Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 06:14:12 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Nam Bộ - Những nhân vật một thời vang bóng  (Đọc 113159 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #10 vào lúc: 23 Tháng Bảy, 2010, 08:36:13 pm »

DƯƠNG BẠCH MAI VÀ CHỦ TRƯƠNG THƯƠNG THUYẾT VỚI CHÍNH PHỦ HỒ CHÍ MINH CỦA PHÁP



Dương Bạch Mai (1905- 1964) quê ở Bà Rịa từng du học ở Pháp, tham gia Đảng Việt Nam Độc lập, rồi vào Đảng Cộng sản Pháp cùng với nhiều sinh viên, trong đó có Nguyễn Văn Tạo. Năm 1929, ông sang Moscou học Đại học Staline cùng khóa với các ông Bùi Văn Thủ, Hà Huy Tập, Trần Ngọc Danh. Năm 1932, ông về nước hoạt động tại Sài Gòn, cộng tác cho báo La Cloche Fêlée, La Lutte, Mai, Dân Quyền, với các ông Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm. Năm 1936-1937, ông đứng chung Sổ lao động của báo La Lutte cùng với Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Nguyễn Văn Tạo ứng cử vào Hội đồng thành phố Sài Gòn, nhân danh Mặt trận Vô sản thống nhất và đắc cử. Sau Đông Dương đại hội, Pháp khủng bố bắt giam các chiến sĩ cách mạng, ông bị cưỡng bức lưu trú tại Cần Thơ. Năm 1939 , ông lại bị bắt đầy ra Côn Đảo với các ông Bùi Văn Thủ, Nguyễn Văn Tạo, Lê Hồng Phong, Lê Duẩn, Nguyễn An Ninh. Đến năm 1943, ông được thả và bị quản thúc tại Tân Uyên (Biên Hòa).

Tháng 8. 1945, ta cướp chính quyền, ông là Thanh tra Chính trị miền Đông trong Lâm ủy Hành chính Nam Bộ. Năm 1946, ông là thành viên trong phái đoàn Việt Nam sang Pháp dự hội nghị Fonlainebleau, sau đó cùng ông Trần Ngọc Danh ở lại Pháp, đại diện cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.


Người tù đặc biệt của Thống đốc Somalis
Thống đốc Djibouti, thủ đô của xứ Somalis là ông Siriex nhận được lệnh khẩn cấp từ Paris dạy phải giữ lại một hành khách quan trọng đi trên tàu Vercors khi tàu này ghé bến Djibouti từ Marseille về Đông Dương. Dương Bạch Mai là đại biểu của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Paris bị giải về Sài Gòn. Thống đốc Pual Henri Siriex thấy phân vân vì tháng 10.1946, ông đã được lệnh đón tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh đúng nghi lễ dành cho quốc khách khi chiến hạm Dumond d’ Urville ghé lại cảng Djibouti. Nay là tháng 4.1947, không đầy nửa năm mà tình hình xoay chiều ngược lại 180 độ. Một trung úy và hai cảnh binh xuống tàu Vercors áp giải đại diện của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Pháp lên bờ. Tuy lệnh trên không nói rõ, ông Siriex vẫn dành cho Dương Bạch Mai mọi ưu ái. Vì ông nghĩ các vụ bắt bớ chính trị thường có những diễn tiến bất ngờ nên phải thận trọng. Trên bàn viết của ông còn bức ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh ký tặng và lúc này còn nhiều đại biểu cộng sản trong chính phủ. Tuy chiến tranh đã nổ ra nhưng chưa có sự đoạn tuyệt ngoại giao giữa hai chính phủ và bằng chứng là tại Paris còn có một phái bộ của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoạt động bình thường mà Dương Bạch Mai là thành viên. Vả lại, chính phủ Ramadier còn nuôi hy vọng liên lạc với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nghĩ vậy nên thống đốc Djibouti không giam Dương Bạch Mai vào ngục đá mà mời tới ngụ tại nhà nghỉ mát Arta trên vùng núi đồi như là một chính khách bị quản thúc, có hai cảnh binh làm bạn đêm ngày.

Paul Reynaud, kẻ thù của Dương Bạch Mai
Ngày 13.3.1947, trong cuộc họp tại Quốc hội, do Paul Reynaud chủ trì sóng gió đã nổi lên. Cánh hữu đả kích dữ dội chủ trương thương thuyết với Hồ Chí Minh, Paul Reynaud, nguyên Thủ tướng, là người chống thương thuyết ác liệt. Ông ta đứng lên đọc hai bản tư liệu tố cáo Việt Minh để "cho Quốc hội sáng con mắt ra". Dưới đây là bản tóm tắt hai bản tư liệu đó:

Khi Hồ Chí Minh tới Fontainebleau ông đem theo hai đại biểu: Dương Bạch Mai, từng sang Nga với cái tên Bourov và Trần Ngọc Danh, cũng có tên Nga là Blokov. Khi Hồ Chí Minh về nước thì hai người này ở lại Paris, văn phòng họ tọa lạc tại đường Sainte Anne. Họ có bốn tùy viên báo chí.

Đại úy quân Pháp Gordon, công tố viên tòa án quân sự thường trực Sài Gòn đã có hai văn bản về Dương Bạch Mai.

Sau khi Nhật đầu hàng, Việt Minh phong Dương Bạch Mai, Thanh tra chính trị miền Đông. Với chức vụ đó, Dương Bạch Mai là con ác thú lên cơn (nguyên văn: béte féroce déchainée). Mai đã chỉ huy đánh phá chúng ta (thực dân Pháp - NH) trong tỉnh Bà Rịa và Long Thành. Mai bắt các người Pháp chủ đồn điền cao su làm con tin và sau đó ra lệnh thủ tiêu để cướp tài sản...

Trong khi Reynaud đọc thì dân biểu Legrendre chỉ lên tầng trên nói to:

- Tên đó có mặt tại đây, trên khán phòng thứ sáu.

Dân biểu Bougrain hét to:

- Đóng các cửa phòng họp! Ai phát thẻ cho tên đó vào đây? Đề nghị bắt ngay!

Đại biểu Piene Cot:

- Đã có lệnh bắt người ta chưa?

Dân biểu Flonmond Bonte:

- Có lệnh nào cho phép bắt người trong khu vực dành cho dân chúng? Phải tôn trọng tự do của nền Cộng hòa.

Chủ trì tuyên bố tạm ngưng một tiếng mười lăm phút.

Dương Bạch Mai vẫn bình tĩnh trong khi sóng gió nổi lên. Ông có quyền dự các phiên nhóm của Quốc hội với tư cách phóng viên báo chí của nước Việt Nam. Khi Quốc hội tái họp, ông vẫn ngồi ngay chỗ cũ. Trong khi ông thủ thế thì một người Pháp chồm tới, nói vào tai ông: "Ông cứ ngồi đây đừng bỏ đi đâu. Ở đây rất an toàn cho ông. Chốc nữa, tôi sẽ giúp ông ra khỏi nơi này". Người tốt bụng này là ai vậy? Không phải là đại biểu cộng sản mà là một tham biện từng làm Tỉnh trưởng ở thuộc địa. Tên ông là Jean Duplessis Kergomard, đã phục vụ lâu năm ở Đông Dương. Năm 1945, ông là Chánh văn phòng Cao ủy D’Argenlieu, nay về Pháp làm Tổng thư ký ủy ban Điều tra thái độ các tỉnh trưởng Pháp ở Đông Dương dưới thời chính phủ Vichy (của thống chế Pétain). Lúc ở Sài Gòn, ông có biết Dương Bạch Mai. Ông quả quyết Mai không phải là "con ác thú lên cơn", trái lại là một phần tử ôn hòa trong những ngày đẫm máu tháng tám và tháng chín 1945. Một viên chức khác từng ở Đông Dương, ông Bousquet giúp ông Mai thoát ra bằng một cửa nhỏ. Kergomard yểm trợ ông Mai lên xe và đưa về tận văn phòng đường Sainte Anne.

Cuộc họp tiếp tục. Paul Reynaud lại đọc tư liệu tố cáo Việt Minh. Phó Thủ tướng Mairice Thorez và Bộ trưởng Quốc phòng Francois Billoux đứng lên, ngang nhiên rời phòng họp. Reynaud tố Dương Bạch Mai giết các chủ sở cao su Pháp và cướp tiền của nạn nhân, như xử các anh em Tortel và Quintemet lấy nữ trang trị giá 40.000 và nửa tấn ngà voi. Cuối cùng anh ta kết luận: "Những vụ giết người cướp của đều do Hồ Chí Minh chủ mưu, cho nên chúng ta không thể thương thuyết với ông ta".

Thì ra đây là âm mưu của phe chủ chiến, đem vụ tố Dương Bạch Mai để đi tới kết luận là không thể thương thuyết với Việt Minh.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #11 vào lúc: 23 Tháng Bảy, 2010, 08:43:21 pm »

Dương Bạch Mai bị truy nã
Dương Bạch Mai mà Quốc hội Pháp làm xôm trò rốt cuộc có phải là "con ác thú lên cơn" như Paul Reynaud tố hay không? Xin giở hồ sơ mật ra xem:

Năm 1947, Mai được 44 tuổi và có một quá trình hoạt động đa dạng. Ông xuất thân trong một gia đình tư sản Nam Kỳ, đã học bên Pháp và có lối sống của người Âu, giao du thân mật với người Pháp. Ông có bà con với tướng Nguyễn Văn Xuân tốt nghiệp trường Bách khoa Pháp, nhân vật tên tuổi trong giới có tinh thần tự trị. Dương Bạch Mai là một người hấp thụ văn hóa Pháp, ông bắt đầu làm công chức, sau đó sang làm ngân hàng. Có một hay hai năm làm nhân viên tập sự Quỹ Tiết kiệm ở Paris, sau đó tiếp thu chủ nghĩa Mác. Bỏ ngân hàng ông sang Nga học Đại học Staline với cái lên Nga Bourov. Trở về nước vào lúc Đông Dương Đại Hội, ông hoạt động mạnh và đắc cử Hội đồng thành phố trong Sở Lao động. Năm 1938, thoái trào, ông bị Pháp bắt đầy ra Côn Đảo 7 năm. Cách mạng Tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc Công an và sinh hoạt với nhóm Văn hóa Mác-xít. Nhân vật tích cực trong nhóm này là ông André Canac, thuyền trưởng Jean Chesneaux, sau là giáo sư Sorbonne; bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Mai Văn Bộ... Trong thời gian đảm trách ngành công an, ông Mai đã thả nhiều người Pháp bị bắt oan. Sau khi quân Pháp chiếm Sài Gòn, ông Mai lên miền Đông. Nơi đây xảy ra nhiều vụ giết các chủ sở cao su Pháp mà nhà chức trách quy trách nhiệm cho ông Mai, lúc đó ông giữ chức Thanh tra Chính trị miền Đông. Do hồ sơ của ông không có nhiều vấn đề nghiêm trọng nên chính phủ Pháp thông qua danh sách phái đoàn thương thuyết Việt Nam, trong đó có ông. Sau đó, ông là phó đoàn đại biểu Việt Nam ở Pháp mà trưởng đoàn là Trần Ngọc Danh.

Paul Reynaud đả kích ông Mai vì nghe lời em vợ là ông Gassier, kỹ sư trưởng Sở Cầu đường Đông Dương, có liên hệ mật thiết với các chủ sở cao su bị giết. Vụ tố cáo này do nhóm chủ chiến giật dây. Thực dân nhằm phá chủ trương thương thuyết với Việt Minh đứng đầu là Cao ủy D’ Argenlieu.

Theo yêu cầu của Thủ tướng, lệnh truy nã từ Sài Gòn được gửi qua Paris. Khi cảnh sát tới văn phòng đường Sainte Anne bắt Dương Bạch Mai, tự Bourov thì con chim xanh đã bay tự bao giờ. Trốn có nghĩa là thú nhận? Hay là tìm nơi cất giấu tài liệu trước khi bị bắt? Theo điều tra thì được biết ông Mai đã xách hành lý ra ga vào lúc 22 giờ để đi Thioville. Mật thám đã khám giấy thông hành của ông. Từ đó có thể ông sang Bỉ. Đến Bruxelles thì mất dấu. Ông Mai đã mất tích về phía Đông. Báo chí Pháp viết là "Dương Bạch Mai đã chuồn, mang theo tất cả số nữ trang cướp của mấy chủ sở cao su bị hành quyết theo lệnh ông ta".

Trong đêm 18 rạng 19.3, Quốc hội nhóm, Paul Reynaud lại nêu lên chuyện Dương Bạch Mai tẩu thoát và nhấn mạnh: "Dương Bạch Mai đã giết ít nhất là năm người Pháp và nhiều người Việt, bạn của nước Pháp. Hai tư liệu tôi đọc trước Quốc hội không phải là các bài báo mà là văn bản của Tòa án quân sự Sài Gòn. Dương Bạch Mai trốn có nghĩa là anh ta nhìn nhận có tội. Cần ký lệnh truy nã".

Nhưng đùng một cái, sáng ngày 19 , báo Franc-Tireur đăng bài phỏng vấn Dương Bạch Mai tại Paris. Thì ra đồng chí Bourov đã trở về Paris sau chuyến du hí bên nước Bỉ.

Sáng ngày 20, Cảnh sát tới văn phòng đường Sainte Anne thì gặp ngay đồng chí. Mai được đưa về Cảnh sát cuộc Marseille để xuống tàu giải về tòa án quân sự Sài Gòn. Tàu Vercors sắp sửa nhổ neo.

Cao ủy Bollaert can thiệp
Lúc Dương Bạch Mai bị bắt, Cao ủy D’ Argenlieu sắp bị thay thế. Từ ngày 3.3, Thủ tướng Ramadier đã ký bổ nhiệm người thay. Theo gợi ý của tướng Leclerc, Cao ủy Đông Dương phải là một chính khách, ông Emile Bollaert. Bollaert là thượng nghị sĩ, nguyên Thứ trưởng, xuất thân công chức cao cấp. Trước khi sang Việt Nam, ông Bollaert chờ nhận các chỉ thị về chủ trương của chính phủ về chiến tranh Việt Nam. Lúc đó, Ramadier có xu hướng thương thuyết với các chính đảng trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp. Chính phủ muốn tìm một giải pháp trung dung giữa hai phe chủ chiến và chủ hòa trong quốc hội. Nhưng cái khó là thương thuyết với ai đây?

Đúng lúc đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên tiếng: "Nếu chính phủ Pháp chính thức tuyên bố nhìn nhận độc lập và thống nhất cho Việt Nam và bảo đảm thực hiện chính sách đó thì các vấn đề khác sẽ được giải quyết dễ dàng. Nước Pháp chỉ cần nói một tiếng để chấm dứt ngay các vụ thù nghịch, để tình hữu nghị và tin tưởng tái hiện. Nếu bất kể lòng mong mỏi, thành thực yêu chuộng hòa bình của chúng tôi, nước Pháp tiếp tục chiến tranh thì người Pháp sẽ mất hết tất cả mà không được gì, bởi chiến tranh chỉ đem lại hận thù của hai dân tộc. Chúng tôi yêu cầu chính phủ Pháp cho biết rõ ràng chính sách đối với Việt Nam".

Cùng trong ngày ấy, trưởng đoàn Trần Ngọc Danh tuyên bố sẵn sàng tiếp xúc chính phủ Pháp để tiếp tục các cuộc thương thuyết. Từ ngày 18, Chính phủ Hồ Chí Minh đã cải tổ để trấn an dư luận Pháp. Các phần tử ôn hòa được đưa vô chính phủ như ông Hoàng Minh Giám, trước ở trong đảng Xã hội Pháp SFIO, giờ là Bộ trưởng Ngoại giao.

Các chỉ thị giao cho Bollaert ngày 23.3, có xu hướng hòa giải. Cao ủy mới chủ trương thương thuyết với bất cứ ai, miễn là chịu ở trong Liên hiệp Pháp. Ngày 1.4.1947, Bollaert tới Sài Gòn, chọn Pierre Messmer từng là Ủy viên Cộng hòa Pháp ở Bắc Việt thay ông Sainteny và chủ trương thương thuyết với chính phủ Hồ Chí Minh. Bollaert chọn Giáo sư Mus làm cố vấn. Trong một tháng - tháng tư - Bollaert khuyến khích liên lạc với đối phương để xúc tiến thương thuyết.

Chính trong tình thế đó mà hồ sơ Dương Bạch Mai được ông Bollaert không quan tâm tới. Làm lớn chuyện, không ích gì mà còn trở ngại cho cố gắng thương thuyết. Vả lại, đọc sơ qua các cáo trạng, ông Bollaert cho là mơ hồ, không đủ sức thuyết phục, ông đòi cung cấp thêm bằng chứng, cần có thời gian. Cho nên, ông điện sang yêu cầu tạm giữ Dương Bạch Mai tại Djibouti. Sự có mặt của ông Mai tại Sài Gòn trong lúc này không có lợi gì.

Thế là ông Mai mà Paul Reynaud tố là "con ác thú lên cơn" ở lì tại nhà nghỉ mát trên vùng đồi núi Erta như dân giàu có lên Đà Lạt tránh nóng hè oi bức miền nhiệt đới. Nhưng ông Mai vẫn nghĩ tới ngày bị giải về Sài Gòn và ra tòa án quân sự. Ông viết thư cho cô bạn là luật sư trẻ ở Paris - cô Marie Louise Jacquier - Cachin là ái nữ lãnh tụ Đảng cộng sản Pháp Marcel Cachin. Ông Mai đề nghị cô Cachin sang Djibouti gặp ông để cô làm lý đoán biện hộ cho ông. Nhưng chuyến đi đó bất thành vì nhà cầm quyền Djibouti không có thẩm quyền cho phép luật sư gặp ông Mai, quyền đó thuộc về Sở Tư pháp Sài Gòn. Cô Cachin đành phải chờ ông Mai được giải về Sài Gòn để sang làm lý đoán biện hộ.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #12 vào lúc: 23 Tháng Bảy, 2010, 08:48:57 pm »

Dương Bạch Mai được xử êm
Bộ trưởng chiến tranh Coste-Floret sang Đông Dương ngày 26.4.1947. Ông là người chống thương thuyết với Hồ Chí Minh. Sang Việt Nam lần này, ông ta chỉ thị cho tướng Valluy thuyết phục Cao ủy Bollaert bỏ chủ trương thương thuyết với Hồ Chí Minh.

Valluy là tay háo thắng nên đưa ra điều kiện để ngưng bắn hết sức lố bịch như buộc đối phương giải giao 180 đại liên, 675 trung liên, 1.000 tiểu liên, 30.000 súng trường, các đại bác, bích kích pháo, máy vô tuyến... Tất cả khoảng 50% số vũ khí của Việt Minh, theo Sài Gòn ước lượng. Cùng với nhiều điều khoản khác hết sức vô lý, rõ ràng Valluy chỉ muốn đối phương đầu hàng.

Tất nhiên đối phương không trả lời Valuy, Bollaert liền nhờ giáo sư Mus tiếp xúc với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày 12.5, khi gặp Hồ Chủ tịch, Paul Mus đã nêu lên các điều kiện của Bộ Tham mưu Pháp. Hồ Chủ tịch đã trả lời một câu được ghi vào lịch sử: "Nếu chúng tôi chấp nhận những điều ấy chúng tôi là những kẻ hèn. Trong Liên hiệp Pháp mà giáo sư nói với tôi đó, không có chỗ nào dành cho những kẻ hèn" (nguyên văn: "Si nous acceptons cela, nous serions des lâches. Dans'l" Union Francaise, dont vous me parlez, il ne saurait y avoir de places pour les lâches).

Do bị tên háo thắng Valluy đầu độc, ông Bộ trưởng Chiến tranh Coste- Floret tuyên bố với báo Figaro về chuyến sang Việt Nam của ông ta: "Tôi nghĩ rằng không cần bàn về giải pháp quân sự ở Đông Dương. Các thành tựu của quân đội chúng ta thật toàn diện". Sự thật như thế nào? Valluy tăng cường quân lực cố thủ phía Bắc, rút quân từ Trung Bộ và Nam Bộ, hy sinh hai vùng này để tạo một thế mạnh giả tạo tại miền Bắc. Valluy còn nuôi tham vọng bao vây chiến khu Việt Bắc để chụp bắt Chính phủ Hồ Chí Minh. Valluy báo với Thủ tướng Pháp Ramadier về cuộc tấn công qui mô này. Thủ tướng Pháp đồng ý với điều kiện là chỉ tiến hành chiến dịch Lea này khi các thăm dò thương thuyết đều thất bại. Đúng vào lúc đó, Việt Minh lại cải tổ nội các, đưa các phần tử ôn hòa như ông Tạ Quang Bửu thay ông Võ Nguyên Giáp. Ông Bửu không phải là cộng sản mà là thủ lĩnh thanh niên có tinh thần quốc gia, rồi còn các ông Phan Kế Toại, một khâm sai đại thần trước kia, ông Hoàng Minh Giám...

Nằm trong nỗ lực kéo Việt Minh vào vòng thương thuyết, tháng 8.1947, Cao ủy Bollaert dự định đọc bản tuyên bố kêu gọi Việt Minh cộng tác với người Pháp mà các ý lớn đã được Chính phủ Pháp thông qua.

Bollaert dự định đọc lời tuyên bố vào ngày 15.8 và để tạo uy thế, sẽ ra lệnh quân đội Pháp ngưng bắn trong một thời gian. Mục đích là lôi kéo không chỉ riêng Việt Minh mà nhiều đảng phái vào hiệp nghị theo kiểu hội nghị bàn tròn. Bảo Đại cũng được mời trong hội nghị bàn tròn này. Đây là sáng kiến trung dung của Bollaert, đi giữa hai xu hướng đối địch - Léon Blum chỉ muốn thương thuyết với Hồ Chí Minh còn Phong trào Cộng hòa Bình dân (MRP) thì muốn đưa Việt Nam trở về chế độ quân chủ với Cựu hoàng Bảo Đại. Đám thực dân muốn có một nước Việt Nam có Bảo Đại làm Quốc trưởng và Hồ Chí Minh làm Thủ tướng.

Valluy phá Bollaert và muốn chụp bắt đầu não Việt Minh
Valluy tin vào chiến thắng gần kề nên không tán thành chủ trương thương thuyết của Bollaert mà ra sức tạo uy thế cho Bảo Đại để đánh bại uy thế Việt Minh. Ngày 24.7, Valluy triệu tập các tư lệnh hải, lục, không quân, nêu rõ chủ trương đánh vào đầu não Việt Minh để đâu đó chuẩn bị sẵn sàng. Sau đó, Valluy bay sang Paris tiếp xúc ba yếu nhân Georges Bidault, Pierre Henri Teitgen và Paul Coste-Floret để ba ông này can thiệp với Thủ tướng Ramadier, buộc triệu hồi Bollaert về và ra lệnh hoãn việc đọc lời tuyên bố tại Hà Đông.

Ngày 16.8, một cuộc họp liên bộ mở ra tại Điện Matignon, có mặt Cao ủy Bollaert và Tổng Tư lệnh Valluy. Bài diễn văn của Bollaert được phân tích và sửa chữa, cắt bỏ những từ quan trọng như ngưng bắn, độc lập. Không có vấn đề đơn phương ngưng bắn, cũng không có vấn đề độc lập, mà vẫn dùng từ mơ hồ là tự do như trước. Bài diễn văn mất phần hấp dẫn, nhưng Bollaert vốn là công chức quen phục tùng đành chấp nhận những cắt xén, tuy biết có đọc cũng không ai thèm nghe.

Năm ngày trước đó, Việt Minh lại một lần nữa vươn lên trong thế ngoại giao. Ngày 11.8, tại Bangkok, Trần Văn Giàu, đại diện Chính phủ Việt Nam tại Đông Nam Á đã gặp bộ truởng Pháp Pierre Étienne Gilbelt để thông báo các điều kiện thương thuyết của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Các điều kiện đó là thống nhất ba kỳ và Việt Nam độc lập trong Liên hiệp Pháp. Về quân sự, Việt Nam có quân đội với huấn luyện viên người Pháp và liên hệ chặt chẽ giữa các bộ tham mưu. Về ngoại giao, Việt Nam theo chính sách của Pháp trong Liên hiệp Pháp, có đại diện ở Trung Quốc và Thái Lan…

Bài diễn văn của Bouaert ngày 10.9 tại Hà Đông là một thất bại thảm thương. Nhưng đối với chính phủ Pháp thì nó vô nghĩa, bởi Pháp đã chọn giải pháp Bảo Đại. Người đề ra giải pháp này là ông Pignon ngày 18.8, Bảo Đại từ Hồng Kông lên tiếng sẵn sàng thương thuyết với Pháp. Liền sau đó, Thủ tướng Ramadier cho phép Valluy tiến hành cuộc hành quân đại qui mô, nhảy dù xuống Cao Bằng, Bắc Cạn chụp đầu não Việt Minh. Cuộc hành quân này không đem lại kết quả mong muốn.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #13 vào lúc: 23 Tháng Bảy, 2010, 08:51:47 pm »

Chặng chót cuộc hành trình gian khổ của Dương Bạch Mai
Hi vọng thương thuyết với Chủ tịch Hồ Chí Minh tan theo mây khói, Cao ủy Bollaert không còn ưu ái Dương Bạch Mai, tự Bourov. Tháng 10, có lệnh áp giải Dương Bạch Mai về Sài Gòn. Thống đốc Djibouti đưa ông Mai về Sài Gòn.Trớ trêu thay, người áp giải ông Mai lại là đồng chí Canac trong nhóm mác-xít Sài Gòn mà ông Mai từng sinh hoạt.

Ông Mai được giam giữ trong khám Chí Hòa. Ông yêu cầu chính quyền Sài Gòn cho phép luật sư Cachin sang biện hộ cho ông. Cô luật sư cộng sản trẻ tuổi này ở Sài Gòn suốt năm tháng để tranh đấu cho đồng chí Mai. Cô đã gặp Cao ủy Bollaert và được tiếp tử tế. Cô tỏ ý hài lòng vì chế độ thực dân ở Sài Gòn khá hơn bên Bắc Phi, còn nhìn nhận quyền bào chữa trong các vụ án chính trị.

Một Hiệp hội các bạn của Dương Bạch Mai được thành lập tại Sài Gòn, trong đó có rất nhiều người Pháp cánh tả. Nhiều người làm giấy chứng nhận trong thời kỳ nắm quyền Giám đốc Công an Sài Gòn, ông Mai rất ôn hòa, đã trả tự do cho nhiều người Pháp bị bắt oan. Cô Cachin đã thuyết phục được Cao ủy Bollaert dẹp hồ sơ thiếu bằng cớ thuyết phục (nguyên văn: un dossier mal étayé). Xong vụ kiện, cô Cachin bay về Paris vào tháng Giêng năm 1948. Biện lý Matrat, cấp bậc đại úy, chỉ tuyên án quản thúc ông Dương Bạch Mai tại Kontum. Hai tháng sau, ông Mai vượt ngục trở vô khu kháng chiến.

Cuộc đời hoạt động cách mạng của ông Mai kết thúc trong thầm lặng. Sức khỏe của ông suy yếu từ ngày ra Côn Đảo. Hoàn cảnh thiếu thốn trong chiến khu không cho phép ông gượng lại được. Một người gốc tư sản trí thức Nam Bộ, từng sống nhiều năm ở Pháp, khó thích nghi với cuộc sống chật vật lúc về già. Ông là một người cộng sản ôn hòa, chân chất. Ông rất nhớ quê hương Bà Rịa của ông. Có một thời gian ông hoạt động trong Hội Hữu nghị Việt - Xô và Hội Hữu nghị Việt - Pháp. Năm 1956, ông may mắn gặp lại các đồng chí Canac và Jean Deplessis Kergomard (người đã giúp ông thoát hiểm tại Quốc hội Pháp), lúc đó là đệ nhất cố vấn phái đoàn Tổng lãnh sự Pháp tại Hà Nội. Năm 1963, ông Mai từ trần, đám tang rất to, có Chủ tịch Hồ Chí Minh tới viếng.

Trong một lần dự giỗ của ông, có một vị lão thành tặng cho tôi quyển truyện ký của nhà báo, nhà văn Georges Chaffod, tựa là Simple historie du Camarede Bourov. Bài viết này căn cứ theo quyển sách trên.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #14 vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2010, 01:45:06 pm »

NGUYỄN VĂN TẠO HAI LẦN ĐẮC CỬ HỘI ĐỒNG TP. SÀI GÒN



Ông Tạo quê ở Gò Đen (Long An) du học ở Pháp, gia nhập Đảng Cộng sản Pháp, về nước ông viết báo và hoạt động chính trị, nhiều lần bị bắt giam.

Ông đắc cử Hội đồng thành phố Sài Gòn hai lần. Lần sau bị thực dân gian lận và bác bỏ kết quả sau đó bắt đầy ông ra Côn Đảo rồi đưa về căng Bà Rá. Năm 1946, ông Tạo ra Trung ương lãnh chức Bộ trưởng Lao động.


Ông Tạo là một trong số 19 sinh viên bị chính phủ Pháp đuổi về nước vì đã biểu tình trước Điện Élysée (dinh Tổng thống Pháp) để phản đối việc chính phủ thuộc địa tàn sát dã man nhân dân Yên Bái và xử tử 13 chiến sĩ Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học cầm đầu. 19 sinh viên yêu nước ấy là Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Giàu, Tạ Thu Thâu, Huỳnh Văn Phương, Lê Bá Cang, Ngô Quang Huy, Trần Văn Chiêu, Phan Văn Chính, Hồ Văn Ngà, Phan Văn Đơm, Trần Văn Tư, Đặng Bá Lân, Lê Thiếu Tự, Đặng Văn Phát, Vũ Liên, Nguyễn Văn Tân, Trịnh Văn Phú, Trương Duy Tam và Nguyễn Văn Đạm.

Ông Tạo quê Gò Đen, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Ông du học bên Pháp tại Lycée Mignet, tỉnh Aix en Provence, hoạt động chính trị và gia nhập đảng Cộng sản Pháp. Về nước, ông tiếp tục hoạt động tại Sài Gòn trong làng báo Việt và Pháp. Ông làm chủ bút báo Trung Lập, sau cộng tác với báo La Cloche Felée của ông Nguyễn An Ninh và các báo La Lutte, Dân Quyền, Mai. Năm 1936, ông tham gia phong trào Đông Dương Đại hội, sau đó bị Pháp bắt. Ông cùng các đồng chí tuyệt thực phản đối. Thực dân quản thúc ông tại Cần Thơ. Dù vậy ông vẫn viết bài cho báo Đuốc Nhà Nam trên Sài Gòn.

Năm sau 1937, được trả tự do, ông tham gia nhóm Tranh Đấu ứng cử Hội đồng thành phố Sài Gòn cùng với Dương Bạch Mai, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm và đắc cử.

Hai năm sau, ông lại ứng cử Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ cùng với nhóm Tranh Đấu. Nhóm ông thắng cử nhưng chính quyền thực dân gian lận. Ông và nhóm Tranh Đấu phản đối tới Toàn quyền và Quốc hội Pháp. Cuộc tranh đấu được bà con Hóc Môn, Tân An, Mỹ Tho ủng hộ, đồng thời đòi quyền dân chủ. Pháp nhân đó đàn áp và đày ông ra Côn Đảo từ năm 1940. Tới 1943, ông bị đưa về căng Bà Rá. Ngày 9.3.1945, Nhật đảo chính Pháp, anh em tù nhân đốt trại, quê ai nấy về. Ông Tạo về Sài Gòn tham gia hoạt động ráo riết để cướp chính quyền Sài Gòn vào ngày 25.8.1945.

Năm 1946, ông Tạo ra Trung ương giữ chức Bộ trưởng Lao động. Ông hoạt động tích cực và mất tại Hà Nội năm 1970, thọ 62 tuổi.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #15 vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2010, 01:57:51 pm »

NGUYỄN VĂN TRÂN NGUỜI CẢM HÓA GIANG HỒ BÌNH XUYÊN

Ông Nguyễn Văn Trân sinh năm 1908 tại Bình Đăng, sang Pháp học năm 1923 lúc 15 tuổi. Ông chuyển sang học nghề khi lên Paris và được Đảng cộng sản Pháp giới thiệu sang Nga học trường Staline(1927-1930).

Về nước ông hoạt động bí mật và bị lộ năm 1933. Ông bị quản thúc tại gia nhưng vẫn tiếp tục hoạt động như đi bán dầu cù là với chí sĩ Nguyễn An Ninh. Ông phụ trách nhóm giang hồ Bình Xuyên của thầy nghề võ Nguyễn Văn Mạnh (Tám Mạnh) đưa nhóm này tham gia Nam Kỳ khởi nghĩa và Nam Bộ kháng chiến.


Cậu học sinh Nguyễn Văn Trân mơ sang Pháp học, cậu xin mẹ tiền. Mẹ không có đủ, phải xin bà con mỗi người một ít. Tổng cộng được 118 đồng. Trân đưa cho ông Vân, thủy thủ tàu Porthos một trăm, còn lại sắm bộ đồ tây trắng. Trân xuống tàu Porthos vào tháng 7.1923, lúc 15 tuổi.

Trân sang Pháp đúng mùa hè nhưng thấy lạnh, phải hỏi mượn chăn bác Vân quấn cho ấm. Điều lạ lùng là đầu tiên, Trân thấy trên nước Pháp, dân nghèo cùng cực, phải moi thùng rác kiếm bánh mì hoặc vớt bánh mì trôi trên sông, vắt nước rồi chia nhau ăn. Thì ra dân Tây ở nước họ cũng nghèo khổ như dân mình.

Ông Vân giới thiệu Trân với nhóm Việt kiều ở Marsreille. Họ đưa Trân về Aix-en-provence, giới thiệu học trường trung học Mignet. Nội trú ba tháng là 1.500 quan (một đồng Đông Dương ăn 27 quan).

Tại đây, Trân quen với anh Nguyễn Văn Tạo; anh Phấn, cháu ông Võ Công Tồn ở Gò Đen; anh Trần Văn Hiển, con ông hương trưởng Hoài. Năm thứ ba, Trân xin học nghề.

Anh bắt đầu đọc báo Humanité và nghe diễn thuyết về chính trị, gia nhập Hội Cứu tế đỏ.

Lần đầu tiên Trân tham gia cuộc biểu tình chống Đốc phủ Vịnh lại Marseille. Vịnh là tay thân Pháp, sang Tây ký kết cho Pháp gia hạn quyền cai trị ở Việt Nam. Cuộc biểu tình này do Hiệp Hội bồi tàu tổ chức. Khi Vịnh tới bến tàu, nhạc Tây trỗi lên inh ỏi. Vịnh mặc áo dài, khăn be, ngực đầy mề đai đỏ rực. Một người Pháp chạy tới thoi vào mặt Vịnh.Dân chúng la ó vang rần. Lập tức người Pháp này bị bắt. Báo chí loan tin ngay. Đảng Cộng sản Pháp từ Paris xuống với các luật sư lấy tư liệu để biện bộ cho người này. Ba tháng sau, tòa đem ra xử. Luật sư cãi cho anh trắng án. Dân chúng vỗ tay hoan hô vang dội pháp đình.

Năm 1925,Trân tham gia thanh niên cộng sản Pháp bán báo Humanité, báo Paria. Những người lãnh đạo nhóm sinh viên Việt Nam có các ông Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, trạng sư Trịnh Đình Thảo, Võ Văn Lúa giành chức Chủ hội Học sinh Việt Nam với ông Trịnh Đình Thảo, bị đả đảo dữ dội. (Sau này giáo sư Lúa theo Tây, làm thông dịch cho phái đoàn Pháp tại Hội nghị Đà Lạt năm 1946). Năm 1927, kinh tế khủng hoảng lúa rẻ như bèo, gia đình gửi thư qua cho biết không có tiền cho Trân đóng học phí. Trân không về nước như gia đình gợi ý mà tiếp tục học ở Pháp, vừa học vừa kiếm việc làm. Trân lên Paris học vô tuyến điện và học vẽ. Đêm đi rải truyền đơn Đảng Cộng sản Pháp. Có lần phân phát truyền đơn vào giờ tan sở, các công nhân ra về, Trân bị cảnh sát bắt nhốt mấy tiếng đồng hồ.

Do hoạt động tích cực, Trân được kết nạp vô Đảng Cộng sản Pháp và thời gian sau, được giới thiệu sang Nga học trường Đại học Staline. Chuyến đi bí mật có nhiều tình tiết ly kỳ gấp trăm lần chuyến đi chui từ Sài Gòn qua Marseille mấy năm trước.

Trước tiên, anh Hoàng đưa Trân tới sứ quán Liên Xô làm hộ chiếu.

Giấy đề tên Trung Hoa ở Vân Nam. Trân phải học thuộc tên suốt thời gian sang Nga. Đúng vào lúc đó, ông Nguyễn An Ninh sang Pháp lần thứ hai, ghé báo Việt Nam Hồn Phục Quốc của Nguyễn Thế Truyền. Biết Trân sang Nga mà ít tiền, ông Ninh cho thêm 500 quan.

Hai anh Hoàng và Hiển đưa Trân tới ga. Ngồi trên tàu, Trân đóng vai công tử Vân Nam học vẽ, nay về quê. Tới bữa, có người mang cơm tới, Trân cứ việc ăn, hỏi trả tiền thì người đó cười, khoát tay. Tới Berlin, đã có người đón tại sở phiên dịch kế nhà ga. Ở Berlin vài ngày, Trân được đưa sang Ba Lan. Tại thủ đô Varsovie, Trân gặp phái đoàn Đảng Cộng sản Pháp qua Nga dự lễ Cách Mạng Tháng Mười , họ được lệnh cho Trân nhập đoàn dự lễ trước khi vô trường học.

Phái đoàn Pháp, trong đó có Trân, được Nga đón tiếp long trọng. Một kỷ niệm khó quên là trong dịp này, Trân được Ban tổ chức yêu cầu phát biểu vắn tắt về Việt Nam với Cách Mạng Tháng Mười. Hàng ngàn người dán mắt vào Trân đang ngồi trên bàn chủ tịch đoàn. Cố trấn tĩnh, Trân nói mấy câu tiếng Việt để được dịch ra tiếng Nga: "Tôi là người Việt Nam, là dân mất nước, bị áp bức bóc lột. Chúng tôi được Đảng Cộng sản Pháp cử đến dự lễ kỷ niệm Cách Mạng Tháng Mười năm thứ mười. Tôi thấy vinh dự cho người Cộng sản chúng tôi. Chúng tôi rất hoan nghênh Cách Mạng Tháng Mười. Nhờ Lénine mở đường cho chúng tôi học tập để sau này giải phóng dân tộc chúng tôi". Hội trường hoan hô khoảng 15 phút. Còn Trân thì quá xúc động đến "hết hồn, hết vía".

Ngày hôm sau, Trần Phú tới chào Trân và yêu cầu Trân viết tiểu sử, quá trình hoạt động, tại sao qua học với mục đích gì.

Tuần sau, Trần Phú dẫn Trân tới Quốc tế Cộng sản nhận giấy giới thiệu về trường.

Cùng khóa với Bảy Trân có các học viên Nguyễn Thế Rục, Ngô Đức Trì, Bùi Công Trừng, Trần Phú, Bùi Lâm, Nguyễn Khánh Toàn, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Trần Ngọc Danh, Dương Bạch Mai, Trần Đình Long, Bùi Ái.

Trong số này, Lê Hồng Phong là Đại úy phi công Liên Xô, Trần Phú là phiên dịch tiếng Nga.

Khi Trần Phú và Ngô Đức Trì về nước, sau ba năm. Trân làm tổ trưởng thay Trần Phú. Tiếng Nga của Trân cũng khá nhờ quyết tâm học với cô vợ Nga. Trân được mời đi nói chuyện với công nhân Nga và dịch các tài liệu.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #16 vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2010, 02:05:14 pm »

Mùa hè năm 1930, Trân được Quốc tế Cộng sản phân công trở về công tác. Đi bí mật, ông về càng bí mật hơn. Trân được cấp một vali hai đáy có nhiệm vụ đưa về nước hóa chất in tài liệu và 3 ngàn đồng Đông Dương dùng làm quỹ hoạt động cho Đảng. Khi đi, nếu lính lục xét phải mau đập vô lọ hóa chất, không để rơi vào tay địch, đồ đạc trong vali là tài liệu tối mật, không được mở ra xem dọc đường.

Cùng về nước một lượt với Trân là Bùi Công Trừng. Cả hai cùng đi một chuyến tàu nhưng làm như người lạ. Tới Leningrad, một người đón hai anh. Xem ra thì người này cùng đi một toa với anh nhưng giữ bí mật. Ở khách sạn sang, ăn ngày ba bốn lần, dư tiền, hai anh em Trân, Trừng đi viếng các danh lam thắng cảnh. Vài tuần sau, có xe tới đón, đưa xuống tàu biển chạy qua Hambourg (Đức) với sự hướng dẫn của một phụ nữ. Chị này thân mật khuyên Trân ăn nhiều để có sức khỏe đi đường. Bến tàu Hambourg của Đức lớn hơn Marseille nhiều. Tới Hambourg, thuyền trưởng tàu Liên Xô bắt tay Trân và Trừng nói: "Nhiệm vụ tôi đã hoàn thành. Chúc các đồng chí tiếp tục cuộc hành trình bình an vô sự”. Tại bến cảng, một xe chở hai đồng chí Việt Nam tới khách sạn. Một người Đức nói tiếng Pháp tiếp hai anh và giao vé xe đi từ Hambourg đến Berlin. Tại Berlin cũng có người đón, đưa về nhà, căn dặn không được đi dạo phố, phải nói tiếng Pháp, không được nói tiếng Việt hay Nga. Vài tuần sau, có liên lạc đưa qua Bruxelles, Bỉ. Xe lửa chạy cả ngày đêm. Dân Bỉ nói tiếng Pháp nên hai anh thấy dễ chịu. Hai anh ngụ tại nhà một bác sĩ Bỉ có nhiệm vụ đưa khách qua biên giới Pháp. Trên đường đi, bác sĩ bố trí vợ con ngồi bao bọc hai anh, đề phòng lính cảnh sát chặn xe xét hỏi. Gần tới trạm gác biên giới, bác sĩ dừng xe cho hai anh xuống đi bộ qua biên giới, đi thật tự nhiên. Còn ông ta thì móc thuốc mời lính trong chòi canh hút.

Qua khỏi ranh giới, hai anh được một xe chờ sẵn. Xe phóng nhanh tới một nhà trong đồng, vào nhà thì thấy bữa ăn đã dọn sẵn. Ăn xong, mỗi người được tặng hai bộ quần áo. Chủ nhà nói: "Các anh hoạt động bí mật. Còn một trạm này nữa là tới nơi an toàn. Chặng này hơi khó. Vậy hai anh chịu khó ngồi xe chở heo. Nếu cảnh sát chặn xe hỏi giấy tờ thì hai anh cứ đập cho heo kêu lên inh ỏi. Bọn lính sẽ bực mà cho xe chúng ta đi cho xong việc". Đúng như lời dặn, khi xe bị lính thổi còi chặn xét, hai anh đạp mấy con heo khiến chúng la hét om sòm. Bọn lính xem xét qua loa, trả lại giấy tờ xe, khoát tay cho xe chạy. Không bao lâu, xe chở heo tới một nhà quen. Chủ xe cười bảo hai anh vô nhà tắm gội, thay đồ để đi tiếp tới ga xe lửa về Paris. Tắm xà phòng thơm, mặc bộ đồ mới, Trân thấy mình đẹp trai và dễ chịu. Một chiếc xe sang đưa hai anh tới anh ga, có sẵn hai vé hạng nhất. Đi suốt đêm thì tới Paris, ăn mặc sang trọng, ngồi toa hạng nhất, hai anh là dân Paris nên rất tự tin. Không một lính cảnh sát nào hỏi giấy hai người. Lên taxi tới hiệu cà phê sang gần nhất, Trân dùng điện thoại liên lạc với văn phòng Đảng Cộng sản. Mười phút sau, có người tới đưa về văn phòng. Tại đây, có chỉ thị cho hai anh: "Đến quán Biancourt, có phòng ngủ gần đó, ăn ngủ trong phòng, không nên đi chơi và giao thiệp với người Việt đề phòng lính kín. Giấy tờ các anh gửi trước khi qua Nga, chúng tôi giữ kỹ. Khi nào các anh về nước, sẽ giao lại cho các anh".

Vé tàu đã được mua trước, Trân và Trừng xuống Marseille. Trước khi rời Paris, Trân nhận lại đồ đạc của mình. Anh châm lửa đốt tất cả hình ảnh chụp ở Paris, vì thấy đưa chúng về nước không có lợi.

Tới Marseille thì Trân và Trừng làm mặt lạ, như là không hề quen biết nhau. Mỗi người được bố trí khác nơi.

Trân được bố trí dưới hầm tàu, chung quanh chất đầy rương và vali, ngồi dậy thì đầu đụng trần, phía bên có cửa kính tròn. Ăn cơm xong, anh mở cửa ném tất cả xuống biển; đi tiêu cũng cho vào giấy, vứt xuống biển. Bồi tàu là người Hoa nói tiếng Việt rất rành. Anh ta đưa Trân lên boong tàu để thở và đi tắm vào ban đêm. Phải chịu đựng cảnh bị cầm tù trong phòng cầm cố mấy tuần, thật vất vả. Khi tàu tới Khánh Hội, Trân nôn nóng muốn xuống ngay bến. Nhưng thuyền trưởng thận trọng bảo: "Chớ nôn nóng. Chờ mọi người lên hết rồi, đầu hôm tôi sẽ hộ tống anh bạn trẻ lên bến". Cùng lúc đó, anh bồi bảo Trân : "Đồ của anh cứ để trên tàu. Tàu đi qua Nhật rồi quay trở lại, chừng đó anh cho người tới lấy thì tiện hơn lấy ngay đêm nay. Anh nên xuống mình không, chỉ đem theo những thứ thật cần thiết".

Đúng 9 giờ đêm, thuyền trưởng ăn mặc chỉnh tề, đeo lon trung tá hàng hải, cặp tay Trân lên bến cảng Nhà Rồng. Hai người vừa đi vừa nói chuyện thân mật trước mắt đám lính kín ngồi lố nhố ở các quán cà phê trước bến cảng. Đưa Trân tới cầu Quay (nay là Bến Nghé), thuyền trưởng dừng lại, bắt tay Trân, cười nói: "Tôi đã làm xong nhiệm vụ với đồng chí. Xin chúc đồng chí hoạt động được nhiều kết quả".

Trân sang Pháp năm 1923, đến 1930 về nước. Tám năm ròng xa gia đình, xa quê hương, nay trở về Trân nghe lòng lâng lâng xúc động. Sài Gòn trở nên lạ lẫm, nhà cửa mọc lên như nấm, lại có xe điện chạy giữa thành phố nối liền Sài Gòn-Chợ Lớn. Trân gọi xe kéo đến bến xe Chợ Lớn ở đường Tổng đốc Phương (Châu Văn Liêm). Mười giờ đêm, bến xe sáng trưng, rất đông người. Trân bao một chiếc, bảo tài xế đi Gò Công, nhưng tới Phú Lạc thì xuống. Tài xế cự nự nhưng Trân cười, đưa đủ số tiền bao xe đi Gò Công. Tài xế cám ơn rối rít, quay xe trở về Chợ Lớn. Đó là cách giữ bí mật đánh lạc hướng bọn lính kín và điểm chỉ ở bến xe.

Dù ban đêm, Trân vẫn cố quan sát tình hình. Lúc xe qua cầu Mới (nay là cầu Nhị Thiên Đường), lính chặn xe lại xét, tài xế trình giấy tờ. Lính ngó Trân lom lom. Trân hơi chột dạ nhưng làm tỉnh móc túi lấy bao thuốc thơm Lạc Đà mời : "Đêm lạnh, thầy đội hút một điếu cho ấm". Anh bật đốt thuốc cho tên lính. Thấy khách sang trọng lại lịch sự, tên lính khoát tay cho xe qua. Trân suy nghĩ: Các tin tức cho biết Pháp đang khủng bố các cuộc đấu tranh giành quyền dân sinh, dân chủ. Việc canh gác ở các ngã tư rất nghiêm ngặt. Mình cần thận trọng. Nghĩ lại mới thấy công tác bảo vệ cán bộ của Quốc tế Cộng sản từ Pháp sang Nga thật là chu đáo. Đó là bài học vỡ lòng, công tác bí mật mà Trân học được trong chuyến sang Nga và trở về nước.

Trân chờ tài xế quay về nơi đi bộ vài trăm thước, gọi một người đang cất vó tôm lại hỏi nhà người dì, bất ngờ người đó là Ba Cường, con của dì. Trân nhờ Ba Cường đưa về nhà dì. Dì không nhận ra cháu. Trân ôm dì nói: "Con là Trân đây mà". Dì đẩy Trân ra nhìn một lúc rồi kêu lên: "Té ra mầy còn sống. Ở nhà, ai cũng tưởng mày chết, vì năm, bảy năm qua không có thư từ gì. Tội nghiệp má mày, ngày nào cũng cúng cơm mầy".

Trân giao các món quốc cấm nhờ Ba Cường cất giấu và mượn chiếc áo thầy tu của Ba Cường mặc vô, bảo: "Có ai hỏi tôi thì anh nói có ông lễ sanh từ Tây Ninh xuống". Sau khi bố trí cho mình một vỏ bọc tương đối an toàn, Trân mới nhờ Ba Cường mời mẹ anh tới gặp anh. Cẩn thận như vậy vì nhiều lý do. Mẹ anh già yếu, dễ xúc động. Anh cũng ngại về nhà mẹ vì có thể gây sự chú ý của những kẻ tò mò, Trân vô cùng chua xót khi thấy mẹ bệnh hoạn, ốm o. Bà bị đau bao tử, bán hết đồ đạc chữa trị mà không hết. Bà cũng không nhận ra Trân... Thế mới biết, trong tám năm ở Pháp, Trân từ cậu bé quê mùa đã lớn lên thành một thanh niên to cao, đến mẹ mà cũng không nhận ra. Trân cho mẹ 100 đồng để lo thuốc thang trị bệnh. Bà mẹ cứ nhìn Trân lạ lẫm: "Mầy làm gì mà bây giờ sang trọng, giàu có như vậy?". Trân chỉ cười chứ không dám nói thật mình đã là cán bộ cộng sản chuyên nghiệp, được đào tạo tận bên Nga về.

Xong chuyện tình cảm, thấm thoát đã tới ngày tàu Porthos từ Nhật cập bến Nhà Rồng. Trân nhờ Tư Ó là em Ba Cường tới bến tàu nhận vali của anh. Sau đó, nhờ Tư Ó tới nơi Bùi Lâm ở để giao các món hàng quốc cấm. Việc liên lạc gặp trục trặc, Trân không thể ở lỳ Phú Lạc được nên nhờ Ba Cường đưa lên Tòa thánh Tây Ninh giới thiệu để học đạo và làm công quả.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #17 vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2010, 02:11:24 pm »

Việc chọn Tòa thánh Tây Ninh làm nơi trú ẩn của Bảy Trân rất có ý nghĩa. Trước nhất, đạo Cao Đài đang bành trướng mạnh khắp Nam Kỳ lục tỉnh. Đạo còn vươn tới Campuchia và Trung Kỳ nữa. Đó là nơi Trân vừa ẩn náu vừa tìm hiểu đạo Cao Đài. Khi Ba Cường giới thiệu Bảy Trân với Giáo tông Lê Văn Trung, Trân trình bày rằng mình là sinh viên từ Pháp về, nghe nói đạo Cao Đài là đạo mới có sức bành trướng mạnh đến giáo hội Thiên chúa giáo cũng lo ngại, nên anh quyết tâm tới tận nơi để tìm hiểu giáo lý của đạo. Giáo tông thấy Trân đẹp trai, học giỏi, biết đánh máy chữ, liền thâu nhận ngay.

Tòa thánh Tây Ninh có thư viện lớn, Bảy Trân tha hồ nghiên cứu. Nhưng anh không thấy giáo lý thích hợp với mình, một người đã tiếp thu chủ nghĩa Marx. Trân cũng nhận thấy một số chức sắc có sinh hoạt không thực hiện đúng với những điều Đấng Chí Tôn răn dạy. Từ đó, anh không nghiên cứu đạo lý nữa mà xoay qua tiếp xúc với mấy chục nhân viên ấn loát Tòa thánh có một nhà in lớn để in kinh kệ, thánh ngôn của Đức Chí Tôn và các vị Tiên Thánh giáng cơ trong các buổi hầu đàn. Phụ trách nhà in là giáo hữu Non, rất mê Bảy Trân kể chuyện bên Tây. Nhờ vậy, Trân lần mò tranh thủ được giáo hữu Non và anh em án công.

Ngày kia, Tư Ó báo tin Bùi Lâm muốn gặp Bảy Trân trên chùa Bà ở núi Bà Đen. Bùi Lâm cùng học một khóa với Bảy Trân ở bên Nga và được Quốc tế Cộng sản giao trách nhiệm quản lý tiền bạc và hóa chất in ấn. Hai người gặp nhau trên núi, Trân hẹn ngày giờ và địa điểm để giao tiền và hóa chất cho Bùi Lâm. Địa điểm là đình Phú Lạc, lúc bấy giờ đã biến thành chùa Cao Đài. Cũng trong dịp này, Bùi Lâm bố trí Bảy Trân công tác tại Xứ ủy Nam Kỳ mà văn phòng đóng tại đường Hamelin (về sau, chế độ cũ  đổi tên đường là Hồ Văn Ngà).

Bảy Trân giã từ Thánh thất Tây Ninh để tới đường Hamelin nhận công tác mới: phụ trách Đặc ủy Hậu Giang. Ngày ấy, ba ủy viên thường trực Xứ ủy Nam Kỳ ở đường Hamelin là Ngô Đức Trì, Nguyễn Văn Tây và Nguyễn Văn Kỉnh. Ngô Đức Trì cùng học ở Nga với Bảy Trân.

Đầu năm 1931, Bảy Trân xuống Chợ Mới, Long Xuyên (An Giang) phụ trách đặc ủy Hậu Giang. Chuyện nhớ đời là vừa tới nơi, Trân bị kiết lỵ. Phải mất cả tuần chữa trị, Trân mới đẩy lui được bệnh. Tuy yếu sức, Bảy Trân cũng mở khóa chính trị đào tạo cán bộ cơ sở. Lớp học mở tại Chợ Mới. Số học viên mười mấy anh gồm có Sún, Cựa, Gù, Phẩm... Dạy nửa chừng thì thiếu vải sơn (để kẻ khẩu hiệu), giấy mực để in tài liệu, Trân phải về Phú Lạc xin tiền mua sắm các thứ. Chừng trở xuống Chợ Mới, tới lớp học là nhà anh Sún thì thấy dàn bầu trước cửa bị sập, nhà đóng cửa kín mít. Biết có biến, Bảy Trân đi thẳng tới chùa. Tại đây, một tiểu đồng báo tin dữ: "Ông ơi, thầy tôi bị lính bắt rồi. Lính kín đang nằm trong nhà. Ông đi gấp đi". Bảy Trân giao văn phòng phẩm cho cậu bé, dặn cất kỹ rồi quay trở về chùa Phú Lạc.

Vừa về tới Phú Lạc, Trân được dì Bảy cho xem một bức thư của phụ nữ lạ tới nhờ trao lại cho Xồi. Xồi là bí danh mà ba anh ở văn phòng Xứ ủy Hamelin đặt cho Trân. Bức thư báo tin chẳng lành: "Anh em bị bắt hết rồi. Mầy phải tìm gặp chị Sáu Điếc và Thành ủy ở Bà Chiểu. Ký tên: Tây".

Đã được báo trước Bảy Trân đề cao cảnh giác. Xế chiều ngày kia, Trân nghe tiếng xe hơi đậu ngoài bờ đường làng. Trân nhanh chân chạy ra đồng, cặp mé dừa nước băng qua đập, tìm xe chạy qua Cần Giuộc. Sau đó nghe tin, biết một liên lạc của Tỉnh ủy Chợ Lớn là Lưu Đinh Tứ bị bắt, dẫn lính tới bắt Bảy Trân. Trân tìm anh thợ mộc Năm Tuấn nhờ đưa tới chị Sáu Điếc như anh Tây dặn trong thư. Năm Tuấn chủ quan, không đưa Trân đi gặp ngay giáo Long (Hồ Văn Long) - Bí thư Tỉnh ủy Long An, đợi sáng sẽ đi. Nào ngờ nửa đêm, lính kín ập vào nhà, Trân bỏ chạy, bị bắn nơi chân. Không chạy thoát, anh lủi xuống bùn nhưng cũng bị bắt lôi lên xối nước rửa mặt để xem có phải giáo Long không. Xong, chúng kéo lên đưa về bót Pôlô. Bọn đồ tể ra tay tra khảo, Bảy Trân khai đến Năm Tuấn đặt đóng ghe chài. Năm Tuấn cũng bị đánh rất đau. Không chịu nổi đòn tra, Tuấn chịu đưa đi bắt giáo Long. Anh đưa đi lòng vòng từ Chợ Trạm tới Chợ Đào hết cả đêm để tranh thủ thời gian cho giáo Long trốn. Chừng biết mình bị lừa, bọn lính đánh Tuấn chết đi sống lại.

Riêng về Bảy Trân thì cứ khai mình là người Tàu theo giấy thuế thân giả. Ba anh thường trực văn phòng Xứ ủy Hamelin đặt tên anh là Xồi. Còn anh em Đặc ủy Hậu Giang gọi anh là Thành.

Có một nhân vật mà Bảy Trân nhớ mãi trong bót Pôlô. Anh này là người miền Trung, tên Tư Chí. Ở bót Pôlô, Tư Chí có nhiệm vụ đưa cơm cho tù. Đối với tù, anh rất tử tế, đôi khi lén mua bánh mì cho tù nhân khi không có thầy chú. Dễ sợ nhất là hai tên đao phủ Ngọc và Sung... Trân bị hai tên này đánh chảy máu mắt và trật bả vai.

Tư Chí thầm bảo Trân: "Chớ khai thêm. Nó sẽ thả anh trong nay mai". Nhưng sau đó, xếp Campana đá Trân một cái, nói: "Tao biết mầy là ai rồi". Anh ta ra lệnh cho Ngọc và Sung đánh tới tấp. “Mầy khai láo. Cho mầy chết!". Bảy Trân bất tỉnh nhưng khi tỉnh lại vẫn không khai. Chừng đó chúng mới đưa tập ảnh anh em chụp ở Nga. Đủ cả. “Mầy đây nè, tên Nga đàng hoàng, Pirgomy. Còn đây là Ngô Đức Trì... tên Nga là Lemeh, phải không?”.

Đúng là anh em cùng khóa với Trân. Nhà trường đã giữ các tấm ảnh lại không cho ai mang về nước. Tại sao địch có cả xấp thế này? Chắc là có giòi trong xương rồi.

Dù vậy, Trân cũng không nhận người trong ảnh là mình: “Người giống người thiếu gì? Ai khai tôi, xin cho tôi đối chất".

Xếp Campana liền đẩy Ngô Đức Trì vô phòng điều tra. Trì sượng sùng nói. "Tao bị đánh chết đi sống lại, không chịu nổi nên khai hết. Tao xin lỗi mầy”.

Chừng đó, Trân mới bật tiếng Tây nói với Campana:

- Đúng, người trong ảnh là tôi. Tôi học ở Pháp rồi qua Nga. Từ ngày về nước, đau lên đau xuống, không làm gì được. Những người nông dân mà tôi ở nhờ không biết lôi làm chính trị.

Xếp Campana truy tới cùng. Trân lựa lời khai sao cho hợp tình hợp lý. Ở bót Pôlô 6 tháng, Trân được giải qua Khám Lớn Sài Gòn vào đầu năm 1932. Trân bị giam ở Khám 2. Vào đây thì gặp Ung Văn Khiêm và nhiều đồng chí khác. Thấy Trân nói tiếng Tây khá, anh em bầu Trân làm đại diện tranh đấu xin muối ăn, xin xà bông tắm, không ăn cá nhớt, khô mục. Nói chung là đòi cải thiện đời sống trong tù. Tây không nhượng bộ, anh em bãi thực. Trân bị bắt đưa ra khám anh Ninh. Anh Nguyễn An Ninh đậu cử nhân Luật bên Pháp,đang học thêm để lấy bằng tiến sĩ về nước làm báo. Tờ La Cloche fêlée (Tiếng Chuông Rè) của anh có mục đích nâng cao dân trí, đồng thời tranh đấu cải thiện dân sinh dân chủ, tố cáo hành vi ngu dân, xây nhà tù nhiều hơn trường học. Thực dân tìm cách bóp chết tờ báo. Ông Ninh xoay qua lập hội kín. Anh Ninh bị giam riêng một khám, vì sợ nhốt chung, nhiều nguời sẽ được anh tuyên truyền giáo dục làm quốc sự.Trân gặp anh Ninh như cá gặp nước. Hai anh đã quen nhau ở Pháp,còn nhớ anh Ninh đã tặng Trân 500 quan lúc Trân sang Nga. Ở khám chung với Ninh một tháng Trân tiếp tục tranh đấu, Tây nhốt cát-sô hai tháng. Ăn cơm lạt một tháng đầu,sau đó về khám chung với anh Ninh cho tới ngày ra tòa.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #18 vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2010, 02:15:57 pm »

Lần lượt những anh học chung khóa với Trân đều bị bắt, giải vô khám Sài Gòn. Trước khi ra tòa, anh em được biện lý gọi lên lấy lời khai thêm. Bảy Trân cứ giữ lời khai cũ, trước sau như một. Biện lý quen thói chửi Cộng sản giết người cướp của, xúc lúa bắt heo. Bảy Trân cười nói: "Chuyện đó tôi không hề thấy. Tôi qua Pháp từ 14 tuổi, học văn hóa Pháp, sống trong nhà người Pháp,có mẹ đỡ đầu là nguời Pháp, theo cộng sản nhờ đọc báo Humanité của người Pháp. Tôi yêu nước Pháp như quê hương thứ hai của mình. Tôi kính trọng nhân dân tôi. Tôi chỉ chống những nguời bóc lột,hà hiếp nhân dân tôi".

Biện lý gục gặc rồi hỏi tiếp:

- Nếu thả ra, anh có tiếp tục làm Cộng sản nữa không?

- Câu hỏi của ông khó trả lời. Nếu tôi nói không thì ông cũng không tin. Đã là con người, ai cũng muốn tự do, không ai muốn tù tội. Tôi có làm Cộng sản nữa hay không là do hòan cảnh thúc bách của con người. Còn đàn áp thì còn đấu tranh. Đó là chân lý. Vì vậy mà câu hỏi của ông khó trả lời.

Về Khám Lớn, Trân kể lại cuộc đấu lý với biện lý, các anh em nhận định: "Tòa sẽ không buộc tội Trân nặng vì chỉ có một mình Ngô Đức Trì khai cho Trân mà thôi.Trả lời khôn khéo như vậy, chắc là sẽ ra truớc tụi tao. Nhớ ra rồi thì liên lạc hoạt động lại. Nên tiếp xúc với Tư Chí, vì nó là nguời tốt dù là nhân viên bót Pôlô”.

Một sáng đẹp trời, Trân được đưa qua Catinat làm giấy tờ quản thúc tại gia.Vậy là Trân được thả sau 9 tháng 9 ngày. Pháp bắt buộc Trân về ngụ tại Đa Phước, nơi nhà mẹ ruột, mỗi tuần phải trình diện Đốc phủ quận trưởng Chợ Lớn,mỗi tháng trình diện Tham biện chủ tỉnh, ra khỏi xã phải xin phép. Mấy tháng đầu,Trân tới trình diện quận và tỉnh, nhưng về sau thì lờ luôn. Khi nào bị hạch hỏi thì khai bệnh hoặc không tiền đi xe, không quần áo đàng hoàng để đi hầu quan lớn.

Nhiều đảng viên tới tìm Trân để nhờ chỉ dạy hoạt động, Trân khuyên họ phải hết sức thận trọng, khi thật cần mới đến vì anh đang bị làng lính dòm ngó.

Thời gian sau, anh đi bán dầu cù là với ông Nguyễn An Ninh. Đó là cách tuyên truyền trực tiếp với dân quê, vì tới chợ nào, ông Ninh cũng nói chuyện tình hình thế giới và trong nước cho dân nghe trước khi mời họ mua cù là. Cách nói chuyện của ông Ninh rất vui và hấp dẫn, ai cũng muốn nghe. Một ông tiến sĩ luật về nước mà không làm quan tòa hay trạng sư, lại đi làm báo, bán báo, bây giờ lại đạp xe đi bán dầu cù là khắp làng quê, xóm vắng là một hiện tượng lạ lùng, ai cũng có cảm tình và ráp nhau mua cù là ủng hộ.

Khi có anh Trân cùng đạp xe bán cù là thì ông Ninh rất vui vì có bạn đồng hành, lại là đồng tâm, đồng chí. Có bạn tâm đồng, đường dài hóa ngắn. Hai anh đi xe đạp từ Long Thành, Bà Rịa rồi Long Hải, có tiền thì ăn quán sang, ngủ nhà ngủ, không tiền thì ăn cơm trong chợ, ngủ trong chùa. Cuộc sống cơ cực nhưng vui vì lúc còn là sinh viên bên Pháp, hai người đã từng đi cắm trại hè khắp vùng quê. Trong những đêm không ngủ, ông Ninh tâm tình với ông Trân : "Xu thế của xã hội ngày càng tiến lên, tinh thần quốc gia nhỏ bé sẽ nhường bướ trước tinh thần quốc tế bao la. Tao sẽ giao cho mầy các đảng viên thanh niên cao vọng của tao để mầy chuyển họ sang lý tuởng cộng sản".

Nghe ông Ninh tâm tình như vậy, Trân khuyên ông gia nhập Đảng Cộng sản. Ông Ninh nói: "Để tao ở ngoài có lợi hơn cho phong trào. Với tư cách nhà trí thức yêu nước, tiếng nói của tao có tác dụng lớn hơn".

Bảy Trân đi bán dầu cù là với ông Ninh từ năm 1933 tới năm 1936. Trong khi đi bán cù là, Trân vẫn tiếp tục đào tạo cán bộ cho Xứ ủy. Ngoài ra, Trân còn giúp đỡ tiền bạc cho anh Nguyễn Văn Tạo khi anh này về nước chưa tạo được chân đứng vững vàng.

Có anh thanh niên Nguyễn Văn Trấn, quê Chợ Đệm làm báo Dân Chúng cũng tìm tới anh Bảy Trân để được bồi dưỡng về chính trị. Trân giới thiệu anh bạn trẻ Trấn với anh Tạo để dìu dắt trở thành nhà báo tài năng.

Trong nhiều năm, Bảy Trân là sợi dây liên lạc giữa trung ương, Xứ ủy với hai anh Nguyễn Văn Tạo và Dương Bạch Mai. Chỉ chuyển chỉ thị miệng chứ không văn bản. Vậy là Trân làm môi giới giữa công khai và bí mật.

Có tờ báo duy nhất ở Sài Gòn ra mà không xin phép. Đó là tờ báo của Đảng, tờ Dân Chúng. Những người chủ trương báo này căn cứ theo đạo luật Pháp do quốc hội thông qua cho phép ra báo không cần xin phép. Còn ở Đông Dương, Toàn quyền ra sắc luật buộc báo ở thuộc địa phải xin phép. Theo luật pháp của Pháp thời ấy thì một sắc luật không có quyền lấn lướt một đạo luật do cơ quan lập pháp cao nhất nước soạn thảo. Vậy là tờ Dân Chúng xuất bản không xin phép.

Nhưng vấn đề chính của anh em là tiền. Mỗi kỳ ra báo phải mất ba chục đồng. Đảng nghèo không có quỹ ra báo. Đảng giao cho Trân vận động tiền. Trân biết một số Mạnh thường quân như ông Hội đồng Tồn (Võ Công Tồn) ở Gò Đen, chị Ba Bầu ở Phú Nhuận. Nhờ hai Mạnh thường quân nói trên mà hai tờ Dân Chúng và La Lutte làm nhiệm vụ phổ biến đường lối Đảng tới quần chúng.

Mỗi khi Trân tới tòa soạn, anh em vỗ tay hoan hô: "Kalinin lên kìa!" (Kalinin có nghĩa là nông dân). Tạo thân mật nhào tới móc túi Trân, chỉ chừa đủ tiền đi xe về nhà. Tác phong bình dân của Trân giống hệt nông dân nên đặt biệt danh Kalinin rất đúng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #19 vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2010, 02:23:00 pm »

Ngày nọ, Trân cùng Mười Vân tới nhà anh Nguyễn Văn Nguyễn. Mười Vân làm bồi cho Tây xếp lính kín bót Pôlô. Lúc đó, anh Nguyễn ở chung nhà với anh Trần Văn Hiển - con ông hương trưởng Hoài ở Chợ Gạo - và anh Đinh Nho Hàng. Nhà này nằm trên đường Frère Louis (Nguyễn Trãi) sau nhà bảo sanh Hồng Phúc. Trân định giới thiệu Nguyễn tới nhóm bồi bếp tiến bộ. Vừa tới nhà, thoáng thấy Đinh Nho Hàng, Mười Vân kéo Trân ra nói nhỏ: "Sao anh dẫn tôi vô nhà lính kín?"

- Ai là lính kín? - Trân hỏi.

- Ông đó là lính kín. Mỗi tuần ông ta tới chủ tôi hai lần. Trước khi gặp ông chủ tôi ở trên lầu , ông ta phải nhờ tôi đưa lên.

Bảy Trân giật mình. Ông không biết nhiều về Đinh Nho Hàng vì nguyên tắc bí mật. Chỉ biết Hàng làm việc với Nguyễn Văn Nguyễn. Bảy Trân lại đâm ra nghi Mười Vân vì anh ta là bồi lính kín. Có thể anh ta gây nghi ngờ giữa anh em mình. Thế nên Bảy Trân không nói gì.

Anh nghĩ ra một kế:

- Khi nào ông đó tới gặp chủ anh, anh nhờ nó làm giúp một cái đơn thưa rằng bạn mượn tiền không trả. Anh đem cái đơn đó cho tôi.

Tuần sau, Mười Vân đưa đơn nhờ Đinh Nho Hàng viết. Bảy Trân so bản thảo, thấy rõ là nét chữ của Đinh Nho Hàng. Anh đưa lá đơn và trình bày rõ ràng cho anh Nguyễn. Anh Nguyễn lấy cái đơn nhưng làm thinh.

Tuần sau, Trân vẫn thấy Đinh Nho Hàng tại nhà Nguyễn. Hỏi ra thì Nguyễn nói:

- Nó là vú sữa của tao. Thằng nào nói Đinh Nho Hàng là lính kín thì chính thằng đó là lính kín.

Trân tức trào máu , nhờ hai anh Mai, Tạo thuyết phục Nguyễn, nhưng hai anh này xem thường chuyện cảnh giác. Trân biết sớm muộn gì Đinh Nho Hàng sẽ hại bộ ba Mai-Tạo-Nguyễn nên anh sớm ly khai để tránh hậu họa.

Về sau, khi Mặt trận Bình dân thất bại, thực dân thẳng tay khủng bố. Bộ ba Mai-Tạo-Nguyễn bị bắt đầy Côn Đảo. Chừng đó Nguyễn mới biết Đinh Nho Hàng là lính kín. Than ôi, khi biết thì đã muộn rồi!

Thành tích lớn của Bảy Trân là nắm được giới giang hồ Bình Xuyên tham gia Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940. Vào tháng 8.1940, Bảy Trân được giao phụ trách ngoại ô Sài Gòn-Chợ Lớn, từ đường Trần Xuân Soạn, dưới dạ cầu Tân Thuận, chạy dài tới đường Phạm Thế Hiển, tới Cầu Sập đổ vô đường số 5 từ Xóm Củi đi Cần Giuộc. Đúng ngày Nam Kỳ khởi nghĩa, Bảy Trân phải đưa dân chúng võ trang cướp chính quyền trong vùng phụ trách. Không có vũ khí trong tay, Bảy Trân nhớ tới giới giang hồ. Có thể kéo nhóm này theo cách mạng. Đây là một ý nghĩ mới lạ, vì kết nạp đảng, không ai nhắm vào giới đầu trộm đuôi cướp. Nhưng tình thế cấp bách, Bảy Trân đánh liều làm thử xem sao. Ông nhờ Tư Ó đưa vô Hố Bần tiếp xúc với ông thầy nghề võ Tám Mạnh để thăm dò. Khi thấy ông Tám Mạnh là người yêu nước, dạy võ để bảo tồn vốn võ cổ truyền của dân tộc, Bảy Trân đề nghị anh em giang hồ tạm ngưng đi hát để tập dượt võ nghệ, chờ ngày đánh làng lính Tây tà cướp chính quyền giành độc lập. Tám Mạnh nghe được, ra lệnh cho lâu la tướng tá dưới quyền chuẩn bị tham gia Nam Kỳ khởi nghĩa. Do các nơi nổi lên loạc choạc, Bảy Trân cho lực lượng giang hồ Bình Xuyên rút êm chờ thời cơ thuận lợi hơn. Sau này, Bình Xuyên tham gia cướp chính quyền ngày 25 .8.1945 và lập nên 7 chi đội trong Liên khu Bình Xuyên, đánh Tây rất hăng hái.

Bảy Trân làm liên lạc giữa Giàu và giới trí thức yêu nước như bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, luật sư Trịnh Đình Thảo, giáo sư Phạm Thiều, các sinh viên Hà Nội xếp bút nghiên về Nam, nhưng công tác chính của Bảy Trân vẫn là nắm lại anh em giang hồ Bình Xuyên đã từng hưởng ứng tham gia Nam Kỳ khởi nghĩa. Ngày ta cướp chính quyền, 25.8.1945, Bảy Trân làm Chủ tịch quận Cần Giuộc. Sau đó, ông lên làm Chủ tịch tỉnh Chợ Lớn, ông giải quyết nhiều vấn đề quan trọng một cách nhẹ nhàng, êm đẹp. Bộ đội Bình Xuyên của cố Hoạnh hay sung công ghe heo, ghe cá với lý do nuôi quân. Ông xuất công quỹ đền bù thỏa đáng cho các chủ ghe ra về mà không oán hận cách mạng.

*


Xin kết thúc bài viết cụ Trân với chuyện kể dưới đây của kỹ sư Nguyễn Hồng Đăng, con cụ Bảy Trân:

Sau giải phóng năm 1975, tôi đang làm việc trong ủy ban quân quản Tây Ninh, một đoàn ba xe du lịch tới xin gặp. Trưởng đoàn là chức sắc Cao Đài Tây Ninh. "Mời ông kỹ sư Nguyễn Hồng Đăng tới Tòa thánh có chút việc". Tôi ngạc nhiên vì không hề có liên hệ với Cao Đài. Dù vậy, tôi vẫn lái xe Jeep đến Tòa thánh xem việc thế nào. Ngài Chưởng quản lưỡng đài địa chờ tôi trong văn phòng. Sau tuần trà, ngài vô đề:

- Xin ông kỹ sư cho tôi hỏi thăm cụ Chủ tịch Bảy Trân. Cụ có được khỏe không?

Tôi giật mình. "Vị chức sắc cao cấp này biết ông già mình? Biết trong trường hợp nào?". Tôi dè dặt trả lời:

- Thưa ngài, cha tôi tập kết ra Bắc năm 1954 , nay đã về Nam. Cha tôi vẫn mạnh khỏe. Ngài biết ông thân tôi trong trường hợp nào?

- Chuyện này xưa lắm rồi. Đó là năm 1948. Câu chuyện như sau:

Năm đó, do người Pháp gây chia rẽ, Việt Minh và Cao Đài thù hận nhau. Quân đội Cao Đài theo Pháp tới bố ráp trong khu, còn bộ đội Việt Minh thì tảo thanh Cao Đài. Ngoài kia tôi kẹt trong vòng vây với dân làng theo đạo. Nghe nói tới tối thì sẽ bị thủ tiêu tập thể. Có người gợi ý nên cho một em bé lén trốn ra ngoài, chạy tìm ông Chủ tịch tỉnh Chợ Lớn thì may ra sống được. Tôi tán thành ý kiến này. Trời xế chiều, ông Bảy Chủ tịch tới nơi. Ông hỏi anh lính gác: "Tại sao bắt những người này?”. Lính đáp: "Họ là Cao Đài phản động, là tay sai của quân Pháp". Ông Chủ tịch nạt : "Nói bậy, mấy người này là dân trong vùng của mình. Họ đâu phải tay sai của địch. Cao Đài phản động là những người lãnh súng của Tây, ăn lương Tây bắn phá làng xóm chúng ta. Thả những người này ngay cho tôi!". Anh lính lắc đầu: "Tôi được lệnh bắt chứ không được lệnh thả". Ông Bảy hỏi gằn: "Lệnh của ai?". Lính đáp gọn: "Của Khu". Ông Bảy trợn mắt : “Lệnh của Khu sao tôi không biết? Nhân danh Chủ tịch tỉnh, tôi ra lệnh cho anh phải thả những người này ra”.

Anh lính vẫn lắc đầu:

- Tôi đã nói rồi. Tôi chỉ được lệnh bắt giữ chứ không được lệnh thả.

Ông Chủ tịch bước tới đứng trước mặt anh lính:

- Anh bắn tôi trước đi thì mới có thể giết họ.

Hai tay ông giật nút áo để lòi cái ngực lép đang thở hổn hển vì tức giận.

Anh lính hạ súng xuống rồi lặng lẽ bỏ đi vô nhà. Ông Chủ tịch hất hàm lệnh cho đám đạo hữu đang bị gom ở giữa sân. Tức thì mạnh ai nấy chạy. Nhờ vậy mà tôi sống tới ngày nay.

Nghe vậy, tôi rất xúc động và hãnh diện có một người cha như vậy. Ông Chưởng quán uống ngụm trà, nói tiếp:

- Sau đó lãnh đạo Nam Bộ có sửa sai. Nhưng tôi luôn nhớ ân nhân của mình. Cho nên đêm nào, tôi cũng thắp nhang cầu nguyện cho ông Bảy Chủ tịch được an khang trường thọ.

Trên đường về cơ quan, tôi cười một mình khi nghĩ tới một chức sắc Cao Đài ngày đêm cầu nguyện cho một cán bộ cộng sản. Đó là chuyện hy hữu mà có thật.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM