Nữ anh hùng... giả trai đi đánh giặc
Trong lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, có lẽ bà là trường hợp duy nhất cải nam trang đi đánh giặc. Từ một cô gái xinh đẹp, da trắng, tóc đen dài, bà phơi nắng, cắt tóc như con trai, gào thét cho vỡ giọng để có tiếng nói được ồm ồm như đàn ông… Cắt máu ăn thề trốn nhà đi kháng chiếnSinh ra trong một gia đình khá giả ở huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang, Trần Thị Quang Mẫn được ba má cho ra tỉnh học trường tư thục. Khi đó, không ưa người Pháp, bà ghét luôn ngôn ngữ của họ nên không tha thiết với việc học lắm. Học hết lớp Nhứt, bà và người em về quê làm ruộng. Bà thường ra đồng thả trâu, bò, bày trò chơi trận giả với đám con nít xung quanh. Tính tình khảng khái như con trai, bà mê đọc sách sử, mê Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trung Trực, Phan Bội Châu…
Là phận gái nhưng trong bà luôn day dứt một điều. Đất nước bị xâm lược, đang cần người trẻ nhưng anh chị em bà không ai ra giúp nước. Ông ngoại bà vốn là người của Nguyễn Trung Trực, bị giặc Pháp giam cầm 18 năm ngoài Côn Đảo, các cậu bà hy sinh vì đất nước… Biết tính cha vốn không thích tham gia chính sự, bà “nhỏ to” với người em gái kế, hai chị em cắt máu ăn thề và lên kế hoạch trốn nhà theo kháng chiến. Ngón áp út bên tay trái của bà giờ vẫn còn hằn vết sẹo cắt máu ăn thề của 50 năm về trước.
Lần thứ nhất, khi bà và em gái lén mang túi xách trốn đến điểm đóng quân gần nhà khoảng một cây số thì bị người cha huy động lực lượng trong gia đình bắt mang về. Hai chị em bà bị nhốt kín trong nhà. Lần thứ hai, sau khi dặn em chạy theo mình, bà vừa phóng ra khỏi nhà mấy chục mét thì cha bà đã cầm con dao chạy theo. Ông dọa sẽ tự sát nếu chị em bà bỏ đi lần nữa. Giận con gái cứng đầu, sẵn con dao bén trên tay, ông cắt phăng mái tóc óng ả của con gái.
Càng bị cha ngăn cản, bà càng nung nấu khát vọng được cầm súng trực tiếp đánh giặc. Bà nhờ người anh họ xa đang tham gia kháng chiến viết thư báo lên cấp trên. Thư hồi âm của người Đội trưởng, trong đó có đoạn: "…Chúng tôi chỉ dám nhận khi có sự đồng ý của cha mẹ hai cô".
Người cha trước sau như một. Thấy không lay chuyển được ý định của con gái, ông mang hết quần áo hai cô ra đốt và đuổi hai chị em đi. Người mẹ vừa khóc vừa chạy theo dúi cho bà mấy đồng bạc và xấp vải xô có sẵn trong nhà. Đến bây giờ bà vẫn còn nhớ như in lời mẹ dặn: “Hai chị em con đi phải cho thành danh. Nếu không thành hay hư hèn gì thì đừng có vác mặt về nhà, xấu hổ cha mẹ lắm”.
Chuyện "anh" Mẫn đào hoa... cưới vợBà quyết định giả làm con trai, đổi tên là Trần Quang Mẫn. Em gái bà được đưa vào đội cứu thương, còn bà ở bộ phận giao liên, trinh sát và khi cần thiết cũng trực tiếp cầm súng giết giặc trong Trung đội 1. Nam giới đi đánh giặc vốn đã cực khổ, người cải trang như bà càng khổ hơn. Mỗi tháng, sắp tới ngày của phụ nữ, bà lấy rau dăm giã nát, đổ rượu trắng vào uống nửa chén. Đây là "bài thuốc" bà học lóm từ người chị lớn. Áo quần mặc phải rộng hơn, ngủ trong nóp, tắm phải dòm trước ngó sau. Cũng may là sau một ngày đánh giặc mệt mỏi, mạnh ai nấy nhảy ào xuống sông tắm cho nhanh lên nghỉ nên không ai chú ý đến "anh" Mẫn da trắng trẻo như con gái.
Công việc của bà vất vả hơn em gái, thường ngủ lùm ngủ bụi. Mỗi lần đi thăm "anh Sáu" (em gái bà gọi thế), cô em cứ khóc sụt sùi vì thương chị. Bà động viên em, nhắc lại lời thề không sạch bóng quân thù không về khi hai chị em cắt máu ăn thề. Đối với bà, được cầm súng đánh giặc thì mọi vất vả chỉ là chuyện nhỏ. Gan dạ, thông minh, bà được cấp trên cử đi học sĩ quan ở Quân khu 9. Trở về đơn vị, bà lãnh đạo cảnh vệ binh Trung đoàn.
Cao 1,62m, da trắng, giọng nói trong trẻo, cải thành nam giới, bà nổi tiếng “đẹp trai” trong đơn vị, đi đến đâu cũng được các cô gái để ý đánh mắt làm quen.
Không may, gần nơi đóng quân của đơn vị có cô gái người Khơme xinh xắn để ý thương “anh” Mẫn. Hàng ngày, cô thường tới lui thăm nom anh. Cha cô gái biết chuyện đã đánh tiếng gả cô cho bà.
Biết được bà vốn là con của người quen, cha cô đã lân la đến nhà bà uống rượu với cha bà dò hỏi. Còn giận bà, người cha cũng không nói thật. Thế là trước sự thúc ép của gia đình cô gái và của cả đơn vị, bà phải hứa hôn với cô gái… Đến đây, bà ngừng lại. Cô gái yêu thương "anh" Mẫn ngày xưa đã bị bom vùi thây cùng người chồng bộ đội, để lại mấy đứa con thơ dại mà bà vẫn chưa một lần có dịp về thăm...
Bại lộTrước khi giả trai, gia đình bà có hứa hẹn gả bà cho một chàng trai ở huyện Phú Quốc. Hai người cũng qua lại thăm viếng vài lần. Từ ngày bà cải thành nam giới đi cách mạng, anh con trai tên Nguyễn Văn Bé đang đi bộ đội ở Tiểu đoàn 4010 tới lui không thấy, điều tra biết được bà đang ở Trung đoàn 124. Sau nhiều lần ông dò hỏi, thắc mắc, cuối cùng sự việc của bà bị bại lộ. “Anh” Trần Quang Mẫn trở lại là chị Trần Thị Quang Mẫn. Cả Trung đoàn bật ngửa vì trong suốt năm năm trời, không ai phát hiện ra chuyện "động trời" này.
Sau đó, đơn vị đứng ra tổ chức đám cưới cho hai người. Lúc này, bà lên chức Đại đội trưởng Trung đoàn 124, ông giữ chức Đại đội phó. Năm 1952, ông hy sinh, để lại đứa con trai mới bốn ngày tuổi lại cho bà. Mười tuổi, con trai bà tiếp bước cha mẹ đi bộ đội, 15 tuổi người con trai duy nhất của ông bà hy sinh…
Ước nguyện thành sự thật, tôi mãn nguyện rồi!Có một giai thoại mà những người lính khi đó truyền nhau mãi. Vào năm 1974, trong một đợt hành quân, bà đã dùng dao rạch bụng cứu sống một đứa bé khi người mẹ bị bom dội chết.
Nghe tôi hỏi, bà chỉ tay lên tấm ảnh một người phụ nữ đang cười rạng rỡ bên đứa con trai bảo: "Nó đó!".
Lúc đó, bà là Tiểu đoàn trưởng. Gặp đợt oanh kích của giặc, cả tiểu đoàn chui hầm tránh bom. Khi chui ra khỏi hầm, bà phát hiện một người phụ nữ mang thai gần đến ngày sinh bị trúng bom đã tắt thở. Thấy thai nhi chòi đạp dữ dội, không chần chừ bà móc con dao găm nhỏ luôn mang sẵn bên mình rạch bụng người mẹ cứu đứa con. Không đành lòng mang đứa nhỏ đi cho, bà gởi người quen gần đó nuôi vài tháng rồi nhận lại đứa bé gái nuôi dưỡng đến ngày hôm nay.
Cô gái được bà đặt tên là Ngọc Hân, tốt nghiệp Đại học, hiện đang làm ở Ngân hàng Công thương tại TP.HCM. Vì việc học của con gái, bà đã bán nhà ở Kiên Giang, lên TP.HCM mua nhà sinh sống từ năm 1993 tại quận Tân Bình.
Bà được Nhà Nước phong tặng nhiều Huân chương và danh hiệu cao quý: Huân chương chiến công, Huân chương kháng chiến, Huân chương Độc lập… và Bà mẹ Việt Nam anh hùng trong đợt đầu tiên. Năm 1967, cùng với chị Út Tịch, bà được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang.
Tháng 4/1967, bà được ra Hà Nội gặp Bác Hồ, được Bác ưu ái tặng cho bà khẩu súng K54 làm kỷ niệm. Cuộc đời bà đã được nhà văn Bùi Hiển viết thành quyển sách “Cuộc đời tôi”. Bà suy nghĩ đơn giản rằng: “Hồi đó đi đánh giặc để giải phóng đất nước, mong cho đồng bào mình được sống trong cảnh thanh bình. Giờ ước nguyện đã thành sự thật, so với nhiều người khác, tôi may mắn còn sống đến ngày hôm nay. Đối với tôi như vậy đã mãn nguyện lắm rồi”.
Thanh Phúc