Tình hình quân sự quốc tế trong thập niên 90
Tác giả: Thiếu tướng Dư Khởi Phan / 余起棻
….
Giảm thiểu chi tiêu - Đề cao chất lượngNhằm đáp ứng các yêu cầu trong chiến lược quân sự mới của nước mình, Mỹ và các nước Phương Tây đã tiến hành cắt giảm chi tiêu quân sự, tiết giảm binh lực, điều chỉnh biên chế tổ chức, sắp xếp lại phương thức diễn tập quân sự, cải thiện điều kiện sinh hoạt cho binh lính, phát triển công nghệ quân sự và nâng cao chất lượng trên quy mô lớn. Tuỳ theo tình hình và chiến lược quân sự, nhiều nước thuộc Thế giới thứ ba cũng tiến hành cắt giảm binh lực để nâng cao chất lượng và tăng cường khả năng quốc phòng.
Buổi họp báo tổ chức tại Đại lễ đường nhân dân Bắc Kinh ngày 4/3/2010 để công bố thông tin về Kỳ họp thứ ba của Hội nghị Hiệp thương nhân dân khóa 11 bàn về ngân sách quốc phòng Trung Quốc năm 2010. Dù không khẳng định số liệu chính thức, nhưng mức chi quốc phòng thường niên tính theo phương pháp ngang giá sức mua của Trung Quốc từ đầu thập niên 90 luôn trong nhóm nước chi quốc phòng dẫn đầu thế giới (ảnh:
http://english.peopledaily.com.cn)
Quá trình cắt giảm chi tiêu quân sự tại các nước phát triểnTổng thống Khắc Lâm Đốn đã chú trọng tới việc cắt giảm chi phí quốc phòng ngay từ khi mới tiếp quản nhiệm sở. Trong thập niên 90, ngoài các khoản chiến phí cho Chiến tranh Vịnh Ba Tư năm 1991 thì các khoản chi tiêu quân sự cả về số tuyệt đối lẫn tỷ phần tương đối trong chi tiêu công và tổng sản phẩm quốc gia của Mỹ đều giảm. Chi tiêu quốc phòng cho mỗi năm tài khoá cụ thể như sau: Năm 1990 – 291,4 tỷ Mỹ kim; năm 1992 – 273,8 tỷ Mỹ kim; năm 1993 – 277,9 tỷ Mỹ kim. Những con số chi tiêu đó tương ứng với tỷ phần trong chi tiêu công và tổng sản phẩm quốc gia của Mỹ trong các năm vừa nêu là 26,98% – 5,33%; 19,6% - 4,7%; 19,2% - 4,3%. Chính quyền Khắc Lâm Đốn còn lên kế hoạch giảm 100 tỷ Mỹ kim chi tiêu quốc phòng trong giai đoạn tài khoá 1993-1997, đồng thời duy trì chi tiêu quốc phòng ở mức 210 tỷ Mỹ kim, tương ứng với 3% tổng sản phẩm quốc gia, trong năm tài khoá 1997 và các năm tài khoá tiếp theo. Đây được xem là mức chi tiêu quốc phòng thấp nhất tính từ năm tài khoá 1939. Hiển nhiên là vì điều này mà chính quyền Khắc Lâm Đốn bị giới tài phiệt chính trị và quân sự chỉ trích. Bộ trưởng quốc phòng Thiết Ni lại cho rằng việc cắt giảm ngân sách quốc phòng làm phát sinh mâu thuẫn với cam kết tăng cường an ninh và điều đó làm suy yếu sức mạnh quân sự Mỹ. Gần đây do áp lực từ phe Cộng hoà vốn vừa giành thắng lợi trong các cuộc bầu cử Nghị viện giữa kỳ, ngài Khắc Lâm Đốn đã không còn lựa chọn nào khác ngoài việc hứa sẽ tăng ngân sách quốc phòng thêm 26 tỷ Mỹ kim trong 6 năm tiếp theo.
Từ năm 1991, các quốc gia Phương Tây đã thi hành nhiều biện pháp nhằm giảm chi tiêu quốc phòng. Ở nước Anh, ngân sách quốc phòng cho năm tài khoá 1992 là 24 tỷ Bảng. Nếu trừ đi mức lạm phát cùng kỳ thì khoản ngân sách quốc phòng này đã giảm đi 2% so với mức ngân sách quốc phòng năm 1991 của Anh. Trong năm 1993, chi tiêu quốc phòng đã giảm từ mức 4% xuống còn 3,4% trong tổng sản phẩm quốc dân, rồi chi tiêu quốc phòng năm 1995 đã giảm tiếp xuống chỉ còn 3% GDP. Tại Pháp, ngân sách quốc phòng năm tài khoá 1992 là 195 tỷ Pháp Lãng
(1), chiếm tương ứng 14,8% và 3,26% trong tổng chi tiêu chính phủ và tổng sản phẩm quốc gia. Mức chi tiêu quốc phòng này sau khi cân đối với tỷ suất lạm phát thực tế đã giảm 2,3% so với chi tiêu quốc phòng năm 1991. Ở Đức, ngân sách quốc phòng trong năm tài khoá 1992 là 52,1 tỷ Mã Khắc
(2), chiếm 12,3% chi tiêu chính phủ và giảm 0,8% so với mức chi năm tài khoá 1991. Bắt đầu từ năm 1993, Đức đã tiến hành cắt giảm 1,5 tỷ Mã Khắc, tương ứng với mức giảm 3% chi tiêu quốc phòng mỗi năm. Tại Ý Đại Lợi
(3), ngân sách quốc phòng năm 1992 là 26.560,2 tỷ Lí Lạp
(4), giảm thực tế sau khi trừ mức lạm phát so với ngân sách quốc phòng năm trước đó. Ở Nhật Bản, ngân sách quốc phòng năm 1992 giữ nguyên ở mức 1% trên tổng sản phẩm quốc gia hàng năm.
Trái ngược với xu hướng giảm chi tiêu quốc phòng diễn ra ở Mỹ và các nước Phương Tây, một số quốc gia thuộc Thế giới thứ ba lại gia tăng chi tiêu quốc phòng cùng với đà tăng trưởng kinh tế nhằm củng cố khả năng quốc phòng. Ví như trường hợp Hàn Quốc khi thực thi chiến lược “Phòng Vệ”. Năm 1990, nước này đã chi tới 9 tỷ Mỹ kim, tương ứng với 5% tổng sản phẩm quốc gia cho quốc phòng. Năm 1991, con số này tăng tới 10,1 tỷ Mỹ kim, tức tăng tới 9% so với mức chi quốc phòng của năm tài khoá trước đó. Giữa các năm 1990 tới 1995, Hàn Quốc đã dự tính chi tới 240,3 tỷ Mỹ kim cho công tác nghiên cứu vũ khí, trang bị mới. Trong giai đoạn đầu thập niên 90, mức tăng chi quốc phòng của các nước trong khối Đông Minh đã tăng từ 5 tới 10% mỗi năm. Chẳng hạn Ấn Độ Ni Tây Á
(5) đã chi cho quốc phòng trong năm 1991 tăng tới 10% so với mức chi năm 1990, còn mức chi của Mã Lai Tây Á
(6) tăng 15%, của Tân Gia Va
(7) tăng 29% và của Thái Quốc
(8 ) cũng tăng tới 20% cùng kỳ. Các nước này đã rất nỗ lực hiện đại hoá trang bị và vũ khí nhằm tăng cường lực lượng hải quân và không quân của mình. Xu hướng tương tự cũng diễn ra ở các nước Trung Đông và vùng Vịnh Ba Tư. Nước Sa Đặc A Lạp Bá
(9) đã tăng chi cho ngân sách quốc phòng thêm 800 triệu Mỹ kim so với năm tài khoá trước đó. Nước Khoa Uy Đặc
(10) dự kiến chi tới 5 tỷ Mỹ kim để mua sắm vũ khí, trang bị quân sự. Năm 1992, ngân sách quốc phòng của các nước Y Lăng
(11), Tư Lợi Á
(12) và Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng tương ứng là 17%, 16% và 8% so với mức chi ngân sách quốc phòng của năm tài khoá trước đó. Riêng nước Dĩ Sắc Liệt vẫn tăng chi quốc phòng thêm 300 triệu Mỹ kim bất kể tình trạng giảm phát kinh tế và tiết giảm chi tiêu chính phủ.
….
________
Chú thích:
(1)Pháp Lãng: đồng Phờ-răng Pháp (Frans)
(2)Mã Khắc: đồng Mác Đức (Deutch Mark)
(3)Ý Đại Lợi: I-ta-li-a (Italy)
(4)Lí Lạp: đồng Lia (Lira)
(5)Ấn Độ Ni Tây Á: In-đô-nê-xi-a (Indonesia)
(6)Mã Lai Tây Á: Ma-lai-xi-a (Malaysia)
(7)Tân Gia Va: Xanh-ga-po (Singapore)
(8 )Thái Quốc: Thái Lan
(9)Sa Đặc A Lạp Bá: Ả-rập Xê-út
(10)Khoa Uy Đặc: Cô-oét (Kuwait)
(11)Y Lăng: I-Răng (Iran)
(12)Tư Lợi Á: Xi-ry (Syria)