NGƯỢC DÒNG KÝ ỨC
(tiếp theo)Rời Nghĩa Đàn chúng tôi lên xe đi tiếp. Trời đã tạnh ráo, những chiếc xe tải quân sự chỉ có 1 ngọn đèn gầm duy nhất lắc lư đi trong đám bụi đường dầy đặc. Từ đây đi đường 15 đi qua những vùng đồi núi đất đỏ của miền Tây Nghệ An. Thỉnh thoảng xe phải dừng lại vì phát hiện máy bay đang lượn trên đầu.
Đột ngột chiếc xe đi trước dừng lại, một bóng người trên xe nhẩy xuống và lao vào mấy nếp nhà núp dưới một cánh rừng bạch đàn ven đường. Xe chúng tôi cũng dừng lại. Sau này mới biết chỗ này là Đô Lương, anh em có đề nghị với lái xe dừng lại ít phút để cho Dương Thanh - K16 Xây dựng - tạt qua nhà từ biệt mẹ. Dương Thanh khi còn ở huấn luyện đã được chọn đi khám tuyển phi công nhưng không trúng tuyển. Thanh về cùng d1 với tôi nhưng ở c2 và đã hy sinh tại khu vực An Tiêm - Chợ Sãi ngày 16/9/1972.
Cũng tại cung đường này, đêm 18/11/1972 chúng tôi rời trạm chuyển thương CT12A ở Nam Thanh ra Nghĩa Đàn. Thời điểm đó sau khi bội ước không chấp nhận ký Hiệp định Paris ngày 26/10/1972, Ni-xơn mặc dù tạm ngừng ném bom phía Bắc vĩ tuyến 20 lại tăng cường dùng B52 đánh phá quyết liệt phía nam vĩ tuyến 20. Đêm đó hơn 10 xe chở thương binh theo trục đường 15 thì bị trúng bom B52. Mỗi xe chở khoảng hơn hai chục thương binh, những anh em bị nặng nhất được nằm võng (mép võng được ghim lại để khỏi lăn ra), dưới sàn xe người nằm, người ngồi ngủ gà ngủ gật thì trời đất chớp lòe, chao đảo, xe nhẩy chồm chồm, cây cối đất đá đổ ập xuống xe như giông bão...Chốc lát trong ánh lửa của cây rừng bị cháy, những vạt rừng hai bên đường biến đi đâu mất thay vào đó là một bãi bom khổng lồ. Thật là may mắn những loạt B52 này lại cắt ngang đường và xen vào giữa các xe. Không một xe nào bị bom, có một vài xe bị bẹp mũi, bẹp nóc do đất đá, cây cối quăng vào. Thương binh đều an toàn chỉ bị một phen hút chết mà thôi. Hôm sau ở Nghĩa Đàn chúng tôi được biết đây là trận mở màn cho chiến dịch
Sấm rền của địch đánh vào trục đường 15. Chúng đã dùng 3 tốp B52 gồm 9 chiếc rải thảm khu vực Đô Lương, Tân Kỳ - chính là nơi chúng tôi đi qua. Ngay trong đêm, xe của trạm Nam Đàn ra và của trạm Nghĩa Đàn vào chỉ để làm công tác thương binh tử sĩ vì với mật độ bom dầy đặc như thế chắc chắn sẽ không còn ai sống sót.
Quay lại chặng đường khi hành quân vào, chúng tôi dừng chân ở trạm Nam Đàn một ngày. Ngôi nhà nơi tiểu đội tôi trú quân có 2 người phụ nữ và mấy đứa trẻ nhỏ. Chiều, khi tập kết để đi anh em mới rỉ tai nhau thằng X. và thằng H. ở trường công nhân máy kéo đã chui vào buồng ngủ của 2 chị em gia chủ ..., khi ra thấy mặt mũi phởn phơ lắm...
Chúng tôi đi dọc theo đê sông Lam, đây là nơi thị trấn Nam Đàn sơ tán về nên có vẻ đông đúc, những quán nhỏ le lói ánh đèn dầu phòng không ở bên đường. Gió sông thổi về mát rượi, chẳng bù cho ban ngày nóng hầm hập. Chính tại đoạn đê này khi tôi trên đường chuyển thương ra đã gặp mấy anh em cùng huấn luyện ở Tân Đức đã được giữ lại làm khung cho đợt quân sau. Không biết họ sẽ vào Quảng Trị hay đi đâu ?
Sà-lan chở chúng tôi ngược sông Lam để theo dòng sông La vào đất Hà Tĩnh.
Đức Hòa là một xã của huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh, chúng tôi nghỉ lại sau một đêm theo sà-lan từ Nam Đàn vào. Vùng quê này là một vùng bán sơn địa với những vườn cọ và những nếp nhà lợp lá cọ xung quanh vách cũng được thưng bằng lá cọ có thể chống lên để hứng gió. Kiểu nhà này rất nhiều cột chống nên lính tráng tha hồ mà mắc võng. Tình cờ anh em chúng tôi phát hiện trong làng có một quán cà-phê khá độc đáo. Mấy anh em rủ nhau ra quán để lấy lại hương vị cà-phê kể từ khi nhập ngũ. Quán cà phê là một nếp nhà lá nép dưới tán mấy cây cọ, xung quanh quán là giàn hoa giấy, trong quán bàn ghế làm bằng tre, tủ quầy cũng được làm bằng tre, không gian được bài trí phù hợp cho một quán cà phê của một thị xã tỉnh lẻ nào đó chứng tỏ chủ nhân là một người có óc thẩm mỹ. Ông chủ là một người đàn ông cỡ ngoài 50, đón chúng tôi vào. Trong quán toàn quân nhà ta cả, chuyện nở như ngô rang, khói thuốc lá nghi ngút bên những phin cà-phê đặc sánh đang tí tách nhỏ giọt. Khi biết chúng tôi là những lính sinh viên mà đa phần là dân Hà Nội nên chuyện cà-phê, chè cháo không phải là không sành sỏi, ông chủ liền giới thiệu các loại cà-phê mà ông ta có đặc biệt là cách dùng rượu
rhum đun nóng để chế vào phin thay nước sôi ... Đúng là lần đầu tiên mới nghe thấy kiểu cách pha này
(bụng bảo dạ nếu được sống trở về thế nào tôi cũng phải hỏi bố tôi và nhất là bác tôi có kiểu pha cà-phê như thế không hay là ông nói phét). Âu đó cũng là những kỷ niệm đáng nhớ trên đường hành quân. Mấy tháng sau khi tôi nằm ở trạm chuyển thương cách đó một cánh đồng mà tôi đang tập tễnh nên không thể ghé qua quán được.
(còn tiếp)