THÁNG BA TÂY NGUYÊN (12)
(tiếp theo)Sáng sớm hôm sau chúng tôi rời Đà Nẵng để lên đường ra Bắc. Thành phố được quy hoạch một cách khoa học, đường phố rộng rãi không bị vấn nạt kẹt xe như ở Hà Nội và TP Hò Chí Minh. Bên bờ biển vết tích của trận bão năm ngoái vẫn còn đó: một con tầu biển bị đánh giạt lên bờ vẫn nằm chềnh ềnh ở đó...
Năm 1858, cuộc xâm lược của Pháp tại Việt Nam khởi đầu bằng cuộc tấn công vào Đà Nẵng. Tháng 3/1965 các đơn vị đầu tiên của thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng mở đầu cho cái gọi là Chiến lược chiến tranh cục bộ - một giai đoạn mới của chiến tranh Việt Nam - và thiết lập ở đây một căn cứ quân sự hỗn hợp lớn.
Suốt dọc bờ biển từ quận Ngũ Hành Sơn đến Liên Chiểu nhìn ra vịnh Đà Nẵng là những bãi tắm tuyệt đẹp. Con đường chạy ven biển đang được nâng cấp cùng với hệ thống kè hoàn chỉnh sẽ thu hút du khách đến với Đà Nẵng. Ngoài những bãi tắm sạch, đẹp trải dài thì cảng Đà Nẵng là một trong những cảng ăn khách nhất hiện nay ở Việt Nam.
35 năm trước, sau khi Trung đoàn 101 cắm cờ lên Phú Văn Lâu và cùng các đơn vị bạn giải phóng cố đô Huế ngày 25/3/1975. 5 giờ 30 phút ngày 28/3, pháo binh ta mở đầu cuộc tiến công giải phóng Đà Nẵng bằng đòn tập kích hỏa lực mãnh liệt vào các vị trí quân sự địch trong thành phố và bán đảo Sơn Trà.
Đà Nẵng là thành phố lớn thứ hai ở miền Nam, một căn cứ quân sự liên hợp lớn, được Mỹ và Quân đội Sài Gòn xây dựng, củng cố ngày càng kiên cố trong quá trình tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Lực lượng ở thành phố trước khi ta mở cuộc tiến công có gần 10 vạn tên, nhiều xe tăng, máy bay, pháo lớn.
Những ngày cuối tháng 3, TP Đà Nẵng ngày càng hỗn độn và hoảng loạn. Mỹ bắt đầu di tản gia đình nhân viên lãnh sự quán và cả những người Mỹ làm việc theo hợp đồng...
Từ trung tuần tháng 3/1975, tướng Mỹ Gavin và Bộ Tổng tham mưu QĐSG ra sức đốc thúc binh lính củng cố hầm hào, công sự, quyết tâm cố thủ Đà Nẵng, nhằm ngăn chặn cuộc tiến công của ta, kéo dài thêm thời gian để điều chỉnh thế bố trí lực lượng và hệ thống phòng thủ từ Cam Ranh - Phan Rang trở vào.
Sau khi quân ta giải phóng Trị Thiên - Huế ở phía bắc, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Chu Lai ở phía nam, thành phố Đà Nẵng hoàn toàn bị cô lập. Mặc cho Nguyễn Văn Thiệu kêu gọi:
“Tử thủ Đà Nẵng bằng mọi giá” và mặc dù vẫn chủ quan cho rằng, nhanh nhất cũng phải một tháng nữa ta mới điều động được lực lượng và phương tiện tiến công Đà Nẵng, nhiều sĩ quan, nhân viên chính quyền bắt đầu thu vén của cải, bỏ chạy vào Sài Gòn.
Ngày 28/3, Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1 và Quân khu 1 QĐSG, được Mỹ đánh giá là tướng giỏi nhất trong hàng ngũ tư lệnh cấp quân đoàn của QĐSG, bỏ sở chỉ huy chạy ra một tàu Mỹ ở ngoài biển.
Ngày 29/3/1975, từ hướng Bắc, Sư đoàn 325 (thiếu trung đoàn 95 - lúc đó đang ở Ban Mê Thuột) được tăng cường 1 tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn tăng (thuộc Quân đoàn 2), tiến công dọc theo quốc tộ 1 đánh thẳng vào Đà Nẵng sau khi chiếm được cầu Lăng Cô, quân ta đánh lui bốn đợt phản kích của địch, bảo vệ cầu, giữ vững đường cơ động cho binh đoàn thọc sâu. Hướng tây bắc, tiểu đoàn xe tăng dẫn đầu vấp phải bãi mìn chống tăng của địch. Trên các hướng tây nam và đông nam, các binh đoàn chủ lực của ta có xe tăng dẫn đầu ào ạt tiến vào trung tâm thành phố đều phải dùng sức mạnh đập tan sự chống cự của địch để tiến đến mục tiêu.
Trung đoàn 101 của tôi cùng với Trung đoàn 18 trong đội hình của Sư đoàn 325, Quân đoàn 2 sau khi đánh chiếm cầu Lăng Cô tiến lên đèo Hải Vân, đập tan các chốt phòng ngự của 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến ngụy, chiếm kho xăng Liên Chiểu và dọc theo đường 1 dẫn đầu đại quân tiến đánh trung tâm thành phố. Được tự vệ thành hướng dẫn, Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 18 đã nhanh chóng tiến ra bán đảo Sơn Trà, đánh tan lực lượng phòng vệ của địch tại đây và cắm cờ Tổ quốc lên căn cứ chỉ huy địch vào lúc 11 giờ ngày 29/3. Cuộc tiến công Đà Nẵng của các binh đoàn chủ lực, kết hợp với các lực lượng vũ trang địa phương và quần chúng nổi dậy đúng lúc, kịp thời, đã kết thúc sau 33 giờ chiến đấu. Toàn bộ quân địch ở Đà Nẵng bị tiêu diệt và tan rã, tổng cộng khoảng 120 nghìn tên. Ta thu và phá hủy toàn bộ kho tàng, cơ sở vật chất kỹ thuật của địch (109 khẩu pháo, 138 xe tăng, xe bọc thép, 15 máy bay, 47 tàu chiến). Căn cứ liên hiệp quân sự lớn thứ hai ở miền Nam bị ta đánh chiếm. Năm tỉnh liền nhau là Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi, trong đó có hai thành phố lớn là Huế và Đà Nẵng đã được giải phóng.
Chúng tôi tới hầm đèo Hải Vân. Hầm Hải Vân là hầm đường bộ dài nhất Đông Nam Á, xuyên qua đèo Hải Vân, nối liền tỉnh Thừa Thiên-Huế với thành phố Đà Nẵng ở miền Trung Việt Nam. Được khánh thành vào năm 2005. Từ khi có đường hầm Hải Vân thay vì phải vượt 22 km đèo hiểm trở chúng ta chỉ cần chưa đến 10 phút đã qua khỏi khu vực đèo. Đèo Hải Vân là một mạch núi trong dãy Trường Sơn, là ranh giới giữa Thừa Thiên-Huế ở phía Bắc và thành phố Đà Nẵng ở phía Nam. Đây là con đèo dài nhất trên tuyến QL1A và có mức độ hiểm trở vào loại nhất trong các ngọn đèo ở Việt Nam. Trên đỉnh cao nhất của đèo, với độ cao 496 m so với mực nước biển có cửa ải tên
Hải Vân quan xây từ thời Minh Mạng và được chính nhà vua cho treo biển
Thiên hạ đệ nhất hùng quan. Tại đây, có bãi đất rất rộng để dừng xe nghỉ chân, từ chỗ dừng chân này có thể ngắm biển và chiêm ngưỡng sự hùng vĩ của cả con đèo.
Qua khỏi hầm Hải Vân một khung cảnh ngoạn mục mở ra trước mắt chúng tôi dưới ánh nắng chói chang là mầu xanh ngọc bích của biển Lăng Cô với bãi cát trắng tuyệt mỹ chạy dài ven biển cộng với mầu xanh mướt mắt của rừng cây dưới chân Hải Vân.
Ngày hôm nay, huyện Phú Lộc với những cái tên Bạch Mã, Lăng Cô, Chân Mây... quyến rũ biết bao du khách nhưng 35 năm về trước chính trên mảnh đất này đã diễn ra những trận chiến ác liệt mở đầu Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng.
Đây chính là khu vực sư đoàn 325 tập kết là một loạt cao điểm nằm ở phía Tây đường 1 thuộc địa bàn của huyện Phú Lộc ở phía Tây - Nam Huế. Tại đây các đơn vị được lệnh hỗ trợ cho pháo binh và phòng không lên các điểm cao để khống chế địch. Cả trăm con người xúm vào kéo khẩu pháo nòng dài 85 li hay cao-xạ 37 li 2 nòng trong lúc địch rất gần, trên trời vè vè lũ máy máy bay trinh sát chỉ điểm, chỉ sểnh một chút là ăn đủ với chúng. Gần địch đến nỗi kéo pháo mà không được phép hò, tất cả đều nhẩm trong mồm và nhìn theo cái khăn mặt trắng của người khẩu đội trưởng pháo binh làm hiệu lệnh. Rồi thì các khẩu pháo đã vào vị trí. Tại đây pháo 85 thậm chí cả cao-xạ 37 đều có thể bắn theo góc tà âm vào căn cứ của địch. Kéo xong pháo, trung đoàn chúng tôi cùng với trung đoàn 18 có nhiệm vụ tiến đánh một loạt cao điểm trong dãy Kim Sắc nằm ở phía Tây đường 1. Địch chống trả quyết liệt vì biết rằng mất những cao điểm thuộc dãy Kim Sắc có nghĩa là Huế sẽ bị cô lập hoàn toàn với Đà Nẵng. Tại đây, chúng tôi đụng độ với các sắc lính dù và biệt động quân - những người quen cũ tại Quảng Trị 1972. Địch liên tiếp dùng máy bay oanh kích hết đợt này đến đợt khác, các trận địa pháo từ các căn cứ tại Huế và khu vực xung quanh bắn phá dữ dội vào các mũi tiến công của quân ta. Nhiều mũi tiến công của ta bị chựng lại vì tổn thất. Pháo binh của mặt trận, của quân đoàn và của các đơn vị đã hỗ trợ đắc lực cho các đơn vị tiến công. Mặc dù hỏa lực phi pháo của địch rất mạnh và có hiệu quả nhưng so với trận chiến 1972 chúng đã giảm đi đáng kể vì thiếu sự hỗ trợ của B52 và các máy bay chiến thuật của không quân Mỹ, nhất là sự yểm trợ tối đa của pháo hạng nặng từ các chiến hạm của hải quân Mỹ.
Tin địch mất Ban Mê Thuột và bỏ Tây Nguyên truyền đến làm nức lòng các đơn vị trong trung đoàn. Rồi được biết địch bỏ Quảng Trị, các đơn vị bộ đội địa phương và du kích Quảng Trị đã vượt sông Thạch Hãn truy đuổi địch tới tận sông Mỹ Chánh. Quảng Trị hoàn toàn giải phóng ngày 19/3/1975.
Rồi chúng tôi được lệnh bỏ qua các cao điểm ở phía Tây khẩn trương tiến xuống cắt đường 1 từ đèo Phú Gia vào tới Phú Lộc không cho địch rút về Đà Nẵng. Huế hoàn toàn bị bao vây cô lập. 19 giờ ngày 20/3, tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân khu 1 và Quân đoàn 1, nhận được lệnh của Nguyễn Văn Thiệu rút quân khỏi thành phố Huế, tập trung về tử thủ Đà Nẵng. Được lệnh rút lui, Bộ tư lệnh tiền phương của quân đoàn 1 QĐSG lập tức bỏ Huế chạy về Đà Nẵng bằng đường không. Mất chỉ huy, quân ngụy ở Huế rối loạn. Một bộ phận lực lượng chạy về Đà Nẵng phải quay trở lại, do đường số 1 bị Quân giải phóng cắt đứt. Lực lượng địch còn đông (khoảng 5 vạn tên, trong đó, có gần 3 vạn chủ lực) nhưng không còn ý chí chiến đấu. Mọi ngả đường rút về Đà Nẵng không còn nữa, chỉ còn đường rút ra biển qua cửa Thuận An và Tư Hiền nhưng cũng bị pháo binh ta bắn phá mãnh liệt, tầu chiến địch nhiều chiếc bị bắn chìm, những chiếc còn lại hoảng loạn bỏ mặc đám tàn binh trên bờ tháo chạy ra biển.
Các mũi tiến công của Trung đoàn 101 từ Phú Lộc tiến đánh sân bay Phú Bài ở phía Nam Huế và bằng mọi phương tiện sẵn có như xe cộ thu được của địch cũng như các phương tiện của nhân dân thậm chí chạy bộ đã thọc sâu vào nội thành Huế. 13 giờ ngày 25/3/1975 mũi trinh sát của Tiểu đoàn 2 đã giương cao ngọn cờ giải phóng trên đỉnh Phú Văn Lâu. Lá cờ giải phóng của Trung đoàn 101 Trần Cao Vân đã ngạo nghễ tung bay trên bầu trời Huế. Sau 30 năm ra đi từ Cố đô Huế, từ mùa thu cách mạng năm ấy trải qua bao gian khổ hy sinh, biết bao thế hệ chiến sĩ Trung đoàn đã ngã xuống trên khắp chiến trường 3 nước Đông Dương để hôm nay Trung đoàn đã trở về với mảnh đất đã sinh ra. Chúng ta đã trả được món nợ của 81 ngày đêm Thành Cổ Quảng Trị bằng cái giá đâu phải là nhỏ.
Ngậm ngùi nhớ tới các đồng đội c3 của tôi đã nằm lại tại chân cao điểm 303 dưới chân dãy Bạch Mã. Cả đại đội tập kết ở khe cạn dưới chân cao điểm thì bị pháo địch dội trúng. Tổn thất lớn quá, cả ban chỉ huy đại đội hy sinh trong đó có anh Khảm đại đội trưởng; anh Hùng chính trị viên trưởng; Dư nhà ở ngõ Tiến Bộ, Khâm Thiên và rất nhiều người khác đã chia sẻ với tôi trong thời gian tại Quảng Trị. Về sau được biết một tốp thám báo địch cải trang bộ đội ta đã phát hiện được khu vực tập kết của C3 và chỉ điểm cho pháo binh bắn phá vào khe cạn đó.
Lần này chúng tôi không dừng ở Huế mà tiếp tục hành trình ra Bắc. Qua các huyện Hương Trà, Phong Điền của Thừa Thiên chúng tôi qua sông Mỹ Chánh để vào đất Hải Lăng của Quảng Trị. Con đường về thị xã Quảng Trị qua những xóm làng êm đềm núp mình dưới hàng dương với những cồn cát trắng đến nhức mắt. Chiến tranh đã lùi xa hơn 35 năm nhưng cảnh vật nơi đây hầu như không thay đổi. Biết bao dự án được ấp ủ nhưng đến bao giờ cuộc sống mới được khởi sắc đây !!!
(còn tiếp)