2. Ấn tượng Miền Tây
Sau đợt công tác thị sát toàn bộ chiến tuyến Miền Đông thật sự hấp dẫn hồi tháng Ba, bẵng đi mãi tới tận tháng 8, sau khi bế mạc Lớp binh địa, tôi mới nhận được lệnh đi thị sát và hoàn thành sơ đồ phần tiếp theo của chiến tuyến: Miền Tây. Nhiệm vụ của tôi lần này cũng gần giống như lần đi miền Đông hồi tháng 3, vẽ sơ đồ và tìm hiểu tình hình bố phòng cả 2 bên trên toàn bộ chiến tuyến Miền Tây. Khác với miền Đông, toàn bộ chiến tuyến Miền Tây chỉ do e95 và e18 của sư đoàn chúng tôi chốt giữ, không có các sư đoàn bạn, nên không phải liên hệ phiền phức, nhưng Miền Tây luôn nóng bỏng, nhất là giai đoạn đầu sau ngày ký Hiệp định, chẳng có ngày nào ngưng tiếng súng. Chốt của ta và địch trên miền Tây thường rất xa nhau, hầu như 2 bên không tiếp xúc với nhau.
Nhóm công tác chỉ có 2 trinh sát, tôi và Thìn, lính bổ sung từ e95, rất thông thuộc miền Tây. Tên Thìn thì chắc chắn là sinh Nhâm Thìn, Năm Hai, cùng tuổi với tôi rồi. Con trai Khâm Thiên mà hiền như bột, vạm vỡ như lực điền.
Lần này đơn giản hơn lần đi miền Đông hồi tháng Ba vì chỉ đi trong phạm vi sư đoàn. Tôi lại có dịp trở lại khu vực phục bắt thám báo với lần chết hụt đêm 15/1. Mới 8 tháng mà quang cảnh đã thay đổi quá nhiều. Cuối hạ, đầu thu, bom đạn ngưng chưa lâu nhưng cây cối đã kịp mướt xanh trên những giao thông hào, nhà âm, hầm chữ A, bếp Hoàng Cầm. Quân ta chủ yếu dồn lên cắm chốt sát chiến tuyến.
Tôi quyết định không đi tiếp từ hướng Chợ Sải, qua Nhan Biều lên Miền Tây mà đi theo hướng ngược lại, lên hẳn cực tây, rồi xuôi theo chiều chảy của Thạch Hãn hướng xuống thị xã. Phần chiến tuyến “cực Tây” của f325 bắt đầu từ các chốt ở khu vực cao điểm 52 và 59. Xa hơn lên miền Tây là động Ông Do rồi vào Khe Trai, Thừa Thiên là thuộc các sư đoàn bạn, f324 và f304.
10.8
Miền Tây. Trở lại với mảnh đất “Phương Thuý, 15-1”. Một sự đổi thay quá lớn lao. Một màu xanh sòng phẳng, thanh bình.
Ở vùng 52-59, mình ở cao hơn địch. Hai bên có thể nhìn rõ từng chiếc răng vàng của nhau. Đồi Đại liên, đồi Xe đổ, Xe cháy, .. là của mình. Địch cho nữ lên chốt với lính (có thể là vợ con).
Lại ở rừng. Thấy nao nao nhớ một cuộc sống đã qua rồi, có thể là Ái Tử, khu B, khu A, 108 hay trên đường giao liên. Đời bộ đội là vậy đấy. -Cao điểm 52.Đối diện với e95, ngay sau 81 ngày đêm thị xã là sư đoàn Dù, sau Hiệp định thay dần bằng sư đoàn bộ binh số 1. Nhìn tổng thể, địa hình và bố phòng vùng e95 phần bên bờ nam sông Thạch Hãn gồm 2 phần nối với nhau bằng một dải chốt hẹp, giống như một quả tạ. Vùng chốt phía xa thị xã gồm các cao điểm 52, 59, 15, 29, trong đó quan trọng nhất, ta địch giành đi giật lại từng căn hầm, là cao điểm 29. Như Lệ, nghe tên tưởng như yếu đuối, mỏng mảnh, lại chính là phần tay cầm của quả tạ, chốt ta phải nép sát bờ sông, một dải rất hẹp để nối sang Đồi Chè. Bắt đầu từ Như Lệ, qua Thị xã cho về tận mép biển Thanh Hội, phía địch là sư đoàn Thuỷ quân lục chiến. Qua Đồi Chè, chốt ta lại nới rộng ra trên bãi mít của làng Tích Tường. Hết Tích Tường là phần thị xã, phía ta là e18 nhưng chỉ bên bờ bắc, phía địch là Thuỷ quân lục chiến bên bờ nam sông Thạch Hãn.
Sơ đồ chiến tuyến Miền Tây sau Hiệp định Bảy Ba (Xin phép dùng minh họa của ttnl)
Như Lệ còn có một ý nghĩa đặc biệt với riêng tôi. Đây là nơi yên nghỉ của anh Độ. Nao nao buồn.
11.8
Đi túc tắc một mình quanh những dải đồi tranh vô tư của vùng chiến tuyến. Cách đây không lâu, vùng này còn là nơi máu xương. Đất dưới hố bom nứt ra như mai rùa, rồi khô và bửng lên như mảnh to của bom.
Chốt ở vùng cao điểm 15 khá quan trọng. Sau khi quá sơ hở mất đi 4 mỏm lân cận, cao điểm 15 trở thành vị trí xung yếu nhất của cả vùng này.
Ở rừng, ngủ võng, muỗi, ... Một sự cảm thông thật sự sâu sắc với bộ binh. Hãy lấy họ làm chuẩn để an ủi mình. –CĐ 15.
11.8.1973
Như Lệ là nơi yên nghỉ của Anh Độ. Tôi vẫn luôn coi anh là một “Tấm lòng vàng”. “Một tấm lòng vàng bất hạnh”. Có thể nguyên nhân cái chết của anh như Tuấn Anh kể, có thể như Hội kể hoặc như Đọ kể. Nhưng dẫu sao chăng nữa cũng không thể vớt vát được. Có những sự sai sót trả nợ được và cả những sự sai sót không tính thành giá để trả được. -Cao điểm 15.Tháng Ba, miền Đông, đầy ắp háo hức, mới mẻ, hấp dẫn, còn tháng Tám, miền Tây, nghiêng mình khâm phục, kính nể những người lính e95 trên chốt. Ai đã ở Quảng Trị những ngày tháng sau Hiệp định Bảy Ba đều nhắc tới cao điểm 29, bến vượt Như Lệ, bãi mít Tích Tường như là một “Thành Cổ thứ 2”, đầy kính phục. Trong các giấy tờ gửi sư đoàn 325 liên quan tới việc thực hiện Hiệp định, phía địch đều hằn học viết: “Gửi sư đoàn Bắc sông Thạch Hãn”, như muốn thể hiện quyết tâm đánh bật các chốt của ta sang bờ Bắc. Nếu miền Đông, Bích La Nam, chợ Sải có “Chốt Một” của trung đoàn Sông Lô anh hùng, thì miền Tây có cả một dải “Chốt Một” của e95 kiên cường.
12.8
Vùng cao điểm 29 quả là đúng với tiếng tăm nổi tiếng của nó. Bám lấy sườn đồi mà chốt. Mặc dù vậy, thế của ta vẫn rất vững. Mãi trung tuần 7/73, ở đây vẫn đánh nhau.
Như Lệ và Tân Mỹ đã xanh rì. Nói chung cả vùng này chịu ảnh hưởng lớn của cao điểm 29 và Khu Làng An. Chuối và tre là một bình phong tốt. Cuối Như Lệ có chốt ta phải đi men bờ sông. Từ chỗ đó đến Đồi Chè là cả một khu chốt bất lợi, yếu thế. Quanh khu này, quân hai bên đều đông. -Chân Đồi Chè.
13.8
Bãi Mít của Tích Tường làm cho ý nghĩ của mình quặn lại, tê tái. Mỗi thân cây nham nhở sẹo là một trang nhật ký chiến tranh.
Vùng Tích Tường rất khó phát hiện bố phòng của địch. Vị trí chốt tạo thành cụm đối nhau, xen giữa những khoảng trống bí hiểm. Từ sườn đông-bắc Đồi Chè trở về Thành Cổ là địa phận của Thủy quân lục chiến (có lẽ là d9, lữ đoàn 369), còn về hướng Khe Trai là của e51 Bộ binh. Bọn thuỷ quân lục chiến tỏ rõ tính chất kiêu binh của chúng. Lười, chơi bời, ít chú ýý đến nhà cửa, hầm hào. Bọn này đã đau đòn ở Nam Cửa Việt hồi 31/1/73. -Trà Liên.Tích Tường là làng mít, bạt ngàn là mít. Nếu không có chiến tranh chắc phải là một địa danh nổi tiếng về mít. Nhưng tội nghiệp thay, cây to, cây nhỏ, cây nào cũng què cụt, thân cây nham nhở sẹo, mảnh pháo vẫn ghim đầy trên thân gỗ. Không còn một cây nào lành lặn. Vẫn còn ác liệt, dưới gốc cây vẫn là họng súng, bãi mìn 2 bên, nhưng đã ngơi ngơi bom pháo, mít đã xoè chồi xanh, gai mít non nây nẩy, đã nghe tiếng chim hót mỏng mảnh. Tôi chỉ có 5 ngày ở miền Tây, đủ để đi không nghỉ dọc chiến tuyến từ cực Tây về đến Xuân An, đối diện thị xã. Đã 1 năm kể từ “Mùa hè đỏ lửa”, nhìn qua sông Thạch Hãn sang Cổ thành Quảng Trị, cây cỏ đã làm dịu bớt cảnh tiêu điều, đổ nát nhưng tôi vẫn phải buông một dấu chấm than:
14.8: Thành Quảng Trị! -Xuân An.Đoạn tiếp theo, chiến tuyến là chính con sông Thạch Hãn, không có gì đáng nói và cũng đã quá quen thuộc với tôi, từ hồi cuối Bảy Hai, khi tôi còn ở Ái Tử. Ghép với chiến tuyến miền Đông hồi tháng 3, coi như tôi đã hoàn thành trọn vẹn sơ đồ bố phòng toàn bộ chiến tuyến Quảng Trị.
Tháng Ba – Miền Đông, tháng Tám – Miền Tây, tháng Chín, tháng Mười lại Miền Đông để rồi cuối năm lại lên Miền Tây. Trinh sát cầm tinh con ngựa, trinh sát binh địa còn hơn, lúc nào cũng như ngựa cuồng chân.
16.9
Ngày này năm trước ta mất thành QTrị. Một cuộc rút lui để đảm bảo cho thắng lợi chiến lược.
Thật là đau lòng, một sự đau lòng thật sự khi nghe tin ông Angenđê đã bị giết. Một tổn thất lớn lao.
Bờ Sông Thạch Hãn.
30.9
Đã gần 2 năm rồi mới lại tắm biển. Trước biển ta quá bé bỏng, nhỏ nhoi. Có lẽ lúc nào ta tự thấy mình “đủ rồi” thì hãy nghĩ đến Biển.
Cửa Việt là Panama của miền giải phóng. Dân miền này sắt son với cách mạng. Họ không chạy vào không phải vì họ không vào được mà vì họ không thể rời bỏ cuộc sống như hơn một năm qua đã sống. Họ khác hẳn những người dân theo đạo ở miền Bích La, An Lộng. Biển cả còn hơn cả tôn giáo. Chặt chẽ nhưng thoải mái, rộng rãi. Những cuộc đời như chị Lý chẳng trong sáng đó sao ?
Miền Cửa Việt dễ làm ăn cho trinh sát nhưng khó nói chuyện tấn công với quy mô nhỏ và chính diện. -Cửa Việt.
Ngồi trên bãi cát rộng triền miên này mà ghi những ý nghĩ lủng củng. Mặt cát nhăn lên những gợn sâu. Một ngày không xa nó sẽ hằn lên trán mình. Cát phẳng, dễ dãi nhưng cũng vô vàn điều bí ẩn. - Long Quang.