NGƯỢC DÒNG KÝ ỨC
(tiếp theo)Hành quân trên đất Quảng Bình ngày ấy chủ yếu là đi bộ. Có đoạn đi men theo đường xe lửa cũ, lúc vượt sông Long Đại ở một bến phà dã chiến phía thượng nguồn thì bị lũ muỗi, dĩn rừng và nhưng con bọ nhỏ li ti tấn công vào mặt, vào mũi, vào mắt, chui cả vào chân tóc, lỗ tai ... cái cảm giác khó chịu đó cho đến hôm nay sau 36 năm tôi vẫn mường tượng ra. Có lần đi trong rừng vào ban ngày phải vượt qua một ngọn núi cao mà đêm trước chúng tôi dừng chân ở bên này. Bãi khách đó là bãi mới chưa ai ở nên rất rậm rạp, ẩm thấp, phát những cây bụi nhỏ lấy chỗ mắc võng, dưới lớp lá cây mục lũ vắt nâu và vắt xanh ở đám tre, nứa và bụi le ngửi thấy hơi người nhao nhao ngóc đầu dậy nhẩy tanh tách vào đầu vào cổ. Cảm giác buồn buồn, nhột nhột, ở lưng, ở nách đến khi sờ vào thì toàn là máu. Sáng sớm rời bãi khách đáng nhớ đó bắt đầu leo dốc, 2 bên đường là từng đống chăn Nam Định và áo Đông Xuân lính ta bỏ lại bốc lên một thứ mùi khó tả. Có những gốc cây tuy nhỏ nhưng lên nước bóng nhoáng vì tới đây ai cũng phải bám vào mà leo lên. Rồi có cả một cây to nằm đổ ngang đường leo qua thì cũng khó chỉ có cách nằm xuống để trườn qua. Tại mặt dưới thân cây đó cậu lính nào đó đã tinh nghịch dùng dao khắc tại vị trí nhậy cảm biểu tượng của người phụ nữ...Thở như kéo bễ, mồ hôi ướt đẫm, chân mỏi nhừ, hai vai ê ẩm...Có chỗ có một tảng đá chồi lên, trên đó có một vết lõm hình bàn chân bắt buộc thằng nào cũng phải đặt chân để vượt qua. Biết bao nhiêu triệu lượt con người đã qua đây và đã để lại dấu ấn của một thời xẻ dọc Trường Sơn. Chợt phía trước có tiếng reo:
“Đến đỉnh rồi !” rồi tiếng hát của thằng Chiến vang lên:
“ ...Đoàn ta hằng mong muốn và ước mơ, bàn tay son sắt giương cao ngọn cờ. Để ngàn đời bền vững Tổ quốc ta. Trời cao muôn ngàn năm chói lòa ...” Tốp quân phía dưới vẫn còn đang leo lầm bầm:
“ Thở còn chẳng ra hơi còn hát với hò ...”. Không biết đỉnh núi này cao bao nhiêu mét nhưng chỉ biết nó vươn hẳn lên cao so với xung quanh. Trên đỉnh cao này là một khoảng bằng phẳng khá rộng, khô ráo mọc toàn cây to và thoải xuống sườn bên kia. Nắng vàng rực rỡ, gió thổi ào ào, phía Đông là một biển mây trắng xen vào đó là những khoảng xanh đậm (không biết đấy có phải là biển không ?). Chẳng thèm cởi ba-lô, chúng tôi khuỵu cả xuống thở lấy thở để. Tựa lưng vào một gốc cây to nhai trệu trạo nắm cơm với ruốc bông mà cổ họng nghẹn lại vì mệt và háo nước. Thằng Cẩn lấy ca nước pha một ít ruốc mặn và ít mỳ chính làm canh đưa cho tôi, nhấm thử một chút thấy ngang phè nhưng còn hơn. Thằng Cẩn có cái lạ là hay ăn mì chính sống. Khi ở huấn luyện nó luôn có trong túi một gói mì chính để khi mệt thì lôi ra nhấm nháp cho đỡ mệt. Tôi thì chịu không tài nào nếm được thứ đó. Một tiếng đồng hồ nghỉ tranh thủ nhắm mắt một chút để lấy lại sức, nhiều thằng lúi húi ghi chép gì đó, riêng Sơn lại viết thư cho em Diệp (cứ có thời gian là nó lại viết thư, đặc biệt là chỉ viết bằng bút chì gọt nhọn). Ông Được có vẻ đã hồi sức sau chuyến leo dốc vừa rồi. Quả thật chặng qua Quảng Bình là cực nhất vì chủ yếu đi bộ, sau lần ở Yên Viên ông ấy bị sửu cho đến bây giờ chưa bị lần nào. Đường xuống núi thoai thoải hơn nhưng lại rất nguy hiểm vì chân cẳng bây giờ đã chồn chùng hẳn xuống, không cẩn thận lăn xuống vực như bỡn. Lắm chỗ đường trơn buộc phải bệt mông mà trượt.
Cái đêm xe chở chúng tôi qua khu vực Đồng Hới dưới tầm pháo hạm đội 7 của địch, phía biển liên tục là các chớp lửa, tiếng rú của đạn pháo bay qua đầu tạo thành những tiếng nổ rung chuyển cách chỗ chúng tôi khoảng hơn 1 cây số. May mà nó pháo kích ở đâu đó nếu như ở nơi chúng tôi đang đi thì không biết nấp vào đâu vì toàn là bình địa nham nhở hố bom, hố pháo.
Đêm hành quân trên đất Lệ Thủy trời mưa tầm tã, nhưng vẫn không ngớt những trận bom tọa độ. Chúng tôi lầm lũi đội mưa đi dọc nền đường sắt, phía núi xa xa từng quầng lửa bùng lên trong đêm mưa. Bỏ nền đường sắt chúng tôi băng qua cánh đồng trắng xóa vì ngập nước. Cũng chẳng biết chỗ nào là bờ ruộng, chỗ nào là mương, là hố bom mà tránh. Lính tráng thi nhau
tháo đạn đứng dậy, đầu tiên còn ngã ít và cười với nhau về sau không còn sức để mà cười nữa, thay vào đó đủ loại
của ngon vật lạ được tung ra. Rút kinh nghiệm mấy trận hành quân trời mưa bị ngã văng kính, lần này tôi lấy 1 sợi dây chun quần cột chặt vào gọng kính để quàng qua đầu nên khi bị ngã kính không thể văng ra được. Với cách này cả khi vào trận tôi chưa hề một lần nào rơi kính, chỉ sợ nhất khi trời mưa làm nhòe nhoẹt mắt kính. Lúc dừng chân lấy sức không có chỗ để ba-lô nữa vì nước ngập trên đầu gối chỉ còn cách dùng gậy chống vào đáy ba-lô cho nhẹ bớt vai mà thôi. Ông Trần Ba đi cùng tốp chúng tôi phải kêu lên:
“Đ.má ! Lính tráng tụi bay tung hết ra thì lấy gì mà dùng. Tao cho thu dung gom lại mang về nhà bán lại lấy tiền sài ...”. Đến một xóm nhỏ chúng tôi được lệnh nghỉ lại. Thôi thì mạnh ai tự tìm chỗ ngả lưng. Chẳng còn sức để tìm chỗ mắc võng nữa, tôi sờ soạng thấy một nền đất tương đối khô ráo cứ nguyên vải mưa ướt sượt trải ra đất, lấy võng phủ lên làm chiếu và trùm tăng kín mít bất chấp những giọt mưa theo giọt gianh táp vào. Sáng ra, ngoài trời mưa đã ngớt, quần áo ướt sũng, hôi sì, may mà ba-lô còn khô ráo, nhưng chưa thể thay bộ khác được vì đêm nay lại phải đi tiếp. Chỗ tôi ngủ đêm qua là đầu hồi một gian bếp liền với chuồng trâu. Đây không phải là trạm khách mà chỉ là chỗ dừng chân trên đường. Xóm nhỏ này dưới chân một quả đồi trồng toàn chuối. Trong nhà có mấy bộ bàn ghế văn phòng chứng tỏ đây là nơi sơ tán của cơ quan nào đó.
(còn tiếp)