4. Xê Hai Mươi
Chúng tôi từ không quân quay về f325 thì d10 sinh viên đã được điều chuyển sang f308 rồi, giờ đóng ở đâu, Bắc hay Nam, không rõ. F325 cũng vừa chuyển từ chức năng sư đoàn huấn luyện quân tăng cường để bổ sung cho các sư đoàn khác sang thành sư đoàn cơ động, vì vậy, sư đoàn phải biên chế và thành lập mới nhiều đại đội, tiểu đoàn trực thuộc, như công binh, hoả lực, vệ binh, thông tin, đặc công, trinh sát, quân y, vận tải, ... để thành một sư đoàn cơ động hoàn chỉnh. Cả nhóm 6 “phi công hụt” được biên chế vào đại đội trinh sát (c20), khi đó mới hơn 1 tháng tuổi. Cán bộ ban quân lực giải thích: “Trượt phi công mà đỗ trinh sát thì lý tưởng quá rồi còn gì”. Chẳng rõ là ông ta khen hay chê nhưng với 3 đứa sinh viên, gốc d10, ít nhiều có chút thất vọng và buồn, dù sao vẫn ao ước được về “tiểu đoàn sinh viên” hơn. Riêng tôi thì nản đến rã rượi.
22.1.1972:
Sa xuống hố. Sâu thăm thẳm và tối mù mịt. - Ngày về c20. (Q.1-Tr.136) Đại đội trinh sát sư đoàn 325 được thành lập ngay khi sư đoàn chuyển từ huấn luyện sang cơ động. Cán bộ đại đội đủ bộ theo biên chế, trưởng phó 4 người. Đại đội trưởng là trung uý Nguyễn Đức Hiền, người cao, gầy, quê Hà Bắc. Nghe anh em kháo nhau anh là một trinh sát dù kỳ cựu, được học hành bài bản về trinh sát, có rất nhiều tài lẻ. Ba người còn lại đều gốc miền Nam. Chính trị viên trưởng là anh Khâm, quê Phú Yên, nét thư sinh, trí thức, hiểu biết rộng và tỏ ra dễ gần với bọn tôi. Chính trị viên phó là anh Ánh, đại đội phó là anh Thời, cả 2 nghe nói đều gốc biệt động Quảng Nam, Bình Định, nhưng sao thấy chân chất, mộc mạc, thẳng thắn đến lạ kỳ. Lính c20 chủ yếu nhập ngũ từ nông thôn, quê Hải Hưng, vùng Ân Thi, Kim Động, Khoái Châu, tuổi sàn sàn 17-18, ít hơn bọn lính sinh viên chúng tôi khoảng 1-2 tuổi.
Về c20, mấy đứa phi công hụt được phân tản ra, không ai cùng tiểu đội vớ ai. Ba đứa sinh viên bọn tôi: Lê Minh được điều về a2, tôi về a8, còn Hồ Bảo, bị phát hiện chữ đẹp, ngậm ngùi lên làm liên lạc đại đội. Hôm sau, thấy Hồ Bảo thì thầm tin mật: Trong đại đội còn có 3 sinh viên khác. Đó là 2 y tá Tất, Việt, cũng “dân Sáu Chín Bảy Mốt”, vốn sinh viên đại học Y Hà Nội, và anh Thắng, đi từ trường đại học nông nghiệp, làm quản lý đại đội.
Ba cựu binh “6.9.71”, cựu binh “Dự khóa bay” ngày ấy về Xê 20, và Đại tá Nguyễn Việt, nguyên phó tham mưu trưởng F325, nguyên tư lệnh chỉ huy lực lượng bảo vệ thành cổ hè 1972
(Ảnh chụp 12/1/2005, nhân ngày trao kỷ niệm chương “Quyết chiến thị xã Quảng Trị - Hè 1972")
Tôi được “phong” tiểu đội phó, cao hơn chức tổ trưởng tổ tam-tam một bậc, từ chân kiến lên thành thân kiến! Được hơn một tuần thì anh Độ, tiểu đội trưởng, phải đi công tác. Tôi thay anh quản a8, một việc quá quá sức tôi. Được cái anh em trong a đều thuần, thuần lắm. Họ không biết tôi là sinh viên, nhưng cũng có chút nể cái tiếng “phi công hụt”. Tiểu đội êm ấm như gia đình, như anh em. Mấy ngày sau, tôi phát hiện ngay chính trong tiểu đội tôi cũng có một sinh viên, trật tuổi tôi, tên là Đỗ Triệu.
Tiểu đội tôi ở xóm Đồng, a2 của Lê Minh ở xóm Bùi, chẳng nhớ xã gì, thuộc huyện Việt Yên, nằm gần bờ sông Thương, đối diện bờ bên kia là Nhà máy phân đạm Hà Bắc. Chúng tôi tập các bài nghiệp vụ trinh sát, tiềm nhập, đột nhập. Được cái tiện, lấy ngay làng xóm, nhà dân làm thao trường, không cần đào đắp thao trường như hồi huấn luyện tân binh ở Tân Yên.
Người dân Đồng Bùi sáng trưa theo tiếng kẻng hợp tác xã, đều đặn ngày 2 buổi ra đồng, cổng cửa chỉ khép hờ, không nhà nào có chó, không nhà nào có khoá. Gầm giường các nhà đầy khoai lang, gác bếp lủng lẳng những túm bắp ngô để giống cho vụ sau, đất đai màu mỡ, những cánh đồng xanh mướt mượt, bạt ngàn rau hành, đậu đỗ, tràn ngập cảm giác Nghiêu Thuấn, no ấm, thanh bình. Tôi còn nhớ, có một lần ở Đồng Bùi, trong khi tập bài bí mật đột nhập, tôi đã đứng ngẩn ngơ rất lâu trong một căn nhà tường đất, mái rạ, nhỏ và đơn sơ, đồ đạc sơ sài, chủ nhà đi vắng. Trên một cây cột gỗ có treo một bức chân dung khổ to, tự họa, một người thanh niên mặc áo comple đen, thắt caravat, với dòng chữ tiếng Nga: Ia-Sờtuđent (Tôi là sinh viên). Một cảm giác khó tả.
Trinh sát không hẳn là lính cậu, không được hưởng trung táo như Lớp dự khoá bay, nhưng cũng được ưu ái “bảy hào mốt”, tức là nhỉnh hơn 2 xu so với lính thường đại táo. Chẳng hiểu do 2 xu nghiệp vụ ấy hay do tài xoay xở của cán bộ chỉ huy, của anh Thắng quản lý, hay do phì nhiêu màu mỡ của đất Việt Yên mà bữa ăn ở c20 khá hơn hẳn thời c23 và d10, chẳng kém gì “trung táo - chín hào” hồi Lớp dự khoá bay. Tết sắp đến, còn thấy cả mấy chú lợn béo rụt cổ nhốt nhờ ở chuồng lợn hợp tác xã. Thấy anh nuôi, tiếp phẩm rục rịch gạo nếp, lá bánh, miến, mộc nhĩ.... Hứa hẹn “Tết lính” đầu tiên không đến nỗi nào. Đã thấy nguôi ngoai nỗi luyến tiếc “tiểu đoàn sinh viên”.
Tết đã rất gần. Sáng 25 tháng chạp, bất ngờ đơn vị nhận lệnh di chuyển. Đại uý Tân, trưởng ban trinh sát sư đoàn (Ban 2) xuống tận nơi phát lệnh. Đơn vị tập trung ở sân kho hợp tác xã. Uy nghi và trang nghiêm lắm. Không phải dã ngoại hay tập tành như những lần trước mà sẽ đi thật, đi rất xa. Vì mọi thứ cho tết đã chuẩn bị khá đầy đủ, chu đáo, bây giờ đành phải hối hả thịt lợn, gói giò, bó măng, bó miến, chia gạo đỗ về các tiểu đội, nhồi vào các ba-lô. Kịp thì tới nơi đóng quân mới ăn tết, không thì tết trên đường, cứ như chuyện hành quân thần tốc của nghĩa quân Tây Sơn.
Riêng với tôi còn gặp 2 điều rắc rối. Một là tôi đã trót gửi thư về nhà, chỉ đường chi tiết, hẹn Thầy Mợ tôi tết này lên xóm Đồng thăm tôi, có thể sau tết tôi sẽ đi xa. Hai là anh Độ không kịp lên nên tôi vẫn phải quản tiểu đội thay anh, chẳng nặng nhọc gì nhưng lo cho anh Độ, nhỡ đơn vị đi thẳng vào chiến trường thì sao.
Về sau, kết cục cả 2 chuyện đều buồn. Thầy Mợ tôi, đã ngót nghét 70 tuổi, lỉnh kỉnh bánh trái, bỏ cả tết nhất, lặn lội đêm hôm, chen chúc tàu xe ngày tết, từ Hương Canh xuôi Yên Viên rồi đổi tàu, ngược Bắc Giang, lẽo đẽo cuốc bộ thêm non chục cây số từ ga Bắc Giang, khấp khởi sáng mùng 2 tết hỏi thăm lên đến xóm Đồng. Làng xóm đang thanh bình đón tết, nhưng tịnh không còn thấy một bóng áo xanh bộ đội. Anh chị chủ nhà an ủi, mời Thầy Mợ tôi ở lại chơi. Lòng dạ đâu mà chơi. Qua loa khoanh bánh, chia hết tay nải quà cho các cháu, rồi hai cụ thờ thẫn ra về.
Còn chuyện anh Độ, sau này tôi mới biết lần ấy anh Độ đi thẩm tra lý lịch, đại đội linh động cho anh rẽ về nhà ít ngày, tranh thủ cưới vợ. Không ngờ có lệnh chuyển quân quá gấp, trăng mật chưa đủ tròn, chưa đủ ngọt, nhận tin, anh vội lên đơn vị, nhưng cũng không kịp.
Theo đường giao liên, mãi cuối 4/1972 anh mới vào đến đơn vị ở Hà Tĩnh thì tôi lại quay ra Sơn Tây học binh địa mất rồi, không gặp nhau. Chỉ chục ngày ngắn ngủi bên nhau để rồi xa nhau, không ngờ lại là vĩnh viễn. Mãi cuối 1973, ở Quảng Trị, tôi có dịp đến Như Lệ, khu cao điểm 15, quanh quanh nơi anh đã hy sinh khoảng 1 năm trước đó, nhưng không biết mộ anh ở đâu, thuộc bên mình hay bên địch. Rưng rưng, bồi hồi.
11.8.1973
Như Lệ là nơi yên nghỉ của Anh Độ. Tôi vẫn luôn coi anh là một “Tấm lòng vàng” - “Một tấm lòng vàng bất hạnh”. Có thể nguyên nhân cái chết của anh như Tuấn Anh kể, có thể như Hội kể hoặc như Đọ kể. Nhưng dẫu sao chăng nữa cũng không thể vớt vát được. Có những sự sai sót trả nợ được và cả những sự sai sót không tính thành giá để trả được. -Cao điểm 15. (Q.2-Tr.71)Chỉ có hơn một ngày để chuẩn bị, mờ sáng 11/2, thứ sáu, 27 tết, chúng tôi tạm biệt xóm Đồng, xóm Bùi, hành quân dọc theo bờ sông Thương, tập kết ở sân ga Bắc Giang. Trên sân ga đã thấy nhiều đơn vị khác, lỉnh kỉnh xoong, nồi, măng, miến, giò, ... lẫn với súng đạn, quân trang.
Xa xa, tôi nhìn thấy các cán bộ lãnh đạo sư đoàn, đều mặc áo măng-tô bằng dạ xám, đồ viện trợ của Liên xô, đi đi lại lại trên sân ga, nom như cảnh thường thấy trong những phim thời Xô-viết đánh phát xít Đức. Đại trưởng Hiền thì thầm chỉ cho chúng tôi: Kia là thượng tá, sư trưởng “Ba Kích”, chiến sỹ cách mạng từ thời Đội du kích Ba Tơ, đứng bên cạnh là chính uỷ Công Trang, người đậm, thấp, lính f325 từ thời Điện Biên. Còn nữa, sư phó, tham mưu trưởng, tham mưu phó, rồi trưởng ban này, ban kia, ... Thời tân binh, lính binh nhì bọn tôi lên gặp đến cán bộ đại đội, một sao, một gạch đã thấy “rét”, bây giờ được đứng gần, nhìn tận mắt tư lệnh và chính uỷ sư đoàn, sao gạch loang loáng trên ve áo, thấy ren rén, run run pha lẫn rạo rực, phấn chấn.
Tàu đưa chúng tôi đi về phương Nam. Không hiểu vì lí do gì mà tàu có dừng lại khoảng nửa tiếng ở ga Hàng Cỏ. Có lẽ là lấy nước, thêm than hay tránh tàu khác chứ chắc không phải là vì một lý do tình cảm hay lãng mạn kiểu dân sự. Khi đó phía sau ga Hàng Cỏ là tường rào, sau rào là nhà dân, chưa mở ga Trần Quý Cáp. Tàu đỗ ở một đường ray tận cùng phía sau, sát rào, cách biệt hẳn với khu vực hành khách. Cán bộ từ tiểu đội trưởng trở lên như tôi được phép xuống sân ga, đi nhận phần ăn, phần uống cho anh em. Quân cảnh khoác AK, đeo băng đỏ “chốt” ở 2 phía đầu và cuối tàu. Thấy có mấy đồng đội, không rõ đơn vị nào, nhưng chắc là lính Hà Nội, tình cờ hay bố trí gặp được người nhà, quân cảnh cho gặp nhau, đứng bịn rịn ngay ở bậc lên xuống toa, nhìn mà thèm, mà ghen. Cách xa mấy đường ray, về phía đường Nam Bộ, có một đoàn tàu khách. Hành khách đứng chen chúc trên các toa tàu vốn là toa chở hàng, cửa mở ở giữa sườn toa, không có bậc lên xuống. Ai nấy đùm đùm, bọc bọc những gói hàng tiêu chuẩn tết với bánh pháo tết bọc giấy điều, nom ngợp không khí tết thời chiến. Loáng thoáng có những bàn tay vẫy vẫy, biết đâu có con em mình bên ấy. Bên này, lính căng mắt nhìn. Ai cũng nghĩ là vẫy mình! Khi đầu tàu phía Khâm Thiên kéo còi hu hu, thấy quân cảnh ai nấy đã ú ụ những chồng thư trên tay, những bức thư lính viết vội viết vàng nhờ chuyển về cho người thân, nhiều lá không tem, không cả phong bì.
(Xem tiếp trang sau ...)