13. Những chuyện lính tráng
Tôi ở trong quân ngũ không lâu, lẹt bẹt đến chức a trưởng, nắm trong tay khoảng chục người. To nhất thì thời làm “hiệu trưởng” binh địa, cũng chỉ bốn chục quân, mà cũng ngắn thôi, chỉ vài tháng. Như vậy gọi là “đầu binh, cuối cán”, chẳng ra quan, chẳng ra lính, cứ coi như lính với lính đi cho dễ gần. Thế mà cũng không ít lần phải bối rối, bất lực, thậm chí bực bội.
9.2.1973
Bực mình với 1 chiến sỹ của mình. Nhưng tại sao mình không thể rời bỏ những cái gia trưởng, tầm phào, vặt vãnh, nhỏ nhen, hẹp hòi ấy đi mà tìm lấy cái cao thượng, hào hiệp, độ lượng với những người dưới mình. Cái cố tật ấy đến là dở. -CĐ 108.Thời kỳ sau lớp binh địa, Minh và tôi trở về với tiểu đội thân yêu của mình. Đơn vị tiếp tục tinh giản, ổn định biên chế và tập trung huấn luyện nghiệp vụ. Một số trinh sát cũ phải chuyển đi, một số lính đặc công (c23) hoặc bộ binh chọn lọc kỹ từ các đơn vị được lấy về thay. Nghe thì có lý, nhưng con người chứ có phải máy móc vô hồn đâu mà chọn cái mới để tốt hơn cái cũ, và thực lòng tôi chẳng muốn tý nào.
Chỉ trong thời gian nửa năm, tôi lần lượt phải rứt ruột chia tay 2 em út của tiểu đội. Loan nghịch ngầm, hay cãi cán bộ trung đội, đại đội, Chỉ ngoan, nhưng hiền và chậm chạp quá. Cả 2 em phải lần lượt rời c20. Loan có quyết định đi trước, nhưng lại được hoãn để thử thách, nhưng rồi cuối năm vẫn phải ra đi.
Thế là số lính Bảy Ba bổ sung ở Quảng Trị chỉ còn Quách Lâm trụ lại được với a8. Tiểu đội vẫn chủ yếu là các cựu binh gốc Hải Hưng từ thời Hà Bắc: Lạp, Ghi, Quế và Tuấn Anh. Tôi với Tuấn Anh hay thủ thỉ với nhau như anh em ruột.
22..6.73
Loan đi khỏi A của tôi. Đến một nơi khác. Nơi ấy không có tôi, không có những người như ở đây.
Tôi tránh không chia tay với Loan, bởi cái lẽ rất giản dị: Tôi rất thương Loan. ừ thì bướng đấy, lấc cấc đấy, ngang ngạnh và bồng bột đấy, nhưng chỉ làm tôi thương Loan chứ không ghét. Thương vì Loan nghèo, nghèo về vốn sống, về sự hiểu biết và từng trải. Vốn sống nhỏ nhoi của Loan không đủ cho Loan “xài”. Bao nhiêu mũi nhọn chĩa về Loan. Nhiều lần tôi cố đỡ bớt cho Loan. Nhưng không làm sao khác được. Tôi cố đẩy Loan lên cho kịp với tầm chung, nhưng Loan lại nỗ lực ngược lại. Ngẫu lực bắt Loan quay tròn và văng vào một cối xay khác. ở đấy có những gì đợi chờ Loan?
Tôi buộc lòng phải đồng ý để người ta đẩy Loan đi. Buộc lòng phải dứt đi một đồng đội mà ta coi như em trai. Ta bất lương. Ta tàn nhẫn.
Ghi vội khi Loan đang ngủ. Khi ngủ con người lại càng lương thiện hơn, tội nghiệp hơn. Khi nào tỉnh dậy thì đi nhé. Hãy đi vào nơi mới ấy bằng một thằng Loan mới. -Trà Liên.
29.6
Lại một con chim ngoan, hiền, lìa tổ. Súyt khóc. Thương Chỉ quá quá. -Trà Liên
11.12
T vừa nhận được tin một chiến sỹ của tiểu đội T sắp phải xa T. T viết những dòng này trước khi viết thư gửi lại cho “con chim non” ấy. ... Dù chỉ là dính líu mà T vẫn thấy mình mắc tội. Lại “đẩy” em đi đâu? T cảm thấy rõ rệt một trách nhiệm vô hình gắn T với Loan. Phải là người nâng đỡ, che chở cho Loan mới phải. Bây giờ T cảm thấy mình luôn là nạn nhân của sự hối hận, mặc dù công bằng mà nói, T cũng đã nhân đạo rất nhiều và từ lâu rồi.Sau này, khi đã trút áo lính, tôi cũng lại lẹt bẹt, lớp phó, trưởng đơn vị nghiên cứu sinh Việt nam tại một ký túc xá Nga, trưởng phòng thí nghiệm. Cung “quan trường” trong lá số tử vi của tôi hẹp lắm, chỉ muôn thủa “đầu binh, cuối cán”, trong tay trên dưới chục người, chưa bao giờ hơn. Rồi cũng yêu thương, cũng ghét bỏ, nhưng chưa một lần nào gặp lại thứ tình cảm kiểu “lính tráng” như thủa ấy.
Tình cờ tôi còn gặp biết bao chuyện thú vị khác, cũng là chuyện lính tráng, nhưng là chuyện lính ta với lính địch.
Từ mùa hè Bảy Ba, nhiều lính ngụy vượt chiến tuyến, chạy sang đầu hàng ta, phần lớn là lính trung đoàn 51, sư đoàn 1 bộ binh ngụy trên miền Tây, vùng Tích Tường Như Lệ, đối diện với e95 của f325. Họ là những người lính chốt “sát rào”, vì cũng chỉ có những người lính “sát rào” mới biết đường để vượt qua những bãi mìn dày đặc, ít nhất là ở phía bên họ, có khi do chính tay họ gài. Họ thường bí mật liên hệ trước với lính ta, hẹn ngày giờ địa điểm sang hàng.
Sau khi chạy sang ta, lính chốt chuyển họ lên đại đội, đại đội chuyển lên tiểu đoàn, rồi trung đoàn, sư đoàn. Trước khi giải tiếp lên Mặt trận, hàng binh được đưa về c20 để thẩm định sơ bộ lời khai và tranh thủ khai thác tin tức.
Chẳng hiểu vì sao tôi lại được Ban 2 và c20 chọn chuyên trách chuyện hàng binh, dù chẳng liên quan gì tới nghiệp vụ binh địa của tôi. Anh em trong đơn vị gọi đùa tôi là “Cán bộ Bình định”, một chức danh của phía ngụy để chỉ các sỹ quan Cộng hoà được cử đi “bình định nông thôn”.
Trước và sau khi “hỏi cung”, các hàng binh chuyển từ các trung đoàn về tạm sinh hoạt cùng a8 của tôi. Một điều tưởng đơn giản nhưng hoá ra rắc rối. Phải nhận thức hàng binh là những người anh em lầm đường lạc lối, tự nguyện trở về, nhưng cũng phải đề phòng có trà trộn những kẻ “trá hàng”. Coi như anh em trong một nhà, nhưng lại phải dè chừng, phải kín đáo.
Có nhiều kỷ niệm khó quên về những ngày sống chung với hàng binh. Họ đều quê ở mãi sâu trong đồng bằng sông Cửu Long, nơi tôi chưa một lần đặt chân tới, nơi hồi còn học cấp 3, tôi thường nghe cô Chi giảng “Đồng bằng sông Cửu Long, phải gạt cá mới thấy nước”. Trong số đó, tôi nhớ nhất một người tên Sang, gầy, cao, da sạm nắng gió, gốc nông dân, mộc mạc.
Sang quê Bến Tre, lính trung đoàn 51, sư đoàn 1 bộ binh. Tôi thích thú “tra hỏi” Sang về quê hương Bến Tre, về xứ dừa. Chính Sang cũng không rõ vì sao tôi quan tâm và tỏ ra biết khá nhiều về quê hương anh.
Tôi quê Vĩnh Phúc. Thời chống Mỹ, có phong trào kết nghĩa Bắc – Nam, mỗi tỉnh miền Bắc kết nghĩa với một hay vài tỉnh miền Nam. Vĩnh Phúc kết nghĩa với Bến Tre, Hà Nội với Huế-Sài Gòn, Phú Thọ với Long xuyên - Châu Đốc – Sa Đéc. Bây giờ, không phải ai cũng biết sự tích tên trường phổ thông cấp 3 Bến Tre ở thị xã Phúc Yên, rạp chiếu phim Long Châu Sa ở thành phố Việt Trì hay hiệu sách Hà Nội – Huế - Sài Gòn ở góc phố Đinh Tiên Hoàng - Hoàn Kiếm của Hà Nội. Đã có một lần, khi cùng ngồi trên xe khách chạy dọc Bắc Nam, tôi nghe cô gái ngồi ghế trước tôi tò mò hỏi chồng về phong trào kết nghĩa Bắc – Nam hồi chiến tranh: Anh ơi, thế kết nghĩa là liên doanh à? Thậm chí, một thời, người ta đã thay tên trường cấp III Bến Tre bằng tên mới, cấp III Phúc Yên. Tiếc lắm. Sao nỡ làm như vậy với lịch sử. Nhưng gần đây, người ta đã trả lại tên trường là Bến Tre rồi.
Tôi kể cho Sang nghe chuyện hồi còn học lớp 8, tôi là học sinh trường mang tên quê anh, trường Bến Tre. Trường phát động phong trào tìm hiểu Bến Tre và viết “Thư gửi Bến Tre”. Thư của tôi được chọn đọc trên đài truyền thanh huyện. Tôi còn nhớ một đoạn ngắn, bắt đầu bằng 4 câu thơ Xuân Diệu:
“Lạ thay tình với đất quê hương
Chưa tới chưa thăm mà đã nhớ
Ai hay dải đất mấy năm trường
Đêm ngủ hồn tôi bay tới đó”
"Xin cho em một lần được khoả tay trên dòng Hàm Luông, theo ghe đò mấy anh chị du kích đồng khởi về thăm Mỏ Cày, Giồng Trôm, quê thầy Đồ Chiểu, rồi ngược dòng Cổ Chiên về Chợ Lách, Cai Lậy, dọc ngang 3 cù lao miệt dừa cho thỏa”. Sang kêu: “Nghe mùi mẫn quá, anh Tài! Nhưng ngược Cổ Chiên hổng có dề được Chợ Lách!”. Thì viết dựa theo sách, đọc nghe cho xuôi tai, cho hay để được đọc trên đài, chứ cả người viết lẫn người nghe đâu có biết sông nào ngược xuôi về đâu mãi tận xứ Bến Tre.
Hôm chuyển Sang lên mặt trận, Sang tặng tôi chiếc thẻ lính bằng i-nốc, nhỏ xinh xinh bằng nửa quân bài tam cúc, với sợi dây đeo cổ kết bằng những hạt i-nốc tròn, nhỏ như hạt tiêu. Sang ngậm ngùi: “Mai mốt chắc ngoài mình thắng. Còn sống gắng dô Bến Tre, tìm gặp nhau cho đã, anh Tài ha!”. Bây giờ thống nhất rồi, tôi còn sống. Sang ở đâu, có lành lặn, bình yên?
Đất nước mình mênh mông, muốn tìm Sang cũng khó. Tôi đã 2 lần qua phà Rạch Mưỡu về tận Bến Tre để được ngất ngây rượu Phú Lễ và đắng ngăn ngắt mật cá kèo sông Hàm Luông. Tới đâu cũng hỏi tìm tên Sang, Sang lính ngụy sư 1. Đất ba cù lao nhiều người tên Sang, nhưng vẫn chưa thấy người mình muốn tìm.
Có một dịp tình cờ tôi quen thân với Phan Thu Thảo, cô sinh viên luật, mặt tròn, mắt tròn, thưa “dạ” ngọt dịu như nước dừa, đặc nét Nam Bộ, dễ thương. Thảo kể tôi nghe những chuyện thời thơ ấu ở ba cù lao xứ dừa, nơi ban ngày là đất, là dân của chính phủ, ban đêm lại của giải phóng, về cái chết eos le của người Cậu là du kích. Còn tôi kể Thảo nghe chuyện hàng binh để hỏi em có tình cờ biết ai tên Sang, lính ngụy cũ, người quê Bến Tre. Em cười: “Tên Sang thì Bến Tre nhìu, chỉ lính mà đa sầu, đa cảm như anh thì xứ dừa hổng có ai nơi!”.
Một lần khác, thấy một cậu hàng binh đeo lủng lẳng đến 3 chiếc đồng hồ “Thuỷ quân lục chiến”. Sao giàu thế, bay? Cậu ta trả lời rất sỹ: Lính Cộng hoà cha nào chả phòng thân như vầy, anh! Sạo, cả c20 hơn 100 người mà chỉ 3 người có đồng hồ đeo tay, loại pol-jot của Liên Xô.
Đúng dịp a8 nhận sữa, tiêu chuẩn bồi dưỡng lính trinh sát của mấy tháng, mỗi người được dăm ba lon sữa Thống nhất đã quá hạn. Cậu ta tò mò: Bao lâu được phát 1 lần vầy, mấy anh? Tôi được dịp lên mặt: Tuần 1 lần! Hết lại lĩnh.
Khổ nỗi, hết tuần vẫn chưa có lệnh giải cậu ta đi. Cậu ta còn nằm lại a8 tới cả tháng nữa. Cậu ta không dám thắc mắc, sao tuần này chưa thấy mấy ảnh nhận sữa, nhưng tự tôi thấy cũng hơi kẹt. Thì cũng là sỹ của lính thôi, xấu xa, dối trá gì đâu. Mấy hôm sau lại có thêm 2 hàng binh nữa được giải đến, hoá ra cả 3 đứa vốn cùng 1 trung đội. Hai cậu sang sau thi nhau tố cáo cậu sang trước: Bay đi gua hết cả đồng hồ của mấy thằng, chúng la bay thấy mồ! Tôi cười, độ lượng: Lần sau, sạo cũng phải chừa chỗ để ký tên nghe. Thế thôi, lính đứa nào chả “sỹ”, nhất là với đối phương.
Thường thì sau khi khai thác thông tin, đại đội bố trí anh em giải hàng binh lên trạm tiếp nhận của mặt trận. Lần ấy, hàng binh không phải là lính quèn mà là một sỹ quan cấp đại đội, nên tôi phải trực tiếp giải lên mặt trận. Tôi chọn Ghi đi cùng.
Chúng tôi xuất phát từ Trà Liên rất sớm. Lúc đầu tuân thủ đúng quy tắc giải hàng binh: tôi đi trước, hàng binh đi giữa, Ghi lăm lăm AK đi sau cùng, dong nhau đi trên quốc lộ 1, như đi quay phim. Nắng lên, thấm mệt. Qua khỏi cầu Ái Tử, quãng có chiếc xe M113 cháy dụi nằm giữa đường thì mưa ập xuống, càng mệt hơn. Thôi chuyển đi ngang hàng, che chung áo mưa, chuyện trò cho đỡ căng thẳng. Cậu hàng binh vác bao gạo và 3 bi-đông nước, Ghi quàng súng qua vai, treo lên lưng cho đỡ mỏi tay.
Qua Đông Hà, cả 3 rẽ vào chợ, vừa chơi chợ, vừa ăn trưa. Cũng chẳng ai nhận ra trong 3 chúng tôi có một người là lính nguỵ sang hàng ta.
Đến nơi đã sâm sẩm tối, Trạm tiếp nhận hàng binh vừa mới chuyển khỏi Gio Cam lên Cam Lộ từ 2 ngày trước. Tôi quyết định đi tìm chỗ nghỉ tạm qua đêm, hôm sau đi tiếp về Cam Lộ. Thận trọng, tôi tìm đến trưởng thôn, liên hệ nhờ hỗ trợ. Ông chỉ hứa tạo thuận lợi chỗ ngủ, ngay tại nhà ông, còn chuyện trông coi hàng binh trong đêm thì ông lắc đầu, mấy chú tự lo.
Lụi hụi cơm nước. Tối ngủ, Ghi và tôi, võng 2 đứa 2 bên, kẹp võng hàng binh ở giữa, súng nằm cùng võng với tôi. Ngủ nhưng phải canh chừng động tĩnh, từng mắt lân nhau nghủ thôi, đừng ngủ liền cả 2 mắt.
Cả ngày đi, dính nắng, dính mưa, thấm mệt, đặt lưng xuống đã nghe cậu hàng binh và Ghi ngáy đều đều, tôi thì cứ xoay mình trong võng, vừa lạnh, vừa lo, lo cứu cuốn nhật ký cả ngày bị dầm mưa ướt nhoè nhoẹt, lo thức coi hàng binh.
8.11
Cố gắng gìn giữ mãi mà không đặng. Khôn ba năm dại một giờ. Chỉ một giờ chót dại mà cuốn sổ bị ướt đầm. Ân hận.
Đưa hàng binh sang tới trạm. Một ngày mưa ác liệt. Cặm cụi đi trong gió và mưa. Đêm dừng lại ngủ ở một xóm nhỏ thuộc Gio Linh. Một đêm ngủ chưa từng chịu. Hầu như không ngủ được. Lạnh. Lo lắng. Mông lung trong những ý nghĩ thiên về lãng mạn.
Sáng ra lại đi. Mỏi mệt quá. Hao hao giống cảnh phim nào mình đã xem. Có thể là “Hai người lính”, cũng có thể là “Người thứ 41” và những sự co kéo qua lại giữa nhân tính và giai cấp tính. Tôi còn nhớ một kỷ niệm bi hài, liên quan tới một “hàng binh” đặc biệt. Trưa hôm đó, khi xuống bếp ăn đại đội, chúng tôi thấy một thông báo rất “giật gân” ở bảng tin: “Bộ binh vừa bắt được một thám báo, đào tạo và huấn luyện ở Mỹ về”. Cả đại đội sôi nổi. Sộp thế!
Chắc lại có việc cho mình đây, tôi chuẩn bị sẵn sàng. Anh Ngơi bảo tôi: Cậu chuẩn bị sẵn đi, chờ anh Vũ rồi cùng xuống thẳng đơn vị bộ binh nơi bắt được thám báo. Chắc cánh bộ binh đang tranh thủ khai thác nóng ngay tại chỗ.
Tôi háo hức đợi. Cả buổi chiều vẫn không thấy anh Vũ xuống. Đến tối thì anh Ngơi báo tin: Bộ binh họ xử lý xong rồi. Tra hỏi gì thám báo cũng chỉ một mực: “Thám báo học Mỹ về, phải giải hẳn ra Hà Nội, chỉ khai với cấp cao”. Hỏi vũ khí, điện đài đâu mà chỉ có tay không. Cậu ta chỉ ra mấy hố bom ngập nước. Lính chốt mò ngang, mò dọc, hết hố nhỏ sang hố to, chẳng thấy điện đài đâu. Lính ta sôi tiết, nhân lúc vắng cán bộ chỉ huy liền nọc ra tẩn cho một trận, này thì thám báo này, này thì học ở Mỹ này. Muốn đến đâu thì đến.
Hoá ra thám báo ở Mỹ về mà kém chịu đòn, đau đến thân là thông thốc khai ngay: “Em là lính mình, em là lính mình, trong Thừa Thiên ra, xin thề! Nhớ nhà quá, em khai nhăng cuội để được giải thẳng ra hẳn Hà Nội. Chịu kỷ luật rồi em hứa lại xin vào ngay, xin thề”.