NGƯỢC DÒNG KÝ ỨC
(tiếp theo)Trong số những người trở lại đơn vị có Lê Thanh Sơn ở c8/d5/e95 quê Hải Phòng nguyên là SV K15 Toán ĐH bách khoa; Chung d5/e95 quê Thái Nguyên là SV ĐH kinh tế kế hoạch. Sơn sau này là 4//, cục phó cục nhà trường và là Chủ tịch Hội Cựu SV-CS Thành cổ Quảng Trị và Chung hiện là Cục phó Cục dự trữ quốc gia. Tôi cũng gặp Đồng cùng c3 với tôi, cậu ta quê Thái Nguyên vốn là học sinh trung cấp lâm nghiệp ở Quảng Ninh bị thương ra trước tôi. Sau này Đồng thi vào ĐHBK TP Hồ Chí Minh và lập nghiệp tại đây. Còn phải kể đến Nết ở c20/e101 cùng huấn luyện ở d60/f304 với tôi, Đăng c4/d1 quê ở Thúy Lĩnh, Thanh Trì...
Trước khi đi chúng tôi được cấp phát bổ sung tăng, võng, xanh-tuya-rông và bình tông nước, đây là những trang bị chiến đấu được trang bị trước khi đi B.
Chúng tôi rời xóm Đồng vào 1 buổi sáng nắng ấm, bà con trong xóm bịn rịn chia tay chúng tôi. Nhớ mãi tình cảm của người dân xóm nghèo giành cho chúng tôi và vùng quê này chính là xuất sứ của bài ca
“Tấm áo mẹ vá năm xưa” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý.
2 xe ca chở chúng tôi ra đường 1 và xuôi về Hà Nội, đã nói trước với trưởng đoàn nên khi đến trước Ga Hàng Cỏ tôi xuống xe và chạy nhanh về nhà. Thật không ngờ hôm nay có cả bố mẹ tôi và cả bà ngoại nữa. Bà tôi năm nay đã ngoài 80 nhưng vẫn đi bộ từ Nguyễn Công Trứ đến thăm con cháu.
Bà ơi ! Hãy đợi cháu về nhé, chắc ngày đó chẳng còn lâu nữa đâu ! Ở trạm giao liên T1 tại xã Liên Phương, Thường Tín tôi lại được bố trí vào ở ngôi nhà cổ mà hồi tháng 7 năm ngoái đi B đã ở và cũng là ngôi nhà anh Minh ở hồi đầu năm để đi B. Lần này chúng tôi đi bằng tầu hỏa vào Vinh, đoàn chúng tôi cùng đi với 1 tiểu đoàn quân tăng cường của Hà Bắc, họ nhập ngũ tháng 12/1972 và huấn luyện ở Mai Sưu. Trên đường 1 cùng trực chỉ hướng Nam với chúng tôi là những đoàn xe tải chở hàng, có cả những xe chở quân. Quân trên tầu, quân đi xe mỗi khi đường sắt cà đường bộ chạy sát nhau đều í ới gọi nhau hỏi thăm quê quán và đích đến của nhau: họ
B dài, chúng tôi
B ngắn.
Chúng tôi nghỉ tại trạm giao liên tại 1 xã thuộc huyện Hưng Nguyên, gần TP Vinh để hôm sau lại đi tiếp bằng xe tải quân sự. Vinh đang hồi sinh trên đóng tro tàn của chiến tranh, đâu cũng thấy tranh, tre, nứa, lá để dựng lại nhà cửa trên những nền nhà đã bị bom Mỹ san phẳng.
Qua cầu phao Bến Thủy, chúng tôi vào đất Hà Tĩnh. Cuộc sống thanh bình đang dần dần trở lại về với mảnh đất miền Trung nghèo khó nhưng rất nên thơ này. Chiều tà chúng tôi dừng ở trạm Kỳ Anh để sáng mai vượt đèo Ngang.
Cảnh sắc đèo Ngang là núi, là rừng vươn mình ra phía Đông như muốn níu kéo khoảng xanh vô tận của biển cả vào lòng mình. Thật là tuyệt đẹp. Nắng xuân trải dài hòa quyện mầu xanh của núi rừng với mầu thạch bích của đại dương khiến cho lòng mình xốn xang trước phong cảnh sơn thủy hữu tình này. Đây là lần đầu tiên tôi được dong duổi qua dải đất miền trung dọc theo đường 1 giữa ban ngày như thế này. Phải nói rằng sau đó mấy chục năm tôi qua đây rất nhiều nhưng cảm giác không được như lần đầu tiên này có lẽ đó là cảm giác tuyệt vời nhất mà sau này chỉ có núi đâu còn những vạt rừng hoang sơ như ngày xưa nữa…
Qua đèo Ngang là đến đất Quảng Trạch, Quảng Bình là những đồi cát trắng nham nhở những hố bom, hố pháo với những vạt phi lao tơi tả bởi bom đạn kẻ thù. Chúng tôi nghỉ tại trạm Ba Đồn ở bắc sông Gianh trong 1 xóm nhỏ không xa đường 1. Xóm nhỏ này chắc dân mới trở về dựng những ngôi nhà tạm trên những vạt cát trắng, nhà cửa tuềnh toàng, mái lợp lá gồi 4 vách nhà cũng bằng lá gồi được dựng lên để đón gió.
Hàng trăm xe xếp hàng chờ qua phà Gianh, nhưng xe chở quân được ưu tiên qua trước. Sang đến bờ Nam chúng tôi gặp 1 đoàn xe ca treo cờ giải phóng và băng khẩu hiệu đi ngược lại đó là đoàn xe chở những tù binh của ta được trao trả ở sông Thạch Hãn.
Những người chiến thắng trở về này gầy gò, xanh xao trong bộ quần áo mới vẫy tay chào chúng tôi, nhìn họ tôi chợt nhớ tới trận đánh Chợ Sãi hôm đó: liệu có ai trong số anh em cùng đơn vị bị địch bắt không, nếu có liệu họ có mặt trong đợt trao trả lần này không ?
(còn tiếp)