NGƯỢC DÒNG KÝ ỨC
(tiếp theo)Chiều tối thương binh rời Gia Độ xuống thuyền để chuyển ra viện ở Vĩnh Linh. Đoàn chúng tôi đi bằng 3 thuyền máy với khoảng gần 50 thương binh. Thương binh nặng nằm võng còn ai đi được cố gắng dìu nhau đi. Tôi và Thủy dìu nhau xuống thuyền, Thủy bị một mảnh thấu bụng phải ra viện tuyến sau mới mổ được nhưng nó vẫn lom khom ôm bụng đi được. Đoạn sông Thạch Hãn này khá rộng có lẽ gần về biển hơn, loáng loáng sóng hai bên mạn thuyền dưới ánh trăng thượng tuần và mờ ảo của đèn dù. Thuyền lướt xuôi dòng cũng khá lâu rồi tạt mé trái, chúng tôi dìu nhau lên bờ. Đoạn sông tiếp theo bị bom từ trường chưa thông thuyền được các đoàn thương binh buộc phải lên bờ để đi bằng đường bộ ra Vĩnh Linh. Đây thuộc huyện Gio Linh, chúng tôi đi qua những trảng cát xâm xấp nước với một thứ cỏ lác. Chẳng biết đi được bao xa rồi chúng tôi dừng chân tại mấy căn nhà âm đào sâu dưới đất. Sáng ra mới biết xung quanh chúng tôi là cánh đồng cát ngập nước, nơi chúng tôi nghỉ là một gò cát cao hơn một chút có nhiều cây bụi mọc. Các nhà hầm nửa nổi nửa chìm ẩn mình trong đám cây bụi. Đây chính là một trạm trung chuyển thương binh nên có y tá kiểm tra lại các vết thương, có các cô du kích lo cơm nước. Nằm nhà hầm nghe gió bên ngoài thổi ù ù, vẳng lại tiếng
u...u...i...i của thằng OV10, tiếng bom đạn ở đâu xa vẳng tới chứng tỏ rằng đây đã ở sâu trong hậu phương của mình.
Chúng tôi lại lên đường, trước khi đi mỗi người được phát 2 gói lương khô 701 để ăn dọc đường. Bữa cơm chiều các cô du kích cho ăn một bữa cơm với canh cá chua ngon quá. Đã lâu lắm rồi mới lại được ăn một bữa cơm ngon như thế. Quãng đường đêm nay vất vả quá, rất nhiều đoạn chúng tôi phải lội nước tới bụng, thương binh nặng nằm trên võng xũng nước, thương binh nhẹ hơn ngã xấp ngã ngửa. Tiếng pháo từ hạm đội 7 rít qua đầu nổ ở sâu phía trong. Tới những đoạn không bị ngập chúng tôi nằm lăn ra vì đau, vì mệt. Thằng Thủy bữa chiều cơm ngon miệng ăn nhiều nên dạ dày phình ra cọ xát vào mảnh đạn nên kêu đau oai oái. Chân tôi lội nước suốt đêm làm cho các vết thương ở chân, ở hông và ở đùi nhiễm trùng sưng tấy phát sốt và cứng hết cả người. Vẫn phải đi tiếp, cố gắng đến viện chả nhẽ lại nằm lại. Tôi bám vào Thủy để lết từng bước, mỗi lần mệt quá nó phải đỡ chân tôi để ngồi xuống. Mấy chục con người lê lết rồi cũng đến được một con lạch nhỏ và ở đấy đã có thuyền đợi chúng tôi. Ngồi trên thuyền nửa thân dưới cứng đờ không còn cảm giác gì tôi chợt nghĩ các vết thương bị nhiễm trùng có thể bị uốn ván vì lúc lội qua cánh đồng ngập nước cỏ thối, ý nghĩ bị uốn ván chắc chắn sẽ không qua khỏi khiến tôi ứa nước mắt khi nghĩ đến Mẹ:
Mẹ ơi! Con không trở về được với Mẹ rồi... rồi tôi lơ mơ thấy thuyền tới một khúc sông rộng hơn đó là sông Bến Hải. Thuyền cập bờ, Thủy dìu tôi lên khỏi thuyền vất vả quá vì chân tôi tê cứng hết cả. Rồi chúng tôi cũng đến nơi, tôi ngồi dựa vào vách một căn nhà hầm, bên trong la liệt thương binh. Tôi tỉnh dậy vì bên tai tôi có tiếng la lớn:
“Đau quá, mẹ ơi ! Con đau quá...Con nhớ mẹ quá...Con muốn về với mẹ để đi học...mẹ ơi...học...học...”. Tiếng kêu đuối dần rồi ngừng bặt. Đó là người thương binh nằm cạnh tôi, anh là ai, tên là gì, quê ở đâu, đơn vị nào tôi không hề biết, chỉ biết trong giờ phút lâm chung anh chỉ có một ước muốn được trở về gặp lại Mẹ và tiếp tục sự nghiệp của mình. Ôi những bà mẹ Việt Nam đã mang nặng đẻ đau và dâng hiến những đứa con dứt ruột của mình cho đất nước. Chẳng có bà mẹ nào lại muốn nghe thấy tiếng con mình gọi trong giờ phút lâm chung đó...
Sáng ra, người ta đã đưa người thương binh mất đêm qua đi rồi. Mấy người đi cùng anh ta trên đường ra viện cũng chẳng biết gì hơn, may ra chỉ có bên quân y mới biết mà thôi. Đội điều trị 52 tại xã Vĩnh Thành, Vĩnh Linh nằm ẩn mình trong các khu vườn hồ tiêu của vùng đất đỏ ba-dan. Quang cảnh viện tan hoang, nhiều nhà hầm cho thương binh bay hết mái vì hôm trước B52 rải thảm vào đây. Khu vực bếp của Viện bị trúng bom nồi niêu xoong chảo bát đĩa cho thương binh chẳng còn gì cho nên cơm chỉ có thể đổ chung vào các tầu lá chuối ăn cùng ruốc mặn mà thôi. May mà tôi có cái thìa US cài ở túi sau để dùng, nhiều anh em phải nắm thành nắm nhỏ để ăn. Sau khi kiểm tra, băng bó lại các vết thương và không có hiện tượng bị uốn ván tôi lại được chuyển đi tiếp về Đội điều trị 48 ở xã Vĩnh Long cách đấy gần 2 chục cây số. Đoàn chuyển thương đi giữa ban ngày mỗi người cầm một cành cây để che nắng và ngụy trang, băng qua những đồi hồ tiêu xanh mướt, những vườn mít lúc lỉu, nếu như được tạt ngang lúc này thì thế nào cũng phải kiếm quả mít cho đỡ cơn thèm. Người dân ở đây đã dỡ nhà của mình để làm hầm và cuộc sống thường nhật là ở dưới lòng đất. Chúng tôi gặp QL1 và cứ men theo đường mà đi, qua những đống gạch vụn của thị trấn Hồ Xá chúng tôi tạt vào một con đường nhỏ bên trái theo một con sông nhỏ tới một xóm nhỏ thuộc xã Vĩnh Long, Đội điều trị 48 nằm tại đây. Thương binh chia về các nhà hầm của dân, ở đây là nơi dân từ Quảng Trị sơ tán ra, còn phụ nữ, người già và trẻ con ở đây lại ra Nghệ An chỉ có thanh niên và đàn ông bám trụ ở lại phục vụ chiến đấu. Cái xóm nhỏ này nằm trên một bãi cát với những bụi trúc nhỏ mọc khắp nơi. Ở đây tôi gặp Tân
quẩy ở c1 học lớp 15 Máy, nó cũng ra đây từ hôm trước cùng với Thái Minh Hùng lớp 16 Thủy lợi, Hùng đeo băng kín một bên mắt không rõ có giữ được mắt không. Ông Lâm 13 Xây dựng cũng đã hy sinh hôm 16/9 rồi. Tôi lại gặp một cậu mang ba-lô có viết chữ
Dương Thanh, c2 d1 e101 trên nắp ba-lô nhưng không phải là Thanh, cậu ta nói cùng ở c2, Dương Thanh hy sinh cùng Cường, Niên đều ở K16, Thắng 15 Kiến trúc...Nhớ lại cái đêm xe chở quân qua Đô Lương và anh em có yêu cầu cho Thanh chạy về nhà ở ngay ven đường để chào mẹ lần cuối...ai có thể nghĩ rằng đó cũng thực sự là lần cuối của Thanh.
(còn tiếp)