Tôi xin gửi tới các bạn một bài viết của Nguyễn Như Thìn, anh nguyên là SV lớp Toán Cơ 15 ở ĐHTH,cùng lớp với Nguyễn văn Thạc. Là xạ thủ 12 ly 7 của c12/d3/e101/f325, anh đã đi hết cuộc chiến từ Nại Cửu, An Tiêm, Chợ Sãi cho tới Long Quang, Thanh Hội, Cửa Việt rồi cùng đơn vị từ Phú Lộc đánh vào Huế; tiến đánh Phan Rang, Long Thành và giải phóng Sài Gòn. Sau chiến tranh về học tại khoa Ngữ văn và công tác tại FAFIM.
Anh hiện còn giữ toàn bộ những ghi chép trong những năm tháng chiến trận, những vần thơ viết về Nguyễn Văn Thạc khi nhận được tin Thạc hy sinh và cả tập Thơ-Thơ của Xuân Diệu được xuất bản trong vùng địch kiểm soát.
Hiện tại sức khỏe của Thìn không được tốt, hy vọng khi sức khỏe của Thìn tốt lên chúng ta lại có thêm 1 thành viên của QSVN.
CON MA XÓ VÙNG CAO (1)
Nguyễn Như Thìn
Ở Yên Sở được vài ngày, đám tân binh K15 toán cơ Đại học Tổng hợp chúng tôi được biên chế thành mấy tiểu đội. Tiểu đội tôi gồm Lăng, Thạc, Đinh Minh và mấy bạn khác. Lăng, Thạc chẳng nói làm gì, là những bạn ưa hoạt động ai cũng biết. Riêng Đinh Minh, thú thực tôi không rành lắm. Cũng một phần vì tôi ở ngoại trú. Đinh Minh người thấp nhỏ, da ngăm đen, nổi bật trên khuôn mặt hơi khắc khổ là cái mũi khoằm, đôi mắt sâu nhưng đặc biệt sáng. Giọng nói của hắn thì rất lạ không phân biệt được vùng miền. Chẳng hiểu sao, trông hắn lúc nào cũng khó đăm đăm, có lẽ vì thế sau này mang biệt danh "Minh già".
Vào một đêm trung tuần tháng 9 năm 71, chúng tôi được lệnh hành quân, rồi lên tầu, đến sáng thì có mặt ở Bắc Giang. Là nghe thằng Lăng nói thế, chứ tôi đã bao giờ lên Bắc Giang đâu. Chỗ này Lăng rành lắm, quê nó mà. Suốt một đêm chập chờn, tưởng được nghỉ ngơi, ai dè tiếp tục hành quân, lần này thì phương tiện bằng "căng hải". Cũng vui, phong cảnh đẹp, là dân thành phố mấy khi được ngắm cảnh núi rừng, cái gì cũng lạ và đẹp. Hai bên đường sim mua mọc lút đầu. Thỉnh thoảng ngắt một quả sim cuối mùa bỏ vào miệng cũng thú vị. Mà gọi là đường chứ thực ra toàn lối mòn trâu kéo gỗ. Lên dốc, lại xuống dốc, một tiếng sau chẳng còn thấy vui đâu, hết chịu nổi. Tháng chín gì mà nắng thế, đứa nào đứa ấy há hốc mồm. Không biết bao giờ mới tới nơi. Mà sao, chẳng có một đoạn bằng phẳng nào cả. Thật khốn khổ cho hai cái đầu gối. Cứ muốn long ra. Mồ hôi nhễ nhại.
Cứ lết bết như thế mãi gần trưa, chúng tôi cũng tới được một bản heo hút chừng hơn chục nóc nhà. Tôi, Đinh Minh và mấy bạn khác được phân vào nghỉ trong một ngôi nhà tuềnh toàng bốn bề phên che. Trong nhà có độc một cái giường cũ kỹ, kiểu dáng kỳ lạ, có lẽ gia chủ tự chế tạo. Đón chúng tôi là một người đàn ông chạc ba mươi, mặc bộ quần áo chàm đặc trưng của người miền núi, nói tiếng Kinh lơ lớ. Sau lưng ông ta là ba cặp mắt thao láo, trên ba khuôn mặt lem nhem, có lẽ chẳng rửa ráy bao giờ. Ba đứa trẻ, thằng lớn chừng lên mười. Hai đứa sau, một trai, một gái. Chẳng biết chúng mấy tuổi rất khó đoán. Cái mặt thì cứng nhưng người loắt choắt, ăn mặc mát mẻ. Nếu ghép trang phục của cả hai đứa lại, may ra được một bộ gần đúng nghĩa là quần áo. Sau mấy phút ban đầu sợ sệt, chúng bạo dần lên khi chúng tôi vẫy lại gần. Chúng sờ vào chiếc mũ cứng có ngôi sao lấp lánh lấy làm thích thú thú lắm. Với vẻ mặt nghiêm khắc, lại gần lũ trẻ ông chủ tuôn ra một tràng tiếng dân tộc rất lạ tai. Chúng sợ hãi nép vào xó nhà. Tôi đang ngơ ngác chẳng hiểu chuyện gì thì Đinh Minh nói nhỏ: Ông chủ cấm bọn trẻ không được sờ vào đồ đạc của bộ đội, đứa nào không nghe ông đánh đòn. Vô cùng ngạc nhiên vì Đinh Minh lại có thể hiểu được thứ ngôn ngữ hiếm hoi ấy. Tôi hỏi lại:
- Sao ông biết ?
Bằng một giọng từ tốn Minh nói:
- Tôi sinh ra ở Thái Lan, gia đình tôi là Việt kiều, chủ nhà dân tộc gì tôi không biết, nhưng tôi có thể hiểu gần hết ông nói gì.
Ồ thì ra thế. Tôi nói với ông chủ, cứ để chúng chơi tự nhiên, không có gì phải ngại.
Từ sáng đến giờ chẳng được cái gì vào bụng, đói cồn cào, chúng tôi vội vàng bắc bếp nấu cơm. Ngồi gõ bát chờ cơm chín sao mà sốt ruột thế. Có lẽ vùng cao không khí loãng, nước lâu sôi. Chốc chốc tôi lại mở vung ra xem, thành thử, đã lâu càng thêm lâu. Cái mũi thằng Minh già càng khoằm xuống, chắc hắn bực với tôi lắm, nhưng không nói gì, tính nó thế. Cuối cùng thì cũng được ăn. Vừa xới cơm ra, chưa kịp đụng đũa thì lũ trẻ xúm lại. Ô tình huống thật bất ngờ. Bỗng một tràng liên thanh tiếng dân tộc vang lên, ông chủ đứng dậy mặt dữ dằn. Bọn trẻ ngơ ngác, đứa nhỏ mếu máo nói gì đó. Có vẻ dịu giọng hơn, ông nói thêm mấy câu ngắt nhịp như điểm xạ.
- Họ nói gì thế Minh ? Tôi hỏi
Minh dịch lại đại khái: cấm lũ trẻ không được lại chỗ chúng tôi ăn. Con bé kêu đói, ông chủ dỗ, nhà hết gạo từ mấy hôm nay, chờ mẹ chúng xuống ông bà vay, ngày mai sẽ về sẽ có cơm ăn...Chúng tôi xới vội cho mỗi đứa lưng bát kèm chút thức ăn. Mắt chúng sáng lên vồ lấy ăn ngấu nghiến. Ông chủ bực bội bỏ xuống dưới nhà.
Người ta nói miền sơn cước chiều xuống rất mau. Mà đúng thật, vừa cơm trưa xong nghỉ một chút mặt trời đã len lén trốn sau dãy núi chếch hông nhà. Không gian thật tĩnh mịch, chẳng thấy bóng dáng bố con ông chủ đâu nữa.
Sáng hôm sau chúng tôi lại được lệnh hành quân ngược trở ra. Ái ngại cho hoàn cảnh gia chủ, chúng tôi bớt mỗi đứa một ít gạo. Gom được một túi nhỏ, "Minh già" đưa cho ông chủ và nói: "Đừng chờ mẹ chúng ở ông bà về nữa, hãy nấu cho bọn trẻ ăn, chúng đói lắm rồi."
Rất đỗi ngạc nhiên, người đàn ông lắp bắp: "Bộ đội...mày tốt quá...giỏi quá, như ma xó nhà tao, cái gì cũng biết'...
Tôi thoáng thấy đôi mắt của con "ma xó" Minh già hơi long lanh.
Sau ba tháng huấn luyện tân binh, hai tiểu đoàn sinh viên xẻ đàn tan nghé, chia nhau về các binh chủng. Ma xui, quỷ khiến, thế nào mà tôi và "Minh già" lại về cùng tiểu đội 12 ly 7, đại đội 12 trợ chiến, thuộc tiểu đoàn 3, trung đoàn 101 sư 325.
(còn tiếp)