NGƯỢC DÒNG KÝ ỨC
(tiếp theo)Chúng tôi lại về Lệ Xuyên. C bộ và b2, b3 đóng quân trong xóm, còn b1 của tôi ra chốt ở 1 gò cát, trên bản đồ là điểm cao 2,5. Vị trí này cách thôn Lệ Xuyên chừng vài trăm mét. Tại đây bao quát 1 vùng khá rộng: phía đông là tuyến chốt Thanh Hội cách 1 trảng cát rộng chừng 2 cây số, phía đông-nam là tuyến Long Quang rồi Vân Hòa, An Lộng. Nếu không có những hàng cờ của 2 bên cắm làm ranh giới thì chỉ thấy mênh mông một mầu cát trắng. Nhà ở của các tiểu đội được làm như những lô-cốt bằng ghi sân bay và các bao cát, có đường hào dẫn ra các ụ chiến đấu. Ngày nào cũng phải vét cát trong các công sự nếu không chỉ 1 ngày là cát lấp đầy. Tháng 11 là cao điểm của mùa mưa Quảng Trị, nó cứ rả rich suốt ngày, buồn đến thối ruột. Năm đó ở Quảng Trị lại rét sớm, cộng với trời mưa, nước sông tràn vào đồng, từ a nọ đến a kia là lội nước, có việc phải vào trong làng là lội nước đến bụng.
Gò cát nơi chúng tôi ở mọc lúp xúp những cây bụi xen lẫn những bụi mẫu đơn được trồng ở các ngôi mộ của dân. Có một loài hoa trắng muốt tinh khiết, cánh mỏng manh như cách bướm trên đậu đám lá xanh rì, chúng tôi thường hái về cắm trong nhà cho vui mắt. Cũng có những bụi mẫu đơn với những tia đỏ le lói ở những ngôi mộ. Ở đây rất nhiều hố bom to, cái nào cũng đầy ăm ắp nước. Tôi đã 1 lần gác đêm trong 1 đêm mưa không thể nhìn thấy gì hết xung quanh đen kịt và bị tụt xuống 1 hố bom đầy nước. Nước hố bom đến cổ, tìm mọi cách để leo lên mà không thể được vì thành hố bom rất dốc, cát lại trôi. Cứ lụi hụi leo lên rồi lại bị tụt xuống, mắt kính nhòe nhoẹt vì nước mưa không thể nhìn thấy gì và đánh liều phải nổ 3 phát AK báo động. Cả tiểu đội bị đánh thức xách súng chạy ra công sự, không thấy tôi đâu mà các chốt gác của 2 a kia yên ắng không có gì mọi người đổ đi tìm thấy tôi đang lóp ngóp dưới hố bom và kéo được tôi lên.
Sau lần đó tôi được chuyên gác ca cuối cùng và câu chuyện đó đã được báo cáo lên trên, ngay tháng đó nhu yếu phẩm của tôi có thêm 1 đôi pin đèn. Ông Khảm c trưởng nói với tôi:
thủ trưởng Ngoan quyết định hàng tháng cho cậu thêm 1 đôi pin đèn. Tôi đã gửi gắm lòng mình trong bài viết
Người cha già của Trung đoàn để nhớ tới tấm lòng yêu thương nhân hậu của trung đoàn trưởng Bùi Đức Ngoan.
Quang ấm giờ vể làm a trưởng a3 của tôi, cái thằng này nghịch ngầm lắm. Một lần vào buổi trưa đang ngủ chúng tôi chợt nghe tiếng
hú…hụ… rất lạ, bật dậy lao ra cửa hầm thấy thằng Quang tay cầm đôi pin của tôi mặt thuỗn ra. Hố bom trước nhà sôi
ùng..ục và phát ra tiếng hú, từ dưới hố bom 1 quả H12 không có đầu chỉ còn phần thân đang lách lên khỏi hố bom. Xung quanh gò cát chúng tôi đóng quân có một số quả H12 không bắn được do gẫy cánh đuôi hoặc không có đầu mà đơn vị pháo vứt lại, thằng Quang dùng dây điện thoại đấu vào dây điểm hỏa của quả đạn và lấy pin kích hoạt. Quả đạn cũng may không có đầu nên không bay lên được nhưng nó bò như một con rắn rồi rúc xuống hố bom đầy nước rồi lại trườn lên cho tới khi tới của hầm chúng tôi thì cháy hết liều phóng và dừng lại. Thật là hú vía nếu như nó rúc vào hầm chúng tôi thì không biết điều gì sẽ xảy ra. Mấy chục năm sau gặp lại nó lại nhắc câu chuyện không thể nào quên này.
Môt lần tôi có việc phải vào c bộ, băng qua bãi cát ngập nước để vào làng, dìa làng có 1 chiếc tăng đang chốt ở đây, một cậu lính tăng đang bổ củi. Nhìn nhau thấy quen quá, tôi hỏi:
- Ông hình như nhà ở gần Ga Hàng Cỏ thì phải ?
- Tôi ở 38 Phan Bội Châu.
- Tôi ở bên Tức Mạc, gần nhà ông chả thế trông ông quen quá !
Đó là Bình béo, pháo 2 của chiếc T59 số 988. Bình là SV ĐH nông nghiệp đi lính tháng 12/1971 vào chiến trường cùng thời gian với tôi. Chính là tốp lính tăng chúng tôi đã gặp ở Quảng Bình. Sau trận Cửa Việt c tăng của Bình mới sang bờ Nam để chốt giữ cùng các đơn vị bb của chúng tôi. Thế đấy
mọi nẻo đường đều dẫn tới Rôma, và Quảng Trị chính là Rôma của lứa trai chúng tôi thời ấy.
(còn tiếp)