NGƯỢC DÒNG KÝ ỨC
(đoạn kết)Hình ảnh một lứa trai đi B ngày ấy với ba-lô con cóc trĩu nặng trên lưng, trước ngực là khẩu AK, dáng người đang lao về phía trước, trong tay là chiếc gậy Trường Sơn, đầu đội mũ cối hoặc mũ tai bèo, tóc tai bê bết mồ hôi hòa lẫn nước mưa, xanh-tuya-rông bên hông với bình tông, dao găm, túi cứu thương, quần Tô Châu xắn đến đầu gối, chân mang tất dài xỏ dép đúc Trung Quốc luôn luôn đọng lại trong thế hệ chúng tôi như một tượng đài bất diệt. Trong túi áo ngực của tôi là những thứ bất ly thân: 1 mảnh giấy
Trích ngang có viết tên, ngày tháng năm sinh, quê quán, khi cần báo cho ông (bà) tại địa chỉ...với mảnh giấy nhỏ này nếu như anh ngã xuống thì đồng đội sẽ căn cứ vào đó để báo về gia đình và khắc bia cho anh, còn mảnh giấy sẽ được bỏ vào 1 lọ péniciline hoặc lọ thuốc sốt rét chôn theo người - gọi là bia chìm; 1 bút máy Trường Sơn với 1 cuốn lịch Nhân dân bìa ni-lon trên đó ghi tóm tắt những gì xảy ra trong ngày, một vài ngày nếu rảnh rỗi lôi nhật ký trong ba-lô ra viết chi tiết hơn; một ít tiền Bắc còn lại và mẩu thuốc phiện anh Thiện đưa, tất cả được gói trong túi mì chính. Trong ba-lô còn có cuốn sổ học tập của trường mang theo để làm kỷ niệm, khi vào trận tôi đã nhét nó vào bòng mang theo, cái bòng đó đã để lại nơii đánh nhau và có thể địch đã thu được và đưa tin về những
SV của Bắc Việt đã bỏ xác tại trận. Việc mang theo cuốn sổ học tập vào trận cũng không phải riêng tôi, sau này có hỏi lại thì rất nhiều đã mang theo nó trong người. Ngoài ra còn có 1 lọ nhựa đựng mực để dùng dần (về sau mất hết cả mực và rơi mất bút nhưng được cái đơn vị hoạt động ở đồng bằng nên bút chì và bút bi kiếm cũng dễ).
Nhưng khi đã trở thành một người lính chiến thực thụ thì trang bị đã gọn gàng hơn: ba-lô để hậu cứ, trên lưng có đeo một cái bòng làm bằng bao cát của Mỹ trong để vài phong lương khô, võng, tăng để khi hy sinh đồng đội sẽ bọc mình bằng võng, tăng phủ bên ngoài và bó bằng dây võng dĩ nhiên bên trong phải có bia chìm (như đã nói ở trên) ; nếu may mắn chỉ bị thương thì mình sẽ được đồng đội đưa ra phía sau bằng võng. Phải tìm cách trang bị cho mình một số đồ trận của Mỹ tuy có nặng nhưng bền và rất tiện dụng như xanh-tuya-rông Mỹ không bị vặn khi đeo nặng như của ta. Những trang bị của Mỹ được cài trên xanh-tuy-rông bằng nẹp rất chặt nhưng lại có thể tháo lắp 1 cách dễ dàng. Còn các trang bị của chúng ta tuy có nhẹ nhưng chỉ làm đai lồng vào xanh-tuya-rông, muốn lấy cái ở trong phải tháo những cái ở ngoài, mặt khác có cái dở khi vận động nhất là khi phải bò, phải trườn những thứ đồ đó dồn hết trước bụng. Kiếm 1 bình tông bằng i-nox của Mỹ và nhất là vỏ bình tông có lớp nỉ có thể giữ ấm khi pha trà. Bên hông ngoài túi thuốc được đựng trong bao đạn cực nhanh Mỹ còn có thêm vài cuộn băng cá nhân, chúng tôi còn phải có 1 con dao găm bằng lê AK (sau được thay bằng lê của AR15 của Mỹ sắc hơn), 1 túi lựu đạn (được lựu đạn mỏ vịt là tốt nhất), 1 túi đựng lương khô hoặc cơm nắm trong đó có 1 cái thìa hoặc dĩa US bằng i-nox, túi ngực 1 bên để cuốn lịch và tờ Trích ngang, túi bên kia là bật lửa (tôi còn giữ 1 cái Zippo chiến lợi phẩm), mấy viên đá dự trữ, 1 cái khui đồ hộp, 1 gói thuốc lào. Nếu phải mang AK thì chỉ cần 2 băng buộc chéo nhau lắp sẵn vào súng, 1 băng gài vào túi quần sau là có thể sử dụng trong 1, 2 ngày. Về sau tôi dùng bao xe đựng đạn dạng yếm, tuy có nặng và nóng nhưng chính bao xe kiểu này như áo giáp chống được mảnh đạn găm vào ngực. Đánh nhau ở đây, ta và địch giành giật nhau từng góc nhà căn phố nên việc sử dụng lựu đạn và B40, B41 rất có hiệu quả vì thế khi vào chốt chúng tôi thường mang rất nhiều lựu đạn và đạn B40, B41. Lại nói đến cái khui đồ hộp, cũng là của Mỹ nó rất có ích khi ta và địch chỉ cách nhau 1 bờ tường đổ, mọi động tĩnh của nhau đều dễ bị phát hiện, lúc đó muốn mở đồ hộp thì chỉ dùng cái khui sẽ mở được rất nhẹ nhàng. Hành quân cơ động chiến đấu còn vất vả hơn rất nhiều so với khi đi B là quân bổ sung vì ngoài quân tư trang thằng nào cũng phải mang theo cơ số đạn dự trữ cho các đơn vị hỏa lực như cối 82, DK, B40, B41, 12 ly 7...còn phải kể đến việc khiêng lợn của đơn vị nữa ...
Cho đến nay đã gần 40 năm khi mái tóc trên đầu không còn xanh nữa, nhưng những ký ức trong những ngày ở Quảng Trị vẫn vẹn nguyên trong tôi như mới ngày hôm qua. Điểm lại những khuôn mặt đồng đội cùng tôi ra đi từ Tân Đức ngày ấy và cùng về e101/f325 giờ này thiếu vắng anh Tạo, anh Lâm, anh Long, Tiến, Triệu, Tuấn, Cao Minh Sơn… và nhiều người lắm không thể nào nhớ hết được. Các anh mãi mãi nằm lại mảnh đất này, thân thể của các anh đã hóa thân thành sóng nước, thành cát trắng, thành gió Lào hắt lửa, thành dai dẳng của mùa mưa Quảng Trị.
Đồng đội tôi trong chiến dịch 72,
Xương thịt nhiều hơn đất đai Thành cổ.
Bao người lính ra đi không về nữa
Để đất này mãi mãi mầu xanh.Thế hệ chúng tôi, kể cả những người đã xông pha trận mạc hay những người ở lại hậu phương đều giống nhau, là hay nhìn về quá khứ. Không biết tại sao và cũng không ai cố lý giải vì sao lại thế...Nhưng chắc chắn một điều khi nhìn về qua khứ, bên cạnh sự yên tĩnh trong tâm hồn giữa bộn bề cuộc sống thì lúc nào chúng tôi cũng cảm thấy mình còn may mắn rất nhiều so với những người bạn đã nằm lại tại chiến trường với mãi mãi tuổi hai mươi, điều đó càng thôi thúc chúng tôi được giải tỏa, được chia sẻ với nhau khi mái đầu mỗi lúc một bạc thêm.
Cho đến bây giờ chiến tranh đã đi vào quá khứ và có thể có nhiều đánh giá khác nhau nhưng tôi cho rằng bất cứ ở giai đoạn nào của lịch sử thì Độc lập, Tự do và Thống nhất đất nước bao giờ cũng phải là Tuyên ngôn đầu tiên của bất cứ chính thể nào một khi đang nắm vận mệnh của một dân tộc. Không lẽ gì trong những thời khắc nóng bỏng như thế chúng ta lại là kẻ đứng ngoài cuộc.
Tôi cũng muốn nhắc lại ở đây lời của một đồng đội đã cùng chúng tôi sống và chiến đấu trong những tháng ngày không thể nào quên đó, anh đã nói hộ chúng tôi tất cả:
“Không ai lựa chọn chiến tranh, nhưng chiến tranh lại chọn thế hệ chúng tôi để thử nghiệm phẩm chất làm người...Không ai lựa chọn sự gian khổ, nhưng gian khổ thiếu thốn lại làm bật dậy giá trị tinh thần cao quý, làm nên sức mạnh chiến thắng...và không ai lựa chọn cái chết, nhưng sự sống thật là quý giá giữa chảo lửa khổng lồ, chúng ta đã chấp nhận cái chết bằng cách ngẩng cao đầu và nếu có ra đi thì thật là thanh thản...”. Đấy chính là nhân cách của chúng tôi khi hòa vào dòng chảy của dân tộc trước những thử thách cam go để tồn tại hay không tồn tại và chúng tôi tự hào đã làm được cái mà cả thế hệ chúng tôi đã làm trong những năm tháng đầy máu và nước mắt nhưng rất đỗi vẻ vang vì sự tồn vong của dân tộc và đất nước thân yêu.
Tháng 5/2010[/right]
L.X.T
Ngược dòng ký ức tạm dừng ở đây. Tôi sẽ có dịp quay trở lại với sự tham gia của đồng đội tôi để viết lại trọn vẹn những gì mà chúng tôi đã trải qua trong những năm chiến tranh.
Ngày mai tôi sẽ cùng đoàn CCB của Quỹ MMT20 về dự lễ kỷ niệm ngày mất của anh Trỗi (15/10/1964) và viếng thăm quê hương của chị Sáu tại Đất Đỏ (Bà Rịa-Vũng Tầu). Hẹn gặp lại các bạn QSVN sau chuyến đi này
.