17. Gót chân Asin - Khúc riêng tư thứ nhất
Thế hệ trẻ những năm chống Pháp rồi chống Mỹ rất quen với cụm từ “Theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc”. Từ ruộng đồng, nhà máy, mái trường, mỗi người từ mỗi ngả, theo lối đi chung dẫn vào quân ngũ. Điệp điệp, trùng trùng.
Thầy Mợ tôi được 4 người con trai và một con gái út. Bốn anh em trai tình cờ đều theo một con đường giống nhau,
gác bút nghiên, nhập ngũ. Trong gian nhà chính treo trịnh trọng một “Bảng Vàng danh dự”, có chữ ký chủ tịch Hồ Chí Minh, ghi tên Nguyễn Chiển, chú tôi, và Nguyễn Phẩm Bình, Nguyễn Phong, là anh cả và anh hai của tôi, tham gia kháng chiến chống Pháp, bên dưới là 2 “Bảng Gia đình vẻ vang”, có chữ ký thủ tướng Phạm Văn Đồng, ghi tên Nguyễn Mạnh Thức, anh trên tôi, và tôi, là bộ đội chống Mỹ.
Chỉ trong khoảng 20 năm, tản cư, tòng quân thời chống Pháp thành sơ tán, nhập ngũ thời chống Mỹ, chỉ khác về ngôn từ nhưng cùng là kháng chiến, hai cuộc kháng chiến, cuộc này nối cuộc kia, thế hệ trước đến thế hệ sau, không chút tỵ nạnh, thản nhiên như sinh ra là để như vậy, chung cho mọi gia đình.
Với sinh viên gốc “nhà quê” như bọn tôi, trước đó đã một lần phải hoà nhập “đổi đời”, rời làng quê lên thành phố. Đang tuổi mới lớn, học ăn, học nói, không ít ngỡ ngàng. Nhiều trong số đó không dễ gì để quen ngay với cuộc sống tập thể, cuộc sống sinh viên, nơi phố phường, đô thị.
Tôi lớn lên ở một làng quê trung du, dưới chân Tam Đảo. Chục năm phổ thông, trường làng, nhàng nhàng quãng nửa trên của lớp. Lớp 7, học với Nguyễn Quý Nam, lớp 10 học với Thái Huy Chí, những học sinh rất giỏi của Hà Nội sơ tán về, thì mới thấy mình chỉ là nhỉnh nhỉnh trong luỹ tre làng, chứ thấm tháp gì với mênh mông đại ngàn.
Khoá Bảy Mươi chúng tôi là khoá đầu tiên phải thi tuyển vào đại học, những khoá trước chỉ xét học bạ, điểm tốt nghiệp hoặc kiểm tra vào trường. Tôi ghi 3 nguyện vọng đại học, theo thứ tự ưu tiên là: Tổng hợp văn, Tổng hợp toán và Bách khoa điện! Một theo lời khuyên của cô Chi, dạy văn, một theo thầy Thiết, dạy toán, còn nguyện vọng cuối cùng là theo lời khuyên của các anh tôi.
Năm ấy, thí sinh được chia làm 2 khối A và B. Khối A thi Toán Lý Hóa, khối B thi Toán Văn Địa. Quyết định cuối cùng về nguyện vọng không phải là thí sinh hay gia đình mà là nhà trường, chủ yếu dựa vào ý kiến của giáo viên chủ nhiệm lớp. Thầy Ngô Huy Thiết, chủ nhiệm lớp tôi, dạy toán, xếp tôi vào khối A, hướng vào Tổng hợp toán. Giá như cô Chi, dạy văn, mà là chủ nhiệm lớp, chắc cô sẽ xếp tôi vào khối B, và có thể con tàu tôi đã lăn theo những đường ray khác.
Kỳ thi tuyển sinh năm ấy nổi tiếng với 5 bài toán khó, sau này nghe đồn là do chính giáo sư bộ trưởng Tạ Quang Bửu ra đề. Cho đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ 2 trong số 5 bài toán đó. Bài 1: Giải phương trình 3
x + 4
x = 5
x, và bài thứ 5: Chứng minh rằng không tồn tại đa diện có số lẻ mặt mà mỗi mặt là một đa giác có số lẻ góc. Riêng bài 1 ai cũng biết nghiệm là 2, thế mà sau này nghe nói cả miền Bắc chỉ có một người giải được, dù không đúng đáp án. Bạn ấy giải bằng biện luận đồ thị, trong khi đáp án phải là khẳng định 2 đúng là nghiệm rồi chứng minh không tồn tại nghiệm khác lớn hay nhỏ hơn 2. Bây giờ thì dễ chứ trình độ phổ thông những năm Sáu Mươi, Bảy Mươi, toán thế là khó lắm rồi.
Tôi đỗ Đại học Tổng hợp Hà Nội, không Văn, không Toán mà là Vật Lý! Chẳng đúng nguyện vọng nào trong số 3 nguyện vọng mình đăng ký.
Rời lưng trâu và lũy tre, tôi mang theo lời Thầy Mợ tôi dặn:
Gắng cho bằng chúng bạn. Sao lại bằng mà không hơn. Lên Hà Nội học, cũng ngỡ ngàng, ngô ngọng, vụng dại, va vấp đến xấu hổ. Bắt đầu được lưng lưng tự tin, bớt quê mùa thì lại từ biệt ký túc xá, nhập ngũ. Hai anh trai tôi, những người đã gác bút, cầm súng trước tôi, từ thời Biên Giới, Điện Biên, khuyên thật cô đọng: “
Quân đội không có chỗ cho lối sống tiểu tư sản như sinh viên được đâu!” Tôi nhớ, Thầy tôi nói thành phần gia đình nhà mình nhớ khai là “Tiểu tư sản viên chức”. Đã Tiểu tư sản lại còn Viên chức. Rắc rối. Sao không là bần nông, cố nông, trung nông như bạn bè quanh tôi? Thầy tôi có giải thích cặn kẽ nhưng tôi chỉ lơ mơ hiểu, Tiểu tư sản viên chức là không tốt, không xấu, tương đương như trung nông. Thì cũng như cả làng gọi Bố Mẹ, riêng anh em tôi lại gọi Thầy Mợ, đều là người sinh ra mình. Bây giờ là lúc phải “gột” hay ít ra là giấu kín cái chất tiểu tư sản, chất thư sinh đi.
Quân đội là trường học lớn nhất để học thành người– Như Thầy tôi luôn nhắc.
11.9/71
Có biết bao nhiêu là suy nghĩ sâu sắc khi mặc bộ quần áo bộ đội vào người. Hôm qua còn là sinh viên, hôm nay đã là anh lính. Tuổi 19, rời giảng đường, ra trận. Tâm trạng của tôi khi đó chắc là đồng cảm với Grinhop, nhân vật chính trong truyện ngắn “Con gái viên đại uý” của Puskin, vì còn thấy ngay trang đầu cuốn nhật ký thứ 2 là một đoạn trích viết bằng bút chì, nguyên văn bằng tiếng Nga cổ, như một lời đề tựa, một lời thú nhận chân thực.
“Con gái viên đại úy” ... Tôi đắm mình trong những ý nghĩ miên man, nặng về u sầu. Cuộc sống nơi biên đồn chẳng có gì hấp dẫn tôi. Tôi cố hình dung về đại úy Mirônốp, thủ trưởng tương lai của tôi. Chắc đó là một ông già quàu quạu, không biết gì hơn ngoài bổn phận của mình và sẵn sàng phạt tôi ăn bánh mỳ chay với nước lã dù chỉ mắc một lỗi chẳng đáng gì. - A.C. Puskin.Những ngày đầu tân binh, toàn lính sinh viên sống với nhau, chỉ huy đơn vị phần lớn văn hoá chỉ hết cấp II, nhưng cảm thông nhau, hiểu nhau nên ào ào, vui vẻ. Sau này, khi đã “ra ràng, chia tổ”, lính gốc sinh viên như tôi cũng hoà nhập nhanh với anh em trong đơn vị, thường là từ làng quê hay khu phố đi, nhưng chúng tôi vẫn giữ một góc kín đáo cho riêng mình và đã có không ít rắc rối với cái gót chân Asin ấy. Ba-lô vốn đã chật cứng quân trang còn cộm thêm mấy cuốn sách, lẵng nhẵng cây đàn ghi-ta, nắn nót dòng chữ Nga “Rô-đi-na” trên vành mũ cứng, phút mơ màng tư lự bên suối, mấy câu thơ vô đề uỷ mị, ... Quân đội không cấm, nhưng vẫn gợn.
Bọn tôi còn có một kỷ niệm lãng mạn, đặc “tiểu tư sản”. Đó là ngày 6/9/1973, kỷ niệm tròn 2 năm đời lính. Khi ấy c20 đang ở Trà Liên Tây, một làng nhỏ trải dài theo bờ bắc Thạch Hãn, cách thị xã Quảng Trị dăm ba cây số. Sau Hiệp định nên cũng dễ thở hơn. “Nhóm Sáu Chín Bảy Mốt” ở c20 vẫn đủ 5 người như hồi đầu ở Việt Yên: 3 phi công hụt Minh-Bảo-Tài và 2 y tá Việt-Tất. Trong cùng đại đội, nhưng các “nhóm viên” không ở cùng nhau nên phải thu xếp mãi mới bí mật họp bàn, thống nhất được phương án, quy mô tổ chức kỷ niệm 2 năm ngày nhập ngũ. Các quyết định cuối cùng được cả nhóm thống nhất là:
1. Tổ chức lễ kỷ niệm thật thân mật và long trọng, mang đậm dấu ấn “sinh viên”, nhưng phải đảm bảo tuyệt đối “kín đáo và tế nhị”, nhất là với cán bộ đại đội và anh em trong đơn vị vì họ đều không phải là sinh viên.
2. Ngoài 4 thành viên của Nhóm Sáu Chín, có mời cả các lính sinh viên ở c20, gọi là “Bạn của Nhóm”, gồm Thắng quản lý và An “còi”, ngoài ra còn có Hùng “xây dựng”, vốn ở c20 nay đã chuyển lên a12. Nhóm giao cho Hồ Bảo lo chuyện mời.
3. Vật chất cho buổi lễ dựa vào nguồn “khô” tích trong ba-lô các thành viên, đi chợ Đại Hào bổ sung thêm chút “tươi”, có thể trông chờ thêm ở kho “nhu yếu phẩm” của Thắng quản lý. Hai y tá Tất và Việt cùng sinh hoạt Xê-bộ với Thắng quản lý, lo vụ “Thắng vận”.
4. Nơi tổ chức là một con thuyền mượn của một nhà dân ven sông. Nhớ mượn con thuyền có mui để đề phòng mưa. Rất may đang là tuần trăng. Dự định sẽ thả thuyền lênh đênh trên dòng Thạch Hãn. Việc này giao cho Lê Minh và tôi.
5. Về thời gian: ngay sau khi tan buổi sinh hoạt tối của đại đội về, khoảng 9 giờ tối, tổ chức đúng Sáu-Chín, tối thứ năm.
Đêm đó trăng mờ, trước trung thu vài hôm. Mọi chuyện đã diễn ra như kế hoạch, nhưng cũng đã xảy ra 2 trục trặc nhỏ nhưng hay hay và đáng nhớ.
Trục trặc thứ nhất liên quan tới nhiệm vụ Bảo nhận mời Hùng a12. Có ai lên a12 thì nhắn một câu là xong, nhưng Hồ Bảo, vốn dân chuyên toán Đại học sư phạm, lại đa tài hội hoạ, văn thơ, đã thảo một tờ thiếp mời trang trọng, bìa trang trí tao nhã, xanh đỏ, chim cò, vẽ màu nước hẳn hoi, đặt trong chiếc phong bì tự cắt, nhỏ như quân bài tú-lơ-khơ xinh xinh, “như thật”, trong đó khách mời được yêu cầu giải 1 bài toán mà đáp số chính là thời gian (giờ G, ngày X, tháng Y) đêm hội. Tôi và Bảo đều không ngờ, Hùng vẫn giữ được tờ thiếp đó đến tận bây giờ.
Bạn Hùng thân mến!
Nhân kỷ niệm ngày “Hai năm đi bộ đội”, chúng tôi thân ái mời bạn tới dự buổi họp mặt thân mật với chúng tôi vào giờ G ngày X tháng Y năm 1973 tại thôn Trà Liên Tây.
Chúng tôi rất mong bạn có mặt.
Ghi chú: 4x-y=15; G trong khoảng 19 đến 22h.
Chào thân ái!Gọi là toán vui vui thôi, chứ đáp số “SáuChín” thì ai chả biết, ngày Sáu, tháng Chín, cần gì giải. Thế mà rồi loay hoay thế nào, ngày tháng không nhầm, nhưng Hùng lại nhầm giờ, 19 giờ thành 9 giờ và lọ mọ, sốt sắng đến từ sáng sớm. Nhỡ nhàng, chờ thì lâu, ở lại đợi thì phải điện về Ban, xin phép.
Phong bì và thiếp mời dự lễ kỷ niệm 6.9.71, tổ chức tối 6.9.1973 trên sông Thạch Hãn, sát ngay chốt địch
Trục trặc thứ 2 trầm trọng hơn. Khi chủ khách đã xuống thuyền đông đủ, việc đầu tiên cần quyết định là để thuyền tự trôi xuôi Thạch Hãn về phía Cửa Việt, nửa thời gian sau thì chèo ngược về bến làng Trà, hay là ngược lại, đầu buổi sung sức chèo ngược dòng về phía thị xã Quảng Trị để nửa sau thả cho thuyền trôi về bến, bế mạc. Phương án sau nghe hợp lý hơn.
Cả nhóm và khách vừa chuyện trò (thì thào thôi), vừa liên hoan, vui vẻ. Mọi người lân nhau chèo nhẹ nhàng, gọi là đưa đẩy nhịp chèo thôi, cốt sao cho “du thuyền” ra khỏi khu đóng quân của đại đội. Không ngờ, sau khoảng 2 tiếng vui tay chèo, lênh đênh, khoảng hơn 11 giờ, ai đó chợt nhìn lên bờ Nam, thấy đã sát Nại Cửu, An Tiêm, Chợ Sải, trên bờ đông lô nhô bóng cờ in trên nền trời, có vẻ cờ tam tài của địch. Hút chết. Chỉ cần vui tay mấy nhịp chèo nữa không ăn đạn cối cá nhân M79 của địch thì cũng ăn B40 của lính chốt hay thuỷ lôi của đặc công nước K5 bên mình. Vội vã quay mũi thuyền, quá nửa đêm trôi về đến bến làng Trà.
6.9.1973
Đêm “thứ hai năm” của đời lính. Khó mà tả được chính xác tâm trạng lúc này. Mọi việc đều nặng nghĩa lí cả. Hồi tưởng vẫn là việc làm có ý nghĩa tế nhị hơn cả. Đêm này, năm trước đang ở đất Thanh, qua Phà Giát.
Tối kỷ niệm được tổ chức với qui mô lớn mà lại êm đềm và cả tế nhị nữa. Các thân hữu lênh đênh trên thuyền giữa dòng Thạch Hãn từ 9 giờ đêm đến tận 1:30 của ngày hôm tiếp.
Những ngày này bao giờ cũng đầy ắp nhớ nhung. -Trà Liên.(Còn nữa ...)