6. Đường ra trận mùa này đẹp lắm!
Khoá học nghiệp vụ trinh sát ở Sơn Tây kết thúc gần giữa tháng 8/1972, đúng vào thời điểm Quảng Trị đang nóng bỏng nhất. Đi đâu trên đất Bắc cũng nghe nói 2 từ Thành cổ Quảng Trị. Cả nước hướng về Quảng Trị, chung nhịp thở với Quảng Trị. Toán trinh sát f325 nhận bằng tốt nghiệp, được về phép 2 tuần, hẹn nhau chủ nhật 20/8 tập trung ở Hà Nội, tại nhà Lê Minh, 60 phố Sơn Tây, để theo đường giao liên trở về đơn vị.
Ngày nhập ngũ không liên hoan, nhưng trước ngày “Tài đi B”, Thầy tôi lại quyết định “thịt lợn” liên hoan. Ngày ấy, thịt một con lợn là chuyện hệ trọng, rắc rối lắm, chứ không đơn giản như bây giờ. Phải làm giấy báo cho đội, báo cho hợp tác xã, rồi thịt ra phải bán thịt cho “Thực phẩm” (phòng chức năng của huyện, phụ trách việc thu mua thực phẩm của dân rồi bán theo tiêu chuẩn tem phiếu cho cán bộ), chỉ giữ lại 2 lá mỡ và bộ lòng. Tôi rời Hương Canh, về Hà Nội sớm 2 ngày, tranh thủ qua thăm anh chị và cháu ở Yên Viên. Theo kế hoạch, ngày 20/8 tập trung, ngày 22/8 khởi hành.
18.8
Lớn lên ở đây và đây cũng là nơi bắt đầu của những chuyến đi. Thức trắng đêm ở Hương Canh và Yên Viên. (Q.2-Tr.5) Bút tích nhật ký của thầy tôi với các mốc thời gian: Thịt lợn/Bình (anh cả) tìm Tài/Tài tập trung (Hà Nội)/Tuyết (em gái tôi) thi vào 8/Tài đi B
Đầu tuần sau, Duyên và tôi đi tiền trạm, mang giấy giới thiệu của Cục 2 lên thẳng bộ quốc phòng hỏi đường về sư đoàn. Toà nhà Bộ Quốc phòng màu đỏ nâu, đứng uy nghiêm, lạnh lùng, cổ kính góc ngã tư Phan Đình Phùng - Hoàng Diệu. Vị trung uý thường trực ngồi vuông vức trên ghế, đọc giấy giới thiệu của Cục 2 rồi không hỏi nửa câu, lạnh lùng nói: “F325 của các đồng chí đang ở Quảng Trị. Các đồng chí tự tổ chức đi, khẩn trương lên. Vào đến Kỳ Anh sẽ có trạm thu nhận của sư đoàn. Trinh sát, toàn tốt nghiệp khá giỏi thế này cần gì giao liên”.
Không còn đoán già, đoán non nữa, chính f325 của chúng tôi đang chiến đấu ở Quảng Trị. Chúng tôi tụ tập ở nhà Lê Minh, bàn bạc và quyết định, mua được vé xe ngày nào sẽ đi ngày ấy. Trong thời gian chờ đợi, mấy đứa về nhà họ hàng ở Hà Nội, còn lại ở ngay nhà Lê Minh, coi như trạm giao liên gia đình, không đứa nào được về quê nữa.
Đường tàu vào Nam đã bị bom đạn cắt đứt từ đầu hè, chỉ còn trông vào xe khách, nhưng cũng rất hiếm. Cũng may, nhờ bác Lê Giới, bố của Lê Minh, là cán bộ cao cấp trong ngành giao thông nên cuối cùng bọn tôi cũng có được 9 chiếc vé xe khách Hà Nội - Vinh. Đoạn từ Vinh vào Kỳ Anh lo sau, cùng lắm là hành quân bộ. Duyên phụ trách chung, tôi phụ trách hậu cần, quân lương. Dự tính cùng lắm 1 tuần thì đến được đơn vị, nên cũng không quá lo lắng. Dù vậy, tôi vẫn phòng xa mua 300 chiếc bánh xốp loại 3 hào ở chiếc xe lưu động của mậu dịch trên bờ hồ Thuyền Quang. Mỗi chiếc to gần bằng miệng chiếc bát B52, dày non mu bàn tay, nhưng 100 chiếc đùm vào áo mưa lính cũng chềnh ềnh to bằng 2 chiếc ba-lô cóc.
Chiều chủ nhật sau quốc khánh, 3/9, xe xuất phát từ bờ hồ Thuyền Quang. Chúng tôi quê xa, không ai có người tiễn. Mẹ và các em Lê Minh ra tiễn chung. Trên xe chỉ có 9 lính, còn toàn là dân thường và cán bộ đi công tác. Chiếc xe khách vỏ Ba-Đình, ruột IFA chuyển bánh chạy theo phố Trần Nhân Tông rồi ngoặt trái, xuôi đường Nam Bộ đi về phương Nam.
3.9.1972:
Bây giờ đi là đi chứ đâu phải chuyện “say đi”. (Q.2-Tr.5)Đầu 9/1972 đang là giai đoạn ác liệt nhất của cuộc chiến tranh mà trọng tâm là thị xã Quảng Trị. Địch quyết tâm bật ta ra khỏi thị xã Quảng Trị để lấy lợi thế trên bàn thương lượng Pa-ri. Chịu trách nhiệm chính chốt giữ thị xã lại chính là sư đoàn 325 non trẻ của chúng tôi. Để ngăn chặn mọi sự hỗ trợ của hậu phương cho Quảng Trị, máy bay Mỹ tăng cường bắn phá ác liệt suốt ngày đêm, chặn các ngả đường từ Bắc vào.
Xe chúng tôi đi suôn sẻ được đúng 1 ngày, nhích về phía chiến trường được khoảng 50-60 cây số. Đến một cây cầu đâu đó khỏi thị xã Phủ Lý thì đường bị bom địch cắt đứt, xe phải tạt vào làng xóm ven đường chờ mất 1 ngày. Hôm sau đường thông, lại đi, lại tắc, lại chờ thông đường. Mới được khoảng 100 cây số, chưa hết đất Ninh Bình, mà đã hết đứt gần 1 tuần. Sốt ruột đã đành nhưng bắt đầu có vấn đề về quân lương vì chúng tôi chỉ tính dự trữ đủ cho nhiều nhất là 1 tuần. Thế mà đà này chắc còn lâu mới đến được trạm tiếp nhận của sư đoàn.
Lính vào chiến trường hầu như không ai mang theo tiền. Tôi có tờ 5 đồng, nhưng là 5 đồng của tháng lương binh nhì đầu tiên nhận từ hồi ở Sở Thượng, trên đó tôi đã viết nắn nót và dè sẻn hơn chục địa danh đã qua: Thượng Đình, Sở Thượng, Xóm Mạc, Ngọc Kim Long, Quán Rãnh, Bạch Mai, Kỳ Lạc, Đèo Ngang, Ba Vành, xóm Bơn, Hoà Lạc, Thạch Thất. Tôi quyết không tiêu, để giữ làm kỷ niệm, thầm mong điền các địa danh chỉ hết 1 mặt tờ tiền, sang mặt sau cầu mong được điền lại chữ Thượng Đình là nơi ngày 6/9/1971 đã ra đi. Tôi quản quân lương nên càng lo. Anh em đồng ý xén bớt khẩu phần. Số bánh xốp những ngày đầu chỉ để ăn chơi chơi, nay phải quản chặt để sung vào thành khẩu phần chính. Lên xe, xuống xe, bánh đã vỡ vụn, thì cho vụn luôn, bóp ra, lấy bát B52 đong thành suất, vừa tiện, vừa công bằng, một bữa mỗi người một gạt miệng bát bột bánh xốp, cũng kéo thêm được 3-4 bữa. Kết hợp với nguồn khoai sắn từ dân vận, cố cầm cự.
Tối 6/9, một năm ngày nhập ngũ, Duyên, Minh và tôi, 3 đứa rủ nhau ra ngồi quán nước ven đường. Mấy chén nước chè với mấy viên kẹo dồi, lang thang ngược về dĩ vãng mới một năm chưa xa rồi phiêu diêu tưởng tượng một năm sau, không biết xa hay gần.
Đến được đâu đó cuối Ninh Bình, đầu Thanh Hoá thì gần như dẫm chân tại chỗ. Phần vì đường tắc, phần vì bác tài-xế cứ nấn ná, chỉ suốt ngày quyến luyến, thân mật với một cô hành khách trên xe. Mọi người xì xào: kiểu này thì đến Tết chưa chắc vào đến Vinh. Chúng tôi hội ý và quyết định bỏ xe khách, chuyển sang hành quân bộ.
Cả đoàn cặm cụi đếm từng huyện, hết Quảng Xương sang Tĩnh Gia, qua Quỳnh Lưu, vào Diễn Châu. Cầu Hang, cầu Hổ, cầu Giát,... đều bị bom đánh sập ban ngày, ban đêm công binh khắc phục tạm. Lại đánh, lại nối, ít nhất là đảm bảo giao thông cho người đi bộ. Nhớ đêm qua cầu Hang, cầu Hổ, chúng tôi phải bò trên những nhịp cầu đã bị gục xuống sông, quãng nổi, quãng chìm, gập ghềnh, chênh vênh để vượt sang bờ nam.
Chúng tôi qua Tĩnh Gia, huyện cuối cùng của đất Thanh, sang Quỳnh Lưu, huyện đầu của xứ Nghệ, vào một đêm trăng thượng tuần mảnh mai, mùng 3 hay 4 tháng 8 âm lịch. “Đường vô xứ Nghệ quanh quanh”. Đoạn này, quốc lộ Một chạy bám theo sườn núi. Cả bọn nhóm 2, nhóm 3 cặm cụi đi trong phần đường khuất ánh trăng do bóng núi đổ xuống. Không thấy “non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ”, chỉ thấy ánh trăng bàng bạc trên cao, xa xa phía trước. Càng đi vào đêm, trăng càng xuống thấp, bóng núi càng dâng cao, loang rộng. Tôi chìm vào cảm giác hoang sơ, bé bỏng, thần thoại. Cả bọn dừng chân nghỉ đúng cột phân cách 2 tỉnh Thanh Hoá - Nghệ An. Nhích thêm được một tỉnh nữa.
Hết đất Thanh rồi tiếp sang xứ Nghệ, chúng tôi đi hiên ngang trên quốc quốc lộ Một, hôm đi ngày, hôm đi đêm. Thời điểm đầu 9/1972, quốc lộ Một bị bom Mỹ cắt vụn, đứt đoạn, vì vậy, rầm rập người xe trên đường mòn Trường Sơn nhưng quốc lộ Một lại vắng tanh. 9 chiến sỹ trinh sát f325 với 9 chiếc ba-lô cóc, 9 khẩu AK báng gấp, 1 máy ảnh, cặm cụi đi vào hướng Quảng Trị. Lác đác chúng tôi gặp những người lính đi lẻ hay thành tốp 2 – 3 người, ngược hướng với chúng tôi. Người thì ba-lô lép bẹp trên lưng, người thì xệch xoạc túi mìn Claymo bên vai hay nhếch nhác bao cát Mỹ trên tay, mệt mỏi, rã rượi, vừa đi vừa lấm lét nhìn về phía trước. Đi ngược chiều nhau nhưng chúng tôi chỉ nhìn thấy họ ở xa xa phía trước, không lần nào xáp mặt, không lần nào chào hỏi nhau vì họ đều tạt xuống bên đường, tránh bọn tôi. Có lẽ họ tưởng chúng tôi là quân cảnh.
Tôi chợt nhớ tới một câu có tính triết lý của Huygô trong Những người khốn khổ, đoạn nói về Giăng Van Giăng ở tù ra: “Người nghèo đi không có thói quen ngoảnh nhìn về phía sau”. Lính thì giàu với ai? Đúng thật, không hề thấy những người lính bỏ ngũ đi ngược chiều với chúng tôi ngoái cổ lại. Phía sau của họ là phía trước của chúng tôi, nơi Cổ thành Quảng Trị đang những ngày kiên cường tử thủ.
10.9
Những tốp lính nhếch nhác lê dài trên lộ 1, trốn về nơi thanh bình hơn.
Mùi khăm khẳm của thịt người thối ở hố bom bên cầu vào lúc hửng sáng.
Thoát khỏi Thanh Hoá. -Quỳnh Lưu. (Q.2-Tr.7)Dọc đường vào, đâu đó không nhớ thuộc đất Thanh hay xứ Nghệ, trên lưng chừng những dải núi đất, quân dân đã vạt cỏ, xếp đá hay quét vôi thành hàng chữ in trắng nổi bật trên nền xanh của núi đồi và da trời: “Tất cả để đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược”, sừng sững như một pa-nô thiên nhiên, ta từ chục cây số xa hay địch bay mãi trên trời cao vẫn đọc được.
Đi trên quốc lộ 1, phần đất Quỳnh Lưu, Diễn Châu, có cảm giác như thanh bình hơn Thanh Hoá. Đêm qua núi Mộ Dạ (Dạ Sơn), dù mệt cả bọn vẫn không tiếc đường, tiếc sức, rẽ lên thăm đền thờ Thục Phán An Dương Vương ngay bên đường. Đền nằm trên đỉnh quả đồi tạo nên hình hình con công, đồi là thân công, ngôi đền là cái đầu công, nên gọi là đền Công, tiếng địa phương gọi là đền Cuông.
Từ chân đồi nhìn lên đền Cuông, ánh trăng chiếu sáng ngôi đền, mờ mờ, ảo ảo như phủ khói sương, lung linh truyền thuyết Mỵ Châu, Trọng Thuỷ. Trong đêm trăng mờ, từ trên đền không nhìn được thấy biển, không nghe tiếng sóng vỗ, nhưng gió đã thoảng vị mặn. Khoảng đoán biển không xa, nơi thần Kim Quy hiện lên mách bảo An Dương Vương: “Địch ở sau lưng mà nhà vua không biết!” Sao chuyện xưa mà cũng oan nghiệt thế! Liệu có đoạn nào trên chặng đường chúng tôi vừa đi, vết chân chúng tôi trùng lên vết vó ngựa của cha con Thục Phán? Có còn sót lại đâu đó những chiếc lông ngỗng si tình của người xưa?
Tôi nhớ hôm qua Diễn Châu, đoàn dừng chân nghỉ đêm ở Diễn Thịnh. Đất lạc đang mùa thu hoạch lạc, ngập sân, ngập hè là lạc. Lần đầu tôi thấy người ta bóc lạc bằng cối máy, đạp bằng chân, thứ cối ở quê tôi chỉ để giã gạo, giã bột. Thật ngạc nhiên, chày máy giã phầm phập thế mà chỉ vỡ vỏ chứ nhân lạc không vỡ. Sáng ra, khi chia tay gia đình, tôi mới biết hôm trước nữa mình đã quên chiếc bi-đông ở Quỳnh Lưu. Bác chủ nhà thấy vậy vội chạy vào buồng mang ra cho tôi một chiếc bi-đông, cũng bi-đông lính, bi-đông Trung quốc, mới tinh, dù tôi từ chối thế nào cũng không được. “Có phải của nhà mô. Cũng là của mấy chú đoàn khác bỏ quên. Bộ đội đi B mà không có bi-đông đánh Mỹ răng được!”.
Qua Nghệ An sang Hà Tĩnh, chúng tôi rời quốc lộ 1, rẽ lên đường 15 vì đích đến của chúng tôi là miền tây Kỳ Anh. Qua Nghi Xuân, Đồng Lộc, Đức Thọ, Can Lộc, Hương Khê, Cẩm Xuyên vào Kỳ Anh. Chỉ đi đêm, vì đêm mới hy vọng gặp xe đi nhờ. Một đêm, cả lũ ngủ thiếp đi ngay trên mặt đường. Đằng nào xe đến cũng phải dừng lại, khỏi phải vẫy, càng dễ xin đi nhờ.
Một đêm khác, đâu đó thuộc Can Lộc, Hà Tĩnh, trăng gần rằm, trong veo, chúng tôi đi nhờ được xe tải, nhưng đường mới bị bom đánh tắc. Điểm tắc là cống Mười Chín, một trong những trọng điểm mà cánh giao liên quen gọi là cống “Mì Chính”, vì có lần địch đánh trúng xe chở mì chính, làm tung toé mì chính ra trắng cả mặt ruộng. Chờ cả tiếng sốt ruột, chúng tôi xuống xe, men theo đoàn xe đi về phía trước. Ngạc nhiên, đoàn xe không phải là 5 xe, 10 xe mà là cả hàng trăm xe, toàn là xe tải, ăm ắp chở hàng, chở quân. Tất cả tắt máy, căng thẳng, lính lái ngồi trong ca-bin, bộ đội trên thùng xe, ai nấy căng tai lắng nghe hướng dẫn của thanh niên xung phong và canh chừng tiếng máy bay giặc. Và ngạc nhiên hơn nữa là cả trăm xe chiều vào nhưng không có một xe nào chiều ra. Cứ như một chiều máu chảy. Tôi thấy rạo rực, mình cũng là một trong những bạch cầu, hồng cầu li ti trong mạch máu sục sôi, căng tràn, đêm đêm hừng hực chảy dồn về phía có tiếng súng.
Qua được cống Mì Chính là đến ngã ba Đồng Lộc. Một lần khác vẫy được xe dừng lại, lái xe thò đầu ra: Xe chở lợn, hôi lắm, đi không? Có, hôi còn hơn đi bộ. Lớp nhớp một đêm lính đứng chung với lợn trên xe, hôm sau tắm suối nửa ngày vẫn hôi.
Sau đúng 16 ngày long đong, lận đận nhưng không kém thi vị, trưa 18/9, toán trinh sát cũng đến được tiểu đoàn thu dung (d27) của sư đoàn ở Kỳ Tây, Kỳ Anh. Thật tiếc là cuộc hành quân hơn nửa tháng đầy ắp những kỷ niệm thú vị ấy được ghi lại trong nhật ký quá sơ sài. Cứ ngày nối ngày, đêm nối đêm, huyện nối huyện, tỉnh nối tỉnh, mặc máy bay và bom đạn, cứ thế thẳng hướng ra chiến trường. Có rảnh rang lúc nào đâu mà nhật ký! Chỉ 4 lần ghi: 3/9 - Ngày xuất phát; 8/9 – Tắc đường, rỗi rãi; 10/9: Hết đất Thanh, sang Nghệ và 18/9: Tới trạm thu dung. Còn đọng trong trí nhớ thì nhiều, đủ để viết vài quyển, vài trăm trang, nhưng lủng củng, nhòe nhòe, lẫn lộn.
8.9
Tắc đường và những câu chuyện triết lí khi rỗi rãi:
Người ta lo lắng về một sự biến đổi tư tưởng, biến đổi quan niệm. Điều đó không phải là không thể xảy ra. Thật là kinh khủng! Một ngày kia người ta sẽ cảm thấy say mê rất tự nhiên những cái mà bây giờ rất coi thường. Người ta bình tĩnh bao biện cho lối sống tầm thường lúc ấy.
Còn tình yêu, còn quan niệm về hạnh phúc, về thể xác và về hứng thú được nuôi con và dạy con. Những suy nghĩ về chiến tranh.
Người ta thiết tha với cuộc sống không phải vì họ sợ cái chết mà là vì họ sợ cái không sống! (Q.2-Tr. 6)
18.9
Đến được nơi. Một kỳ công vĩ đại. -Trạm thu dung của sư đoàn. (Q.2-Tr.7)(Còn nữa)