Những sự kiện chính, kết quảBuồn thay, đối với những người lính G.M.100, thử thách vẫn chưa chấm dứt. Họ còn phải đương đầu với 55km trên con đường thù địch và đoàn quân hỗn hợp G.M.42 và 100, A.G.1 tiếp tục bị quấy nhiễu cho đến khi họ tới được Pleiku ngày 29/6. Trong số 222 người của đại đội chỉ huy khi G.M.100 rời An Khê, chỉ còn lại 84 người. Tiểu đoàn 43 thuộc địa, tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 2 Triều Tiên, gồm 834 lính mỗi tiểu đoàn giờ còn lại tương ứng là 452, 497 và 345. Tiểu đoàn 2, trung đoàn 10 pháo binh thuộc địa còn lại 215 so với quân số ban đầu là 474. 85% xe cộ, 100% pháo binh và 68% thiết bị thông tin của G.M.100 bị mất. 50% súng trường và súng máy bị VM tịch thu.
Đại tá Barrou, thật đáng ngạc nhiên, đã sống sót sau khi đơn vị của ông bị huỷ diệt, được một đội tuần tra Pháp cứu và cáng về. Đội tuần tra sau đó bị VM bắt và Barrou phải tham dự vào cuộc hành trình chết chóc suốt 100 dặm hoặc hơn tới trại tù binh, nhưng ông đã sống sót qua cuộc chiến và cuối cùng được trao trả về Pháp.
Trung đoàn 803 VM cho đi cũng nhiều như đã nhận và được bổ súng 1 tiểu đoàn một ngày sau trận chiến đấu ở cây số 15. Họ nhanh chóng tham dự lại các hoạt động tác chiến trên Tây Nguyên và tiếp tục chiến đấu chống quân Pháp cho tới khi hiệp định được ký ngày 20/7.
Do truyền thống giữ bí mật của VM, không rõ họ đã bị tổn thất bao nhiêu, nhưng không nghi ngờ gì là trung đoàn đã khoác lên mình vinh quang tiêu diệt 1 trong những đơn vị cơ giới tốt nhất của quân đội Pháp. Nhiều năm sau, trung đoàn 803 sẽ tiếp tục chiến đấu chống lại kẻ xâm chiếm mới. Lần này là quân đội Hoa Kỳ.
Mục đích của VM trong việc tiêu diệt đoàn xe Pháp đang rút về Pleiku rất đơn giản. Bằng việc chứng minh khả năng gây thiệt hại nặng nề cho quân đội Pháp sau tấm gương thất bại của Pháp ở ĐBP, người Việt có thể điều chỉnh các điều khoản của hiệp định hoà bình giữa Pháp và chính phủ VN lâm thời của Hồ Chí Minh. Không đời nào họ muốn nước Pháp giữ lại phần lãnh thổ nào của VN, hay muốn nước Pháp cảm thấy muốn tiếp tục cuộc chiến. Bằng việc tiêu diệt đoàn xe Pháp, người Việt đánh đối thủ đang gục ngã, nhưng họ làm thế để gửi đến một thông điệp rõ ràng rằng VN là người chiến thắng.
Với tất cả những mục tiêu và ý định, cuộc chiến đã kết thúc khi G.M.100 bị tiêu diệt ngày 24/6/1954. Tuy nhiên, bằng những gì đã làm, người Việt thúc đẩy sự ra đi của người Pháp khỏi VN và cho người Pháp thấy thực tế là trước khi người lính cuối cùng rút đi, sẽ vẫn là cuộc chiến cho tới cùng. Nước Pháp đã ở lại quá lâu mảnh đất mà giờ đây họ đang chuẩn bị từ bỏ. Để bảo đảm người Pháp không thể nghĩ khác, không thể cân nhắc về việc theo đuổi chiến tranh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vị tướng vĩ đại nhất của VN tiếp tục gây sức ép cho đến khi nước Pháp nhận ra rằng tiếp tục sự hiện diện của họ trên VN sẽ dẫn tới nhiều cái giá sinh mạng binh lính phải trả. Không đầy 1 tháng sau thảm hoạ ở cây số 15, người lính Pháp cuối cùng rời khỏi đất VN.
Nhiều sự kiện đã góp phần vào việc G.M.100 bị tiêu diệt. Đại tá Barrou vốn rất cẩn trọng và giỏi sử dụng các đội trinh sát và tiền vệ khi cơ động liên đoàn. Khi nhận được báo cáo trung đoàn 803 định cắt đứt ông Pleiku, ông cố chạy đua với VM, thay vì thực hiện các biện pháp trinh sát và cảnh giới có thể đã ngăn ngừa cuộc phục kích. Cám ơn cho hành động độc lập của riêng đại uý Leouzon, trong một phạm vi rất nhỏ đơn vị đã được cảnh báo sớm trước khi đoàn xe đi vào tầm bắn của hoả lực gián tiếp và trực tiếp. Chia nhỏ đoàn xe cũng cho phép trung đoàn 803 tập trung tấn công nhóm đi đầu, gây thiệt hại nặng cho họ trước khi các tiểu đoàn Triều Tiên có thể tới nơi để chặn làn sóng tấn công lại
Việc xe thông tin không thông báo được cho Thiếu tá Muller tiểu đoàn 43 biết đã phát hiện VM ở cây số 15 là yếu tố quyết định đến cách Muller triển khai lực lượng. Khi đại uý Leouzon đề nghị thăm dò bên sườn đoàn xe, cả anh ta lẫn Muller đều không có một ý niệm nào là VM đang ở trong khu vực. Thất bại quyết định trong liên lạc này không nghi ngờ gì đã góp phần lớn vào cái chết của các binh sĩ Pháp ở cây số 15.
G.M.100 mất toàn bộ các vị trí chỉ huy và điều khiển ngay trong những phút đầu tiên bị phục kích. Kết quả là, cả 3 tiểu đoàn trưởng đều tự thân chiến đấu mà không có sự phối hợp nào. Các sĩ quan tiểu đoàn đã làm nhiệm vụ rất tốt trong việc lãnh đạo đơn vị, nhưng do không có sự chỉ huy chung, quân Pháp không thể thực hiện nỗ lực phá vỡ vòng vây chết chóc xung quanh họ, họ mở nhiều cuộc tấn công lẻ tẻ thất bại trước khi phải co cụm vào chu vi phòng thủ. Cái chết của trung tá Lajounie và thiếu tá Hipolite, và sự bất lực của đại tá Barrou, đã gây hậu quả đối với G.M.100, và chỉ nhờ kỷ luật và lãnh đạo trong các cấp bộ binh mà toàn bộ đạo quân đã không bị tiêu diệt.
Trung đoàn trưởng trung đoàn 803 đã chọn địa điểm rất chuẩn xác để tiêu diệt kẻ địch. Ông sử dụng hoả lực mạnh có hiệu quả, phá huỷ các xe cộ và do đó dồn đoàn xe vào trong tầm sát thương trong khi binh sĩ có thể tiếp tục gây tổn thất lên hàng ngũ quân Pháp. Duy trì hoả lực súng cối liên tục, ông không cho quân Pháp bất cứ cơ hội nào để củng cố và tổ chức lại có hiệu quả, và có thể dễ dàng đánh bại các đợt phản kích lẻ tẻ. Khi cuộc tấn công của bộ binh bắt đầu bị chùn lại, ông rút họ về để dùng súng cối và súng máy hạng nặng làm suy yếu sức kháng cự của quân Pháp. Ông đã tiến hành một trận phục kích tuyệt vời mà người Pháp nào trốn thoát được là đã rất may mắn.
Hậu quảThất bại của G.M.100 đi cùng với sự nhận ra rằng đổ máu thêm ở VN là vô ích. Cuộc chiến đã thất bại trước cuộc phục kích ở cây số 15, nhưng một chiến thắng của Pháp trước trung đoàn 803 không thể thay đổi việc ngừng bắn
(The war had been lost before the ambush at PK 15, but a French victory over the 803rd would not have altered the armistice in the least). Nước Pháp thất bại trong nỗ lực duy trì VN làm thuộc địa, không phải vì quân đội của họ không có khả năng đánh bại VM, mà vì nước Pháp không chấp nhận trả giá để giữ VN như người VN chấp nhận trả giá cho độc lập. Nước Pháp rút ra bài học này với cái giá là hơn 172,178 lính Pháp và đồng minh chết và bị thương mặc dù họ có trong tay 1 quân đội chuyên nghiệp với những trang bị tuyệt vời, với số lượng và tinh thần mà khi chiến đấu hang ngày với VM chỉ có số lượng và sự cuồng tín, the mass and fanaticism with which the Viet Minh fought each day was more of a match for her. Bài học này là cho tất cả, kể cả nước Mỹ đã thất bại trong việc chú ý xem điều gì đã xảy ra với người Pháp, và đã phải học lại những bài học mà quân đội Pháp đã phải trả bằng máu.
….
Nếu những nhà lãnh đạo nước Mỹ nghiên cứu tấm gương của chiến tranh Đông Dương, có lẽ nhiều mất mát mà đất nước này phải chịu trong chiến tranh ở ĐNA sẽ không bao giờ xảy ra. Quân đội chúng ta phạm cùng một sai lầm với người Pháp, chiến đấu với một đối thủ trung thành với đất nước VN hơn chúng ta rất nhiều. Sự sợ hãi và căm ghét CS mù quáng khiến chúng ta lao vào cuộc chiến không thể thắng. Tác động lâu dài của trận đánh đẫm máu ở cây số 15 có thể nhìn thấy ở mỗi cái tên người Mỹ ở bức tường tưởng niệm chiến tranh VN ở Washington D.C.
Nguyên tắc chiến tranhCơ động. VM biết rõ đoàn xe Pháp bị tấn công trên địa hình trống trải sẽ không có thời gian hay khả năng cơ động khi họ đụng phục kích. Bộ binh Pháp ngồi trên xe không mui nhưng cỏ voi cao cản trở họ liên lạc với các xe và bộ binh khác. Sự thiếu khả năng cơ động buộc quân Pháp phải chiến đấu phòng ngự trên địa hình trống trải, bao vây bởi đối phương có lợi thế về nguỵ trang và điểm cao.
Kiểm soát lực lượng. Mặc dù đoàn xe Pháp có hơn 2000 lính chiến đấu trong biên chế, Đại tá Barrou đã chia nhỏ lực lượng đi trên đường, cho phép VM tấn công G.M.100 khi từng nhóm một đi vào điểm phục kích. Quân số 2 bên tương đương trên giấy tờ, nhưng vào thời điểm các tiểu đoàn Triều Tiên tới nơi, tiểu đoàn khinh quân 520 đã bỏ chạy, đại đội chỉ huy bị tiêu diệt và tiểu đoàn 43 đã bị bao vây và đang hứng chịu hoả lực. Quân Pháp chưa bao giờ có thể tập trung lực lượng vào một điểm, do đó họ không thể phá vây thành công.
Tập trung quân. Trung đoàn 803 bố trí lực lượng tập trung chống lại G.M.100 để đạt hiệu quả cao. Bố trí súng máy, súng cối hạng nặng, súng chống tăng 57mm và hoả lực bộ binh bắn vào đoàn xe lộ liễu, VM thành công với hiệu quả chết người. Ngược lại, quân Pháp không thể tập trung lại, họ bị chia cắt và không có biện pháp phối hợp các đợt phản kích. Sự bất lực trong việc chống lại sức tập trung áp đảo của VM đã phán xét số phận G.M.100 ngay từ phút đầu.
Cảnh giới. Đại tá Barrou hy sinh công tác cảnh giới để đổi lấy tốc độ và rất nhiều binh sĩ của ông đã phải trả giá. Với việc không trinh sát đầy đủ khu vực phía tây cây số 11, ông đã để đoàn xe chở lính của mình tiến lên một cách mù mờ, không biết gì về địa hình hay những nguy hiểm nằm phía trước. Làm như thế, ông đã cho quân Việt thế chủ động và ưu thế rõ rệt. Họ biết người Pháp ở đâu và giới hạn sức chiến đấu của họ. Đại tá Barrou không có ý niệm nào về vị trí của VM trừ số bị phát hiện gần quốc lộ 19. Thay vì điều chỉnh lại kế hoạch, bố trí cảnh giới, ông đã tiếp tục tiến lên trong trạng thái mù.
Yếu tổ bất ngờ. Thiếu cảnh giới, quân Pháp đã để VM tạo được bất ngờ. Mặc dù quân Pháp biết rằng họ ở quanh đây, nhóm đi đầu đội hình lại không biết. Nếu bản năng của Leouzon không khiến anh thăm dò đường tiến của tiểu đoàn ở khu vực cây số 15, sự bất ngờ hẳn đã hoàn hảo và cả đoàn xe đã bị tóm gọn trên đường trống. Ngay cả khi điều đó không xảy ra, người VN vẫn có lợi thế về sự bất ngờ và đã tận dụng nó hết sức hiệu quả.
Thống nhất chỉ huy. G.M.100 có nhiều sĩ quan, nhưng bất hạnh là 3 sĩ quan cao cấp nhất bị loại khỏi vòng chiến ngay từ những phút đầu. Do các tiểu đoàn trưởng còn đang vướng bận chiến đấu cho bản than, không ai nắm quyền chỉ huy cho tới khi thiếu tá Kleinmann tới nơi 40 phút sau khi cuộc phục kích mở màn. Trong 40 phút đó, toàn bộ trung đội thiết giáp đã bị tiêu diệt cũng như phần lớn xe cộ của đoàn. Kleinmann tiếp nhận sự hỗn loạn và đã làm tất cả những gì có thể, nhưng vào lúc ông đến, cơ hội giành lại thế chủ động cho quân Pháp đã qua và trận đánh hầu như đã nằm trong tay VM. Barrou không có kế hoạch sơ bộ nào cho chống phục kích, hay chỉ dẫn nào cho cấp dưới trong trường hợp ông bị loại khỏi vòng chiến. Kết quả là, thời giờ quyết định đã mất vào việc tổ chức lại hệ thống chỉ huy, và với thời giờ bị mất đó, khả năng thắng trận đánh của G.M.100 cũng trôi đi.
Phần kếtNhững người lính của G.M.100 là những binh sĩ tốt nhất của quân đội Pháp. Họ đã “đối mặt với voi” trong nhiều thời điểm trên các cao nguyên của VN năm trước và nằm trong số những binh sĩ chuyên nghiệp, có kinh nghiệm nhất trên thế giới. Tiểu đoàn 1 và 2 Triều Tiên đã giành chiến thắng vinh quang ở Chipyong-Ni và Arrowhead Ridge nhiều năm trước và rất tự hào về điều đó. Nhưng, như các cựu binh sớm nhận ra, “Indochine no est Coree.”. Việt Nam (
đúng ra phải là Đông Dương) không phải là Triều Tiên. G.M.100 chết ở cây số 15 vì một loạt những sai lầm đã dẫn tới một trận đánh mà họ không có cơ hội chiến thắng. Quyết định sai lầm của các chỉ huy cấp cao làm mất mạng rất nhiều binh sĩ, trong khi sự chỉ huy nổi bật ở cấp dưới đã cứu nhiều người. Đó là chiến tranh. Trung tướng về hưu Harold G. Moore có lẽ đã tổng kết số phận G.M.100 tốt nhất tron cuốn sách của ông, We Were Soldiers Once. .And Young.
“Ngay sau khi tới VN, thượng sĩ Plumley và tôi lấy 1 chiếc jeep và 1 cảnh vệ mang shotgun lái 10 dặm về phía tây An Khê trên đường 19, vào khu vực trận địa, tới mốc cây số 15. Tại đây, VM đã tiêu diệt phần lớn liên đoàn cơ động 100 của Pháp trong 1 trận phục kích chết chóc. Chúng tôi đi bộ trên trận địa, nơi có 1 đài tưởng niệm cao 6 feet lỗ chỗ vết đạn, viết bằng tiếng Việt và Pháp: “Tại đây, ngày 24/6/1954, binh sĩ Pháp và VN hy sinh vì Tổ quốc…” (Here on June 24, 1954, soldiers of France and Vietnam died for their countries)
Plumley và tôi đi quanh đó trong 2 giờ. Những mảnh xương, bộ phận vũ khí và xe cộ, quân trang, đầu đạn và vỏ đạn vẫn bừa bãi trên mặt đất. Từ cuộc viếng thăm này tôi rút ra được bài học:
Chết là cái giá phải trả cho việc đánh giá thấp đối thủ ngoan cường này”(16)
Ghi chú1-Bernard B. Fall, Street Without Joy (Stackpole Books, New York, 1964) p.187-188.
2-Fall, p. 190.
3-Jim Mesko, Ground War - Vietnam 1945-1965 (Squadron Signal Pub., Carrollton, Texas, 1990) p. 3-4.
4-Fall, p. 186.
5-Mesko, p. 6.
6-Martin Windrow and Mike Chappell, Men-At- Arms Series: The French Indochina War (Osprey Military Publications, Wellinborough, UK, 1998) pp. 16-17.
7-Robert Barr Smith, Men At War (Avon History, New York, 1997) p. 349.
8-Fall, p. 193.
9-Fall, p. 189.
10-Windrow, Chappell, pp.20-21.
11-Windrow, Chappell p. 21.
12-Fall, p.206.
13-Fall, pp. 210-211.
14-Barr-Smith p. 350.
15-Fall, p. 218-219.
16-Harold G. Moore and Joseph L. Galloway, We Were Soldiers Once…And Young (Harper Perennial, New York) 1992 p. 49.