũng sẽ nghĩ như tôi. Thế nhưng tôi đã nhầm. Bây giờ, đã ngoài 50, tôi biết mình nhầm, nhầm lắm. Không bao giờ gặp lại dĩ vãng. Bây giờ, người với người đâu có như xưa. Tôi cứ tiếc là mình đã lần chần. Dù vậy, giờ vẫn không muộn. Đã gần chục năm nay, tôi đều đặn viết hồi ký. Viết cho ai? Viết để cho con cái tôi chúng nó đọc trộm. Đọc trộm của cha thì không có lỗi gì cả. Tôi cũng chẳng hiểu có ích gì cho chúng nó không, hay là lại có hại. Nhưng cứ nghĩ: chúng nó không biết ngày xưa, thời chúng tôi, người với người cư sử ra sao, có như ngày nay không, thì tôi muốn viết lắm”. (Q.6-Tr.20). Thời kỳ sau chiến tranh không xa, chừng chục năm, mọi người đều khổ, khổ lắm, khổ quá. Tôi như người đạp xe lên dốc cao, không dám dừng chân đạp, không dám ngoái cổ nhìn lại sau lưng. Chới với, dừng chắc đổ, chắc ngã, chắc quỵ mất. Trong những cơn suy sụp tinh thần, có lúc tôi đã nản: Hãy để cho người chết khiêng người chết! Và tôi gói ghém 3 cuốn nhật ký cùng với chiếc bàn cạo râu cụp xoè của thời kỳ bom đạn vào chiếc chăn dù thám báo Mỹ, cất mãi sâu trong góc tủ gỗ.
Lúc đói, chỉ cầu hạt thóc thật to, vỏ trấu làm thuyền, người ngồi lên được, thóc chín tự đi từ đồng về nhà, như trong chuyện cổ tích của Mợ tôi. Đỡ đói, bớt khổ, khi mát mặt, đã có thể thanh thản để nghĩ rộng, nghĩ xa hơn bát cơm, manh áo thì trên tóc đã hoa lau, trên da mu bàn tay đã nhằng nhịt, nhăn nheo những dấu sao vân vi, đồi mồi. “Ngũ thập tri thiên mệnh”, đọc lại nhật ký, quái lạ, thấy cuộc sống những ngày chinh chiến ác liệt sao mà thanh thản, vô tư, thấy gian khổ, thử thách thời lính chiến thật sự là một ân huệ. Ơn Xê Hai Mươi, chính nơi ngay ngày đầu tôi thấy mình như “Sa xuống hố, sâu thăm thẳm và tối mù mịt” ấy lại đã cho tôi nên phận, nên người. Ơn Quảng Trị, nơi ngơi ngơi bom đạn lại đến nắng nóng, gió Lào và lũ lụt, đã cho tôi cái gốc để nghiền ngẫm sự sướng khổ trên đời.
Thôn Hoàng Năm, 30/4 – 30/6/2006.