NGƯỢC DONG KÝ ỨC
(tiếp theo)Chiều tối chúng tôi lại tiếp tục lên xe dong duổi ra Bắc. Hai bên đường người xe đi lại khá đông. Hàng quán 2 bên đường chong đèn đón khách, một vài cửa hàng phố thị sáng rực ánh đèn măng sông. Không khí thật thanh bình, chẳng ai có thể ngờ được cách đấy không xa khi bước sang đất Nghệ lại là bom bom đạn mù trời.
Chúng tôi tới trạm CT14A ở Gia Khánh (?). Gần chục anh em ngủ tại một gia đình có ngôi nhà ngói khá rộng rãi. Tâm trạng ngày mai về đến nhà khiến cả bọn náo nức chuyện trò cả đêm, hút thuốc vặt lại thêm trời về đêm đã bắt đầu lạnh nhiều nên không ngủ được. Đoàn chúng tôi sau khi rời CT12A ra đến Thanh Hóa lại ít di vì số anh em Thanh Hóa về Viện 111 hoặc về đoàn an dưỡng của tỉnh. Ở trạm này người ta cũng phân loại luôn: ai về Hà Nội, Hà Tây, Vính Phú, Hòa Bình, Bắc Thái…sẽ đi tiếp về CT14B ở Thường Tín, còn các tỉnh như Thái Bình, Hải Phòng, Hải Dương, Nam Hà và Ninh Bình …sẽ ở lại để về các địa phương. Cùng đi chúng tôi có 2 xe TB nặng nhưng hầu hết tới Thanh Hóa họ được chuyển về Viện 111. Chúng tôi được thông báo sáng hôm sau sẽ lê đường về CT14B (Thường Tín)
Từ CT12A chúng tôi ra đường 1, không có gì để nói hết được niềm sung sướng khi về gần tới Hà Nội giữa ban ngày. Trời của ta, đất của ta mà bao nhiêu ngày tháng qua chúng ta đã phải lấy đêm làm ngày. Cảm giác này có lẽ chỉ có ở những đứa con từ miền đất lửa phương Nam vượt Trường Sơn để trở về Đất Mẹ.
Qua Phủ Lý tan hoang, thấp thoáng những bóng người đang bới tìm trong đống gạch vụn để tìm kiếm những gì còn sót lại của ngôi nhà thân yêu của mình…
CT12B đóng ở thôn Nhị Khê. Chúng tôi vào nghỉ tại 1 ngôi nhà cổ khá bề thế với đủ hoành phi câu đối, sập gụ tủ chè...chứng tỏ gốc gác gia thế của chủ nhà. Lúc này trời còn sớm, tôi rủ Hùng về nhà sáng mai vào sớm nhưng Hùng không về nên tôi về cùng mấy cậu nữa ở nhà bên cạnh. Từ Nhị Khê ra đường 1 rất gần, đây chính là Quán Gánh. Lên xe bus về Hà Nội trong trạng thái lâng lâng khó tả. Tôi cảm giác tất cả mọi người trên xe đều nhìn mấy thằng chúng tôi. Có thể vào thời điểm này những chàng trai khoác trên mình bộ quần áo Tô Châu, thằng đội mũ cối, thằng đội mũ tai bèo hình như đều mang dáng dấp của người thân của họ. Một bà cụ chừng tuổi của Mẹ tôi hỏi nhỏ:
-
Các chú ở chiến trường nào ra vậy ?
- Cháu ở Quảng Trị.
- Trời đất ạ ! Ở Quảng Trị mà các chú cũng về được ư ? Tôi nghe nói bộ đội ta chết nhiều ở Quảng Trị lắm phải không chú ?
- …Cũng có nhiều người như cháu chỉ bị thương thôi.
- Cháu tôi đi đầu năm mà đến nay cũng chưa thấy tin tức gì ! Xe bus dừng ở hồ Thuyền Quang, tôi bước xuống xe mà cảm thấy chếnh choáng phải vịn vào cây si trước cổng đảo Thanh Niên.
Ôi đất Mẹ yêu dấu con đã trở về , nửa năm trước cũng tại nơi đây con đã rời xa người mà không bao giờ nghĩ có ngày hôm nay… Tôi vừa đi vừa chạy, quãng đường từ hồ Thuyền Quang về nhà đâu có xa thế mà sao lâu thế ! Con đường Trần Bình Trọng dài hun hút tưởng như vô tận, rẽ ra Trần Hưng Đạo, kia rồi chiếc đồng hồ trên nóc nhà ga với những chữ số La-mã ngay ngắn cuốn hút tôi suốt từ thời còn đi học, một đoàn tầu điện cũng sơn mầu ngụy trang loang lổ đang lenh keng chuyển bánh về Kim Liên, rồi Nhà hát Nhân dân - nơi gắn bó với tôi những trò chơi tinh nghịch thời nhỏ: đánh trận giả, mò mẫm thám hiểm những khu hầm đầy bí ẩn của nhà hát, rồi những buổi tập nghi thức đội,còn phải kể đến những đêm biểu diễn ở nhà hát mà chúng tôi không được vào vì không có vé, thế là trèo tường vòng ra đằng sau chui xuống sàn gỗ của khán đài rồi chui lên ở 1 chỗ nào đó…Qua phố Yết Kiêu, đến trước cổng nhà 95 tôi gặp Bà Tú - mẹ của Thiệp bạn thân tôi - bà kêu lên:
“ Mày về rồi ư ! Ông ơi thằng Tường nó về rồi đây này…Mày về nhà ngay đi cho bà ấy mừng, để tao bảo thằng Thiệp tối sang chơi…”.Ngõ Tức Mạc của tôi vẫn như trước khi tôi đi, đầu ngõ vẫn tổ phục vụ bán nước sôi và mấy hàng bán nước chè chén. Dẫy hầm phòng không chạy dọc ngõ vẫn là chỗ để cho người ta
trút bầu tâm sự một khi bí bách. Trên đầu tôi vẫn tán sấu như xưa chỉ khác đã có nhiều lá vàng điểm xuyết, còn cây bàng trơ trụi những cành sần sùi chứa đựng những mầm xanh khi mùa xuân về.
Cái ngõ 16 của tôi đây rồi, vẫn cái cổng ngõ mà ông nội tôi xây từ năm 1920 với những mảng đắp nổi hình lá đề, cành nguyệt quế, chữ Thọ…mang phong cách kiến trúc của những năm đầu thế kỷ sao hôm nay với tôi thân thương lạ. Cái tin tôi trở về sao mà đi nhanh thế, mấy người hàng xóm chạy ra:
“ Chú Tường về thật kìa ! …Bà Châu ơi ra mà đón con…”. Bố tôi từ trong nhà chạy ra, như kim nén lại nỗi xúc động của người cha:
“ Con vào nhà đi, mẹ đi làm sắp về …” . Tôi đứng giữa nhà ngắm nhìn mọi đồ đạc dường như tất cả đã lâu lắm rồi. Múc gầu nước giếng đổ ra cái chậu đồng từ thời bà nội còn sống, úp mặt vào làn nước trong mát đó mà cảm thấy khoan khoái vô cùng nhưng chợt nhói lên một cảm giác như khi chơi với trên dòng sông Thạch Hãn đang nổi sóng vì bom pháo của địch.
Có tiếng lao xao ngoài ngõ:
“Bà ơi! Chú Tường về đấy”, tôi chạy ra đã thấy mẹ tôi đang lập cập dắt xe đạp vào, thấy tôi Bà đưa bàn tay sờ vào cánh mũi của tôi giọng nghẹn lại:
“ Con tôi không mất mũi thật rồi, lạy trời lạy phật mẹ thấy thư gửi về nhà chữ của người khác lại nói là bị vào mũi, mẹ lo lắm mất mũi thì con gái đứa nào nó lấy…”.Quây quần quanh mâm cơm ấm cúng, chỉ còn thiếu anh tôi bên trường chưa về, còn chị tôi chắc ngày mai bố tôi sẽ lên báo cho chị biết. Cả nhà đã biết tin tôi qua Thường, nó về đến Hà Nội trước tôi độ 10 ngày. Mẹ tôi có kể lại khi ở nơi cơ quan sơ tán, một hôm ông NKT (ngày ấy là Chủ nhiệm UBKHXH) là thủ trưởng của mẹ tôi bảo:
tôi được tin hôm qua bộ đội mình rút khỏi Thành cổ Quảng trị, hôm nay có xe về HN cô theo xe về đi nghe ngóng có tin tức gì của cháu nó không…Về đến HN, bà chạy đến mấy gia đình như nhà Hòa, nhà An…nhưng chẳng thấy tin tức gì. Rồi mấy người hàng xóm thì thầm nói rằng:
đài địch đưa tin chúng đã chiếm được Thành cổ QT, trong những xác cộng quân để lại cùng với thẻ SV và Sổ học tập được xác định là SV các trường ĐH như Bách Khoa, Xây dựng, Kinh tế…thuộc một Sư đoàn Sinh viên thiện chiến của Bắc Việt… Bà quay về nhà thẫn thờ nhớ đến con, lầm rầm cầu Trời khấn Phật cho con qua được cơn hoạn nạn. Đêm ấy bà không ngủ được, một lúc bà thiếp đi và thấy tôi máu me đầm đìa chìa tay về phía bà mà không nói câu nào, choàng tỉnh dậy bà nhìn đồng hồ lúc đó là 11 giờ đêm ngày 17/9/1972. Bà ghi vội vào cuốn lịch nhỏ:
thấy Tường về . Nắm chặt tay mẹ tôi, tôi nói rằng chính khoảnh khắc đó tôi đã tưởng sẽ không qua được khi lội nước trên cánh đồng Gio Linh và chỉ nhớ tới Mẹ mà thôi. Phải chăng những người có máu mủ ruột rà lại có một mối liên hệ nào đó về tâm linh được gọi là thần giao cách càm chăng !!!