Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 12:01:10 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng  (Đọc 39467 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #40 vào lúc: 05 Tháng Bảy, 2010, 09:01:45 am »

III

Sau chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, căn cứ vào tình hình mới, Bộ Tổng tư lệnh quyết định sáp nhập hai chiến khu 14 và 10 làm một, gọi là Liên khu 10. Đồng chí Bằng Giang làm tư lệnh trưởng liên khu, đồng chí Lê Trọng Tấn làm tư lệnh phó và tôi làm chính ủy.

Liên khu 10! Một vùng mênh mông chiếm một phần không nhỏ của Bắc Bộ. Nhìn vào tấm bản đồ chỉ thấy hầu hết một vùng màu xanh cùng với những đường biên độ dày đặc ghi lại những dải núi non trùng trùng điệp điệp.

Liên khu 10 có hàng mấy chục dân tộc khác nhau, kinh tế thì nghèo nàn lạc hậu, đường sá giao thông rất ít ỏi và vô cùng khó khăn, hiểm trở.

Liên khu 10 bị địch chiếm một phần lớn đất đai. Từ biên giới Việt - Lào qua sông Đà tới tận bờ sôg Hồng, tất cả đều nằm dưới gót sắt của giặc. Hơn thế nữa, một vùng rộng lớn phía Lào Cai, Hoàng Su Phì đổ xuống tới Phố Ràng, sông Chảy cũng đã bị địch chiếm. Dưới phía nam, mấy huyện tây nam Phú Thọ và Mai Đà (Hòa Bình) cũng đã mất, đất tự do của liên khu chỉ còn khoanh lại mấy huyện phía trên của Phú Thọ, hai huyện của Yên Bái, mấy huyện của Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang. Gần như không còn một tỉnh nào nguyên vẹn. Đứng về mặt quân sự, tất cả những vùng chiến lược của liên khu đều đã rơi vào tay quân thù. Các cửa ngõ của liên khu đi khu 3, khu 4… đều đã bị bịt chặt.

Trong vùng tạm chiếm, các thổ ti, lang đạo lại leo lên những chiếc ghế vương hầu tột đỉnh của chúng ngày trước, thả sức ra oai tác quái. Mọi luật lệ hà khắc tệ tục khi xưa lại được chúng phục hồi đầy đủ.

Về phía bọn Pháp, chúng không mở những cuộc hành binh lớn mà quay ra bình định, vì miếng mồi đã quá to, nuốt chưa trôi, chưa thể ngoạm thêm những miếng khác. Chính sách càn quét nhỏ để bình định của chúng đã kết hợp chặt chẽ. Thủ đoạn chính trị nham hiểm như lập ngụy quân, ngụy quyền, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt và chiến thuật “vết dầu loang” cũng bắt đầu ra đời từ lúc này với những hệ thống cứ điểm nhỏ và những cuộc hành quân càn quét liên tục.

Có thể nói Liên khu 10 là một trong những vùng điển hình trong những khu vực mà quân Pháp đã triệt để dùng chiến thuật “cứ điểm nhỏ, vết dầu loang”. Các cuộc hành binh của chúng thường xuyên diễn ra, dùng chủ lực càn quét xong rút đi, lực lượng chiếm đóng trên thay thế lập đồn, sau đó tiến tới lập tề và cứ thế các “vết dầu” tiếp tục loang ra mãi.

A-lếch-xăng-đơ-ri là một con có già thực dân rất quỷ quyệt. Ngay từ năm 1946 đánh chiếm lại Lai Châu, chúng đã chuẩn bị  việc thành lập các thứ “xứ tự trị”. Cho tới khi Tây Bắc bị chiếm gần hết thì chúng cũng bắt đầu tuyên bố thành lập “Nước Thái”, “Nước Nùng”, “Nước Mường tự do”. Trong liên khu đã có đủ ba thứ “nước” của chúng! Đi đôi với việc lập các “nước”, chúng còn dùng thủ đoạn lưu manh hóa một số người trong nhân dân còn quá chất phác, nông cạn, lạc hậu bằng đủ thứ như rượu, thuốc phiện, gái, trộm cắp, thổ phỉ… Và hiểm độc hơn chúng tìm mọi cách để chia rẽ các dân tộc. Cá khẩu hiệu dã man được chúng nên lêu để xúi giục nhân dân như “giết Kinh lấy muối, giết Thổ lấy ruộng, giết Mán lấy bạc, giết Mèo lấy thuốc phiện”. Sự chia rẽ, hằn thù dân tộc trước đây do bọn chúng gây nên nay cũng được khơi sâu. Ngay sau khi quân ta rút về tả ngạn sông Hồng, quân Pháp kéo tới chưa bao lâu, các cuộc chém giết hết sức thương tâm giữa các dân tộc đã xảy ra gần như liên tục ở khắp nơi.

Trong khi đó bọn Pháp vẫn ra sức truy lùng cán bộ ta, treo giải thưởng rất lớn bằng bạc trắng, thuốc phiện, muối, vải… cho những ai cắt được đầu, xẻo được tai cán bộ.

Mặt khác, giặc Pháp ra lệnh triệt để bắt lính. Các đạo quân ngụy Thái, Nùng… lần lượt được lập ra để càn quét các nơi hoặc tham gia chiếm đóng trên các cứ điểm nhỏ.

Có thêm ngụy quân, bọn Pháp đã thành lập và củngcố được một phòng tuyến dài trên ba trăm cây số suốt từ Hoàng Su Phì cho tới tận bờ sông Đà, hình thành một lưỡi liềm khổng lồ cắm ngập vào mạng sườn của căn cứ địa Việt Bắc.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #41 vào lúc: 05 Tháng Bảy, 2010, 09:03:08 am »

*
*   *

Sau khi dự lễ mừng chiến thắng sông Lô ở thị xã Tuyên Quang, tôi cùng đồng chí Trần Tử Bình - phái viên kiểm tra của Bộ đi xuống thăm một số đơn vị từ mặt trận phía tây rút về. Chúng tôi muốn có dịp được trực tiếp tìm hiểu sâu hơn nữa tất cả những nguyên nhân đã dẫn anh em đến không giữ vững dược mặt trận, đồng thời tìm hiểu thêm về tình hình tư tưởng, tổ chức, trang bị của các đơn vị hiên nay ra sao, cần được giúp đỡ những gì?

Chuyến đi này đã để lại cho chúng tôi nhiều kỉ niệm khá sâu sắc. trước khi tới các đơn vị đóng dọc theo bờ sông Hồng, chúng tôi đã dược thấy nhiều điều mới mẻ, phong phú trong đời sống hàng ngày của nhân dân vùng tự do trong những ngày đầu kháng chiến. Chính những điều mắt thấy tai nghe đã trở thành những thu hoạch bổ ích cho chúng tôi trong chuyến đi dài ngày này.

Một số cán bộ tham mưu, chính trị cùng đi với chúng tôi. Qua các làng xóm trù phú của những huyện Phù Ninh, Thanh Ba, qua những thị trấn Thanh Cù, Vũ Ẻn, Ấm Thượng, chúng tôi dần dần ngược Yên Bái. Vết tích của những trận bom đạn tàn phá trong chiến dịch và rồi vẫn còn hai bên đường, nhưng trên mặt đất còn nóng hổi tro than ấy, cuộc sống của nhân dân ta đã được phục hồi mau chóng và tươi trẻ lạ kì. Bên cạnh những nền nhà còn đen nhẻm, bề bộn kèo cột cháy nham nhở đã mọc lên những căn nhà mới, vách đất còn ướt, mái còn xanh màu nứa. Bên cạnh những hố bom đã móc lên những xóm đông vui, những dãy phố “nấm” nhộn nhịp. Trên các thửa ruộng bên đường, bà con đang vực từng con nghé để thay thế cho những con trâu mẹ vừa mới bị giặc bắn chết hôm qua. Có đôi nơi thiếu cả nghé, từng tốp hai, ba người kéo cày để bảo đảm thời vụ. Trên gương mặt họ, ánh lên những niềm tự hào và tin tưởng. Đằng sau những rặng cây, trong nhưng cánh rừng thưa… tiếng trẻ học bài bi bô vọng ra. Trên con đường Chè, những chiếc xe đạp “tay ngai” lại tấp nập ngược xuôi cả đêm lấn ngày.

Ở các thị trấn “nấm”, cuộc sống cũng không kém sôi nổi. Những thị trấn ấy trước kia rất nhỏ bé, lèo tèo dăm ba cửa hàng, vài cơ sở sản xuất thủ công nhưng từ khi có đồng bào dưới xuôi tản cư lên lập tức trở nên phồn thịnh ra, kéo dài thêm mãi. Có những nơi trước đây chỉ là một ngã ba, một đoạn đường vắng vẻ nay đã có cả một thị trấn sầm uất. Bom đạn giặc bắn cháy hôm nay, mai lại mọc lên dãy phố khác. Bom đạn giặc đốt trụi, phá sạch ở chỗ này, mai cái thị trấn ấy lại tái sinh ở một đoạn đường khác. Ở một mức độ nào đó, các thị trấn “nấm” (hoặc còn gọi là “thành phố nứa”) cũng trở thành lưu động trong kháng chiến.

Một số không ít những thị trấn ấy đã bị bắn cháy trong thu đông vừa qua nay cũng được dựng lại mới tinh bằng tre nứa và có phần đông đúc hơn xưa. Đây là một xưởng giấy đang sản xuất. Tiếng máy quay tay chuyển động đình đình. Giấy phơi trắng lốp trên các giàn cao, tràn cả ra dọc hai bên đường. Kia là một cơ sở dệt vải tấm với những cô gái duyên dáng ngồi trên khung cửi đưa thoi thoăn thoắt. Rồi những cơ sở làm nón, làm bột sắn, làm sơn, làm chè, nhuộm vải… Khẩu hiệu “Tự túc tự cấp để trường kì kháng chiến” dán trang trọng khắp mọi nhà, cùng với các kẩu hiệu bình dân học vụ, thi đua sản xuất, tòng quân giết giặc… Không còn nghi ngờ gì nữa, đường lối trường kì kháng chiến, tự lực cánh sinh của Đảng ta đã thấm sấu vào quần chúng, biến thành hiện thực.

Từ Ấm Thượng, chúng tôi bắt đầu ra bờ sông Hồng, đi dọc theo đướng xe lửa. Gọi là đường xe lửa, nhưng tất cả những đường ray đều bị bóc đi hết để đưa vào các công binh xưởng của quân khu đúc súng đạn, hoặc đem cắm trên các đường giao thông lớn làm chướng ngại vật chống cơ giới địch. Nền đường chỉ còn toàn đá củ đậu. Mới bỏ hoang ít lâu mà lau lách đã móc rậm rạp như rừng. có những đoạn lau ngả ra, giao nhau che kín cả mặt đường.

Từ đây trở đi, ở bên kia sông bắt đầu có địch. Các đồng chí quân báo cho biết bọn chúng vẫn thường đi tuần và bắn sang bên này. Từ Yên Bái ngược lên bắt đầu có những cứ điểm nhỏ dọc theo bờ sông. Đó là phòng tuyến sông Thao của địch.

Đoàn chúng tôi nghỉ lại một đêm trên thị xã Yên Bái đã hoàn toàn tiêu thổ. Bây giờ vào khoảng tháng ba. Đêm nằm, trong dạ cứ ngổn ngang trăm mối, không sao ngủ được. bỗng thoảng đâu có mùi hoa bưởi. Tưởng như có người, nhưng nhìn ra, bốn bề rất vắng lặng. nhân dân đã đi hết. Tất cả chỉ còn lại những đống gạch vỡ. Mùi hoa bưởi bỗng nhiên như nhắc cho chúng tôi rằng vẫn còn những mạch sống âm ỉ dưới mảnh đất này, không bao giờ tắt được; chỉ cần làm sao biết khơi động cái mạch sống ấy lên thôi…

Từ Yên Bái trở đi, đoàn chúng tôi phải đi thận trọng hơn, nhưng vẫn đi theo đường xe lửa, bám bờ sông. Cúng tôi vẫn muốn đi theo con đường này vì mau tới các đơn vị bạn hơn và được tận mắt quan sát quang cảnh vùng tạm chiếm.

Qua những quãng lau thưa, chúng tôi nhìn sang bên kia khá rõ. Không phải do đã có một ấn tượng trong tình cảm, ý nghĩ nên nhìn cái gì cũng hóa ra ảm đạm, mà quả thật quang cảnh bên đất địch sao mà vắng lặng, âm thầm đến vậy? Lau sậy xác xơ, tiêu điều, ruộng bỏ hoang, cỏ mọc đầy. Quạ bay từng đàn trên những xóm làng đã bị đốt phá nham nhở. Không còn một bóng người, không một tiếng chó sủa.

Một buổi sáng chúng tôi đang đi, chợt nghe thấy tiếng trung liên nổ vang ở bên kai sông, rồi lau sậy trên đầu chúng tôi đổ rạp. Mọi người vội nằm xuóng. Khẩu trung liên bên kia sông tiếp tục bắn san. Sau đó, qua lùm cây, chúng tôi nhìn thấy lố nhố bóng áo vàng. Ước khoảng một tiểu đội địch đang đi tuần. Đồng chí liên lạc của tỉnh đội Yên Bái dẫn đường chúng tôi là một thanh niên địa phương mới vào bội đội. Thấy súng nổ, đồng chí này lo lắng hỏi chúng tôi: “Báo cáo! Bây giờ đi đâu?” Đồng chí Trần Tử Bình bật cười, đáp: “Cậu muốn đưa chúng tôi đi đâu thì đi!”. Một lúc sau, có lẽ không thấy động tĩnh gì nữa, bọn địch bỏ đi. Chúng tôi lại tiếp tục cuộchành trình. Đồng chí liên lạc vẫn chưa hết lo lắng, đề nghị chúng tôi đi vòng theo đường núi. Nhưng chúng tôi động viên và nói rằng chúng tôi vẫn cứ muốn đi theo đường bờ sông. Có điều là mỗi khi tới chỗ quang quá thì đồng chí liên lạc nên đưa chúng tôi đi lánh vào bên trong chút ít cho kín đáo hơn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #42 vào lúc: 05 Tháng Bảy, 2010, 09:03:30 am »

Chiều hôm ấy chúng tôi tới đơn vị đầu tiên từ Nghĩa Lộ rút ra. Anh em đang bố trí trận địa bên bờ sông. Công sự ngổn ngang. Lều lán mọc khắp trong rừng. Thấy đoàn chúng tôi đến, các đồng chí cán bộ chỉ huy đều ra đón. Các chiến sĩ cũng vui vẻ chào hỏi chúng tôi như những người anh em xa lâu ngày mới gặp nhau. Trước khi nghe các đồng chí chỉ huy báo cáo tình hình, chúng tôi đề nghị cho đi thăm nơi ăn, chốn ở, trận địa của các đại đội. Chúng tôi tới một đại đội vào đúng bữa ăn. Nhìn vào rá cơm chỉ thấy phần lớn là sắn độn. Bát to không có, canh đựng vào máng tre. Bát nhỏ cũng không, anh em dùng các vỏ hộp, hoặc những khoanh tre bương, gáo dừa để thay thế. Thức ăn ngoài món canh cà chua nấu với chút mỡ, chỉ còn một món muối rang giã nhỏ với giềng. Tuy vậy anh em ngồi ăn vẫn vui vẻ. thiếu thốn và gian khổ đã không làm giảm được lòng lạc quan cách mạng của cách chiến sĩ. Có những anh với biệt hiệu là “thày cù”, thỉnh thoảng lại chêm dăm ba câu pha trò làm cả đơn vị cười ồ lên náo nhiệt.

Chúng tôi nhìn vào quần áo, không thấy một chiếc áo nào, một cái quần nào còn lành lặn. Nhiều chiến sĩ có lẽ mới vào bộ đội, chưa được phát quân trang, còn mặc nguyên cả những bộ quần áo nâu, áo chàm ở nhà. Nhưng tất cả cũng đã cũ và bạc. Hầu hết anh em đều đi đất. Những bàn chân vì đi và leo núi nhiều nên đã to bè ra, gót nứt nẻ. Chúng tôi xem đến vũ khí, toàn là kiểu cũ thu được của Pháp, Nhật, phần lớn không còn tốt. Tuy nhiên, có một điều rất đáng chú ý là tất cả đều được lau chùi rất cẩn thận. Hình như các chiến sĩ có thể quên tất cả mọi việc chăm lo tới quần áo, thậm chí tới cả râu, tóc của mình đề dồn thời gian vào việc chăm lo cho những khẩu súng, thanh mã tấu yêu quý ấy. Không cần có một lời giải thích, bình luận, chúng tôi cũng hiểu được ngay: tinh thần, ý chí diệt thù của các chiến sĩ ở đây vẫn nồng cháy và vững vàng tới mức nào! Và chính điều ấy đã làm chúng tôi suy nghĩ mãi, làm gì đề có thể đánh giá tình hình cho đúng và tìm cho ra những vấn điều mấu chốt nhất trong công tác lãnh đạo.

Nếu như các chiến sĩ đã gây cho chúng tôi cảm giác tin tưởng, phấn chấn thì phần lớn cán bộ ở đây đã làm chúng tôi lo lắng. Các đồng chí chỉ huy đơn vị đã báo cáo với chúng tôi khá tỉ mỉ về tất cả quá trình chiến đấu vừa qua và hiện tình của đơn vị. Các dc cũng đã tổng hợp, phân tích nêu bật được nhiều vấn dề quan trọng. Tuy nhiên qua ý kiến của các đồng chí ấy, chúng tôi thấy rõ một tư tưởng sai lầm nghiêm trọng mà quân khu đã nhận thấy ngay từ khi các đơn vị này rút lui trong chiến dịch thu đông vừa qua.

Nhiều đồng chí đã tỏ ra thiếu tin tưởng ở nhân dân, cho rằng dân Tây Bắc đã theo địch hết. Anh em đã kể cho chúng tôi nghe khá nhiều chuyện về những người dân “đã theo địch” ấy, nào là nộp gà, nộp gạo cho Tây, nào là dẫn đường, chỉ điểm, nào là đi phu, đi lính… tóm lại, các đồng chí đó chỉ nhìn thấy những hiện tượng khiếp nhược, lạc hậu, mà không nhìn thấy những điều cơ bản khác như lòng căm thù giặc và tinh thần cách mạng của nhân dân Tây Bắc.

Rời các đơn vị đóng ở đây, đoàn chúng tôi tiếp tục ngược sông Thao, đi gặp những đơn vị khác đóng ở phía trên. Tới đâu chúng tôi cũng thấy một vấn đề trầm trọng là tư tưởng thiếu tin tưởng ở nhân dân và ngại quay trở vào Tây Bắc. Nhiều đồng chí chỉ muón lập một phòng tuyến “quyết tử” bên này sông để ngăn chặn địch.

Khi câu hỏi “vậy để Tây Bắc vĩnh viễn mất vào tay địch hay sao?” được đặt ra, nhiều đồng chí cán bộ im lặng. Sau đó có đồng chí thở dài, đáp:

- Nếu muốn trở lại Tây Bắc ta phải có dăm trung đoàn mạnh! Chứ như hiện any, vào bao nhiêu chỉ nướng bấy nhiêu!

Câu nói thật đau lòng! Tây Bắc đối vói các đồng chí ấy đã trở thành một cái gì quá ghê gớm! Các đồng chí ấy đã sợ địch, sọ dẻo cao, suối thẳm, thậm chí sợ cả từng người dân.

Nhưng dù sao việc phát hiện ra vấn đề lớn ấy, đoàn chúng tôi vẫn cứ mừng. chính những điều tìm hiểu được trong chuyến đi này đã giúp ích cho chúng tôi rất nhiều trong iệc chỉ đạo những hoạt động võ trang tuyên truyền, hoạt động của những đại đội độc lập sau này. Ngay trên đường về, đoàn chúng tôi đã khẳng định: nếu không giải quyết tốt những tư tưởng nói trrên, sẽ không còn mong gì quay trở lại giải phóng Tây Bắc nữa.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #43 vào lúc: 05 Tháng Bảy, 2010, 09:06:22 am »

IV

Những nghị quyết của hội nghị Trung ương Đảng hồi tháng 1 năm 1948 đã nhận định tình hình cục diện chiến tranh trong nước đã chỉ rõ: từ sau chiến dịch thu đông 1947, cuộc kháng chiến của ta đã chuyển sang giai đoạn mới. Quân thù đã buộc phải thay đổi chiến lược, chiến thuật. Do đó Trung ương Đảng ta đã đề ra phương châm chiến lược mới để phá tan âm mưu địch, đẩy mạnh cuộc kháng chiến tiến tới. Chủ trương phân tán chủ lực, thành lập các đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung, và đẩy mạnh hoạt động võ trang tuyên truyền đã được ra đời từ lúc này. Đây là chủ trương vô cùng sáng tạo, tài tình. Trung ương đã chỉ thị rất rõ ràng: Với các đội võ trang tuyên truyền, đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung, tiểu tổ bí mật (ở đô thị) chúng ta sẽ đi sâu vào lòng dịch, gây dựng cơ sở mới, phục hồi những cơ sở đã tan rã, xây dựng các căn cứ du kích trong lòng địch, tạo điều kiện đẩy du kích chiến tranh phát triển, dần dần biến hậu phương địch thành tiền phương ta, tạo nên thế xen kẽ cài răng lược, thực hiện cho được phương châm: Hình thức tác chiến du kích và tác chiến vận động sẽ hỗ trợ cho nhau cùng phát triển, làm cho mối quan hệ giữa đánh tiêu hao và đánh tiêu diệt phát triển nhịp nhàng, đúng hướng.

Đường lối, phương châm ấy dã hoàn toàn phù hợp vớ đặc điểm của giai đoan mới, với quy luật phát triển của chiến tranh, phù hợp với yêu cầu của cuộc kháng chiến, do đó có thể khai thác được mọi nguồn dự trữ trong nhân dân, huy động được tinh thần của quảng đại quần chúng đấu tranh với địch, đẩy mạnh chiến tranh nhân dân toàn diện.

Liên khu ủy, Quân khu ủy và Bộ tư lệnh Liên khu 10 đã nghiên cứu sâu sắc đường lối, phương châm mới của Đảng để thực hiện.

Có thể nói, trong những tháng đầu năm 1948, Liên khu 10 đã tập trung gần như toàn bộ lực lượng vào việc tổ chức các đội võ trang tuyên truyền, đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung. Những kinh nghiệm xây dựng, tổ chức các đội võ trang tuyên truyền hồi tiền khởi nghĩa đén lúc này lại được áp dụng rất tốt, rất có hiệu lực. Toàn liên khu đã tổ chức bốn đội võ trang tuyên truyền chủ yếu: đội xung phong Quyết thắng, đội xung phong Quyết tiến, đội xung phong Trung dũng và đội xung phong Tây Bắc, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của quân khu. Các trung đoàn chủ lực dều phân tán hai phần ba lực lượng để tổ chức thành các đại đội độc lập.

Bộ Tổng tư lệnh rất quan tâm tới chiến trường Tây Bắc, một chiến trường có vị trí chiến lược trọng yếu. Do đó Bộ cũng rất quan tâm tới việc giúp đỡ chúng tôi trong việc xây dựng, chỉ đạo các đội võ trang tuyên truyền, đại đội độc lập. Riêng Bác Hồ cũng rất lưu tâm tới những hoạt động võ trang tuyên truyền. Bác đã vạch cho các đội của Liên khu 10 một cái đích: Điện Biên Phủ! Bác chỉ thị cho các đội phải làm sao xây dựng, phát triển cơ sở quần chúng, cắm bằng dược lá cờ đỏ sao vàng trên đất Điện Biên Phủ! Điện Biên Phủ! Ngay từ lúc ấy, Bác đã nhìn tới vị trí chiến lược quan trọng đó.

Trong quá trình thành lập các đội võ trang tuyên truyền, không phải chúng tôi không gặp nhiều khó khăn, trở ngại, nhưng chủ yếu vẫn là tư tưởng sai lầm không tin ào dân, ngại núi rừng Tây Bắc.

Các đồng chí Trần Tử Bình, Bằng giang và tôi đã tới trung đoàn Yên Bái để giúp đỡ giải quyết những tư tưởng nói trên. Bằng tất cả những dẫn chững cụ thể trong lịch sử đấu tranh cách mạng từ trước tới nay, bằng những luận cứ cơ bản của cách mạng chúng tôi dần dần đã giúp cho các đồng chí cán bộ trong đơn vị nhận ra được vấn đề và tin rằng nhân dân Tây Bắc vẫn căm thù giặc, vẫn hướng theo cách mạng. Mặt khác, quân địch ở Tây Bắc chỉ cứng ở vỏ ngoàì, còn bên trong thì sơ hở, mỏng yếu.

Không những ở Đảng bộ trung đoàn Yên Bái phải tiến hành gian khổ những cuộc đấu tranh tư tưởng trong nội bộ, mà ở cá đơn vị khác cũng thế. Khi những cuộc đấu tranh tư tưởng ấy đã thắng lợi, Liên khu ủy, Quân khu ủy nhận định rằng đây là một bước tiến mới, thắng lợi đầu tiên nhưng hết sức quan trọng để mờ đầu cho một giai đoạn mới trong liên khu.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #44 vào lúc: 05 Tháng Bảy, 2010, 09:07:42 am »

Tôi đã đến dự lễ lên đường của đội xung phong Quyết Tiến, một đội mới được tổ chức ra, có nhiệm vụ tiến theo đường Nghĩa Lộ - Than Uyên - Quỳnh Nhai, qua Tuần Giáo để tiến vào Điện Biên Phủ. Đội do đồng chí Luân, thường vụ tỉnh ủy Yên Bái làm chính trị viên, Hồng Quân là người phụ trách đội tự vệ thanh niên thành Tuyên hồi khởi nghĩa. Hồng Quân đã được Đảng dìu dắt, giáo dục, tiến bộ rất nhanh. Năm 1947, đồng chí đã làm Bí thư tỉnh ủy Hà Giang. Nay cần có cán bộ gan dạ và có năng lực đi xây dựng các đội võ trang tuyên truyền, Liên khu ủy chủ trương rút Hồng Quân về hoạt động. Đồng chí Châu Thành, trưởng ban huấn luyện của khu 10 cũ được phân công làm đội phó.

Buổi lễ lên đường của đội xung phong Quyết Tiến được tổ chức ở một làng cách thị xã Yên Bái không xa, dưới môt gốc đa cổ thụ. Khung cảnh ấy làm cho tôi liên tưởng tới Tân Trào, tói những đội võ trang tuyên truyền đầu tiên và những đội Việt Nam Giải phóng quân hồi Tổng khởi nghĩa. Đường cách mạng quả là quanh co khúc khuỷu. Khởi nghĩa đã thành công, quân đội đã được xây dựng, trưởng thành lên một bước mới, nhưng mấy ai đã nghĩ rằng sĩ có ngày những đơn vị ấy lại tách ra để thành lập lại những đơn vị nhỏ, những đội võ trang tuyên truyền. Con đường cách mạng quả là khúc khuỷu; có thể phải đi vòng trở lại để vượt qua thác ghềnh, rội sau đó mới có thể vươn tới những địa vực xa hơn, cao hơn nữa.

Anh em đang xếp hàng nghiêm chỉnh dưới bóng cờ, trước đại biểu của đảng bộ, nhân dân địa phương, các cán bộ của đơn vị và liên khu. Hầu hết anh em tuổi từ hăm hai, hăm ba trở lên, tất cả đều là cán bộ. Mỗi đội viên ở đây là một huyện ủy viên cứng, hoặc một cán bộ trung đội vững vàng. Khi tiến vào vùng hậu địch, mỗi đội viên sẽ phải phụ trách cả một vùng. Hoặc ít nhất một xã, thay mặt Đảng lãnh đạo, tổ chức nhân dân đấu tranh toàn diện với quân thù.

Trang bị của anh em khá gọn nhẹ để có thể đi được lâu, được xa. Tất cả những thứ mang trên người đều đã được nghiên cứu rất tỉ mỉ, không thừa, không thiếu. Ngoài gạo, muối, mỗi đội viên còn mang theo bạc trắng, kim chỉ, thuốc men… những thứ rất cần thiết cho đời sống hàng ngày, đồng thời để trao đổi với đồng bào lấy lương thực khi cần thiết. Trang bị của anh em tư tưởng đầy đủ, riêng vũ khí vẫn thiếu nhiều, mặc dầu quân khu đã dành cho các đội phần ưu tiên thích đáng. Cả đội trên ba mươi người, chỉ có hơn mười khẩu súng các loại, mỗi khẩu kèm theo hai mươi nhăm viên đạn. có thể nói anh em ra đi, tiến vào Tây Bắc, đi sâu vào lòng địch, chủ yếu chỉ có chủ trương, chính sách của Đảng trong tay.

Hôm ấy, đồng chí Võ Nguyên Giáp cũng gửi tới một lá thư do chính tay đồng chí viết để độnng viên, dặn dò anh em khi lên đường. Chỉ một cử chỉ ấy cũng đã chứng tỏ sự quan tâm của trên đối với công tác võ trang tuyên truyền trong giai đoạn này như thế nào. Sau đó, tôi thay mặt Liên khu ủy, bộ chỉ huy quân khu chúc mừng anh em tiến quân thắng lợi. Có lẽ cũng đã lâu, tôi mới cảm thấy mình xúc động như hôm ấy. Anh em sắp lên đường, bước vào cuộc chiến đấu gian lao, khó khăn đặc biệt. Trước mắt anh em, Tây Bắc lúc này như biển cả mênh mông, đang nổi sóng dữ. Không những Liên khu ủy, Bộ tư lệnh liên khu, mà bây giờ cả Bác hồ, cả Trung ương, cả Bộ Tổng tư lệnh cũng đang đặt tất cả niềm tin tưởng ở anh em, những người chiến sĩ của Đảng đang lĩnh một trách nhiệm nặng nề và vinh quang: đi bước đầu trong sự nghiệp chiến đấu giành lại Tây Bắc về cho Tổ quốc. Những bước đầu ấy thường bao giờ cũng là những bước gian nan, nguy hiểm. Tôi ôn lại với anh em những kinh nghiệm hoạt động của các đôi võ trang tuyên truyền khi trước kinh nghiệm của bản thân chúng tôi trong những ngày còn đen tối phải chui rừng, ngủ bụi, tìm bắt liên lạc, giác ngộ, tổ chức bí mật tới từng người dân… Các chiến sĩ võ trang tuyên truyền đã được nhắc nhở: cần phải luôn luôn nắm thật vững quan điểm quần chúng, chính sách dân tộc của Đảng. Đó là nguồn gốc của thắng lợi. có dân là sẽ có tất cả, sẽ chiến thắng tất cả. Để tiến hành tốt công tác, anh em gần như thực hiện ba hóa: địa phương hóa, dân tộc hóa và quần chúng hóa. Ngoài ra người chiến sĩ cách mạng đều phải phát huy đầy đủ đức tính dũng cảm, ngoan cường, đoàn kết kỉ luật…

Lễ lên đường bế mạc. Toàn đội xuất phát. Hồng Quân - người thanh niên của thành Tuyên khi xưa có ý dừng lại đợi tôi để gửi lại lời tạm biệt. Tôi siết chặt tay Hồng Quân nhìn mãi vào cặp mắt sáng, thông minh, giàu nghị lưc của anh. Tôi không nghĩ rằng đó là lần cuối cùng tôi được câm tay người đồng chí thân yêu. Hồng Quân vào Tây Bắc và không bao giờ trở ra nữa. Anh cũng như không ít các đồng chí thân yêu khác đã ngã xuống giữa núi rừng Tây Bắc mênh mông lúc còn ngập đầy bóng giặc. Người ngã xuống vì một viên đạn của quân thù, người ngã xuống sau những trận ốm đau mòn mỏi, những ngày đói khát… Mỗi người ngã xuống vì môt lí do khác nhau, nhưng tất cả những đảng viên quang vinh, những người con ưu tú của đất nước ấy đều đã đem máu của mình để viết nên những trang sử giải phóng Tây Bắc.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #45 vào lúc: 06 Tháng Bảy, 2010, 10:25:19 am »

*
*   *

Liên khu ủy và Bộ tư lệnh liên khu đã chờ đợi tin tức của các đội võ trang tuyên truyền với tất cả nỗi lo lắng, niềm hi vọng của mình. Chúng tôi cứ phàn nàn với nhau mãi: “Giá có điện đài, cho mỗi đội một cái thì hay biết mấy!”. Tiếc thay, không những liên khu mà cả trên Bộ lúc đó vẫn còn quá nghèo. Tất cả mỗi liên lạc với các đội chỉ còn trông chờ ở đôi chân của các đồng chí giao thông.

Tung các đội ra đi mà không có cách gì để theo sát những hoạt động ccủa anh em từng bước, từng ngày, chúng tôi cảm thấy mắt mình, tai mình như có ai bịt lại. Tin tức đưa về rất thưa và thất thường, càng làm cho chúng tôi sốt ruột. Qua tháng đầu tiên, đươc biết các đội đều đang gặp khó khăn. Qua tháng thứ hai, tin tức thưa thớt hơn,chỉ biết anh em đã tiến rất sâu vào lòng địch theo phương pháp “cóc nhảy” hoặc “nhảy dù”, địch đang đối phó, vây lùng ráo riết. Sang tháng thứ ba hầu như bặt tin. Rồi sau đó, đùng một cái, chúng tôi nhận được báo cáo. Các đội đề đã bị bật trở ra bò sông Hồng. Hiện có đội đã vượt sông trở vê vùng tự do bên này để củng cố.

Không chậm trễ, chúng tôi phân nhau đi tới ngay những đơn vị ấy. “Bị bật tất cả trở lại”, chỉ bằng từng ấy chữ thôi cũng đã làm cho chúng tôi hình dung được phần nào những khó khăn mà anh em đã vấp phải. Tây Bắc! Hai tiếng ấy lại ngân vang lên trong đầu óc chúng tôi vơi tất cả những âm thanh bi hùng của nó.

Các chiến sĩ trở ra hầu hết đều đau yếu, gày còm. Có đồng chí do bị sốt rét niều quá, lại không có thuốc men, tóc đã rụng gần hết. Có đồng chí chỉ vì bị địch vây phải lẩn lút mãi, không có lương thực, ăn nắm lá, trái cây, rau rừng, hai hàm răng đã xanh lè. Nom thấy chúng tôi, có đồng chí rơi nước mắt.

Chúng tôi đã được nghe kể lại tất cả những bước đường hoạt động gian nan của các đội. Ở đây, trên những trang hồi kí này, không thể viết lại được hết, nhưng tôi cũng muốn ghi lại vài dòng về những người đảng viên, những chiến sĩ đầy lòng hi sinh, dũng cảm ấy.

… Sau khi vượt sông Hồng, đội xung phong Quyết Tiến bắt đầu tiến vào đất địch kiểm soát. Trước mặt anh em là đồn Ca Vịnh trấn giữ con đường duy nhất đi vào Tú Lệ. Toàn đội loanh quanh ở đó đã hàng tuần lễ mà vẫn chưa đi được. Bộ chỉ huy liên khu thấy vậy bèn viết thư giục, đồng thời phái đại đội Kim Sơn tiến vào tập kích Ca Vịnh để tạo điều kiện cho anh em vượt vào bên trong. Đại đội Kim Sơn đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Quân địch ở Ca Vịnh bỏ đồn rút chạy. toàn đội xung phong Quyết Tiến rất phấn khởi, cứ dọc theo đường cái tiến vào Gia Hồi, rồi Tú Lệ, đàng hoàng như một đội quân chủ lực lớn. Anh em đã quên mất đặc điểm hoạt động của mình, quên cả ý thức giữ bí mật. Bộ chỉ huy liên khu nắm được tình hình ấy lại phải có thư nhắc nhở. Sau đó, đội mới bớt chủ quan, bắt đầu chuyển từ hành quân ban ngày sang ban đêm, đội tiến vẫn rất dễ dàng vì quân địch nghe tin đồn “có năm nghìn quân Việt Minh kéo vào” nên chúng đã cuốn gói bỏ chạy. Đội xung phong Quyết Tiến lại phát sinh tư tưởng chủ quan. Vào Tú Lệ không mất một phát súng, lại thấy nhân dân nô nức kéo ra đón mừng, các đồng chí bèn tổ chức một cuộc liên hoan khá nhộn nhịp, tưng bừng. Mọi công tác quần chúng gần như chưa làm được gì. Toàn đội chỉ mới thực hiện được một việc là gọi những tay sai của địch cùng các phìa tạo dến cảnh cáo, bắt phải cam đoan trung thành với cách mạng, không được làm hại nhân dân.

Sau gàn một tuần ở Tú Lệ, đội tiếp tụ tiến vào vùng Kim Nọi. Trời bắt đầu mưa tầm tã ngày này qua ngày khác. Đèo trơn, suối lũ, cuộc hành trình lúc đó mới băt đầu vất vả. Suối lũ ở Tây Bắc quả là dữ. Đoàn quân không dài lắm, những người đi trước mới chỉ tới quá đầu gối, đến người cuối cùng bước xuống, nước đã ngập ngang cổ, Cũng trong thời kì đó, trong lúc toàn đội đang tiến thì quân Pháp đã tập trung hàng mấy trăm tên, từ Lai Châu kéo về, từ Than Uyên kéo ra để chuẩn bị vây càm mà đội không hề biết.

Khi tới Cấp Na, chưa tới Kim Nọi, toàn đội đã xao vào trận địa phục kích của địch. Mặc dầu tinh thần chiến đấu rất dũng cảm nhưng bị lâm vào thế bị động, toàn đội buộc phải chia ra làm ba tổ để rút. Đồng chí Luân, nắm một tổ dạt lên rẻo cao của đồng bào Mèo. Đồng chí Châu Thành nắm được một bộ phận rút về vùng Bản Khì. Đồng chí Hồng quân cùng với hai tiểu đội rút trở lại phía Tú Lệ, định liên lạc với đại đội Kim Sơn (nhưng đại đội này đễ lên vùng đồng bào Mèo từ trước). Thấy đạn dược của toàn đội đã tiêu hao gần hết trong trận phục kích vừa qua, Hồng Quân quyết định quay trở ra Nghĩa Lộ để bắt liên lạc với quân khu, xin tiếp tế. Trời vẫn mưa, suối lũ vẫn ngập tràn. Tới Ngòi Thia, Hồng Quân cùng anh em chặt chuối làm mảng để vượt qua. Trong khi ấy, ở biên kia sông, một toán đi đi tuần kéo tới.

Hồng Quân cầm sào nhảy xuống chiếc bè đầu tiên cùng đồng chí Năng, một đội viên trong đội trước kia là chính trị viên tiểu đoàn. Cả hai người mới đẩy bè ra tới giữa dòng thì một băng trung liên từ bụi cây trên bờ bên kia đột ngột nổ xé. Hồng Quân ôm lấy ngực, ngã vật ngửa trên bè. Năng cũng không kịp nói một lời, buông ngay cây sào, ngã xuống… Và cứ thế chiếc bè tiếp tục băng băng trôi theo dòng nước lũ. Tất cả những đồng chí còn lại đánh gạt nướ mắt, quay trở lại Cáp Na, tìm bắt liên lạc với bộ phận của đồng chí Châu Thành đang bám dân, cố thủ ở đó. Mưa vẫn xùi xut. Bản Khì nằm lọt trong một vùng suối lũ bao quanh. Ta không ra được, mà địch cũng không vào được. cho đến lúc này anh em trong đội mới bắt đầu thấm thía bài học chủ quan, mới bắt đầu biết là cần phải bám lấy dân, tích cực giáo dục, tổ chức nhân dân mới có thể sống để chiến đấu và chiến thắng.

Nhân dân Bản Khì vốn đã nghèo đói, nay bị mưa lũ giam chân, địch lại vây chặt bốn phía, không đi rừng tìm củ mài, củ sắn được nên càng đói khổ. Tuy nhiên, không có một ai quên bộ đội. Còn một mẩu sắn cũng chia đôi.

Một tháng sau, trời hửng sáng, lũ rút. Nhân dân lại đeo dao, lên núi kiếm ăn. Anh em võ trang tuyên truyền cũng chuẩn bị lên đường định đi bắt liên lạc với bộ phận đồng chí Luân, nhưng một trận càn nữa lại ập tới. Trận càn này còn lớn hơn trận trước gấp bội. Hơn một nghìn quân từ Mường Cang đánh xuống, hai trăm quân từ Nghĩa Lộ đánh lên. Lần này địch không ồ ạt tấn công như trước mà chia thành từng mũi nhỏ lùng sục tất cả các ngọn nguồn, khe suối. Các cơ sở của đội mới xây dựng bị phá tan hoang. Hàng loạt thanh niên nam nữ bị bắn chết. Bộ phận võ trang tuyên truyền lại bị vỡ một lần nữa. Một số đồng chí hi sinh, một số dạt lên vùng đồng bào Mèo, một số bật trở lại bờ sông Hồng, mặc dầu đã vào sâu được khoảng hai trăm cây số.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #46 vào lúc: 06 Tháng Bảy, 2010, 10:26:29 am »

*
*   *

Đội xung phong Trung Dũng đi theo một đường khác. Đội này quân số ít hơn, chỉ có mười bảy đồng chí, đại đa số là người dân tộc Thái, quê hương dọc sông Mã. Đồng chí Xích Vân được trao nhiệm vụ chỉ huy, đưa anh em vượt sông Hồng tiến vào đất Sơn La để bắt liên lạc với đồng chí trưởng Lê Thanh. Đồng chí Lê Thanh đã hoạt động từ trước ở vùng Mộc Thượng, Mộc Hạ, một vùng cơ sở nhỏ bé còn lại ở phía dưới Mộc Châu thuộc đất Sơn La. Vùng cơ sở này do tỉnh ủy Sơn La đã kiên trì giữ vững suốt từ khi địch đánh chiếm Sơn La, bộ đội chủ lực bị bật ra ngoài bờ sông Hồng, sang Phú Thọ, Mộc Thượng, Mộc Hạ có đầy đủ tính chất một căn cứ du kích đặc biệt. Nhân dân nơi này dưới sự lãnh đạo của tỉnh ủy đã rời bản vào các triền núi đá hiểm trở làm lán ở, bất hợp tác với giặc đến cùng. Trong vùng núi đá ấy, nhân dân đã sống triệt để theo quân sự hóa, cá gia đình chia thành từng tiểu đội, trung đội tương tự như bộ đội. Tất cả nam nữ thanh niên đều vào du kích. Nam thanh niên có nhiệm vụ chủ yếu là canh gác, tuần tra, đánh giặc để bảo vệ cho nữ thanh niên làm nương sản xuất. Lương thực thu hoạch được bao nhiêu đem chia đều theo đầu người. Ở đây không còn kinh tế cá thể. Mọi người gần như sống theo chế độ cung cấp, kể cả các tỉnh ủy viên cũng cùng ở với nhân dân. Khi đồng chí Xích Vân đưa toàn đội dến cũng được cấp phát mỗi đồng chí mỗi ngày một nắm xôi như tất cả những người khác trong khu căn cứ. Trước nếp sống chiến đấu rất mới mẻ ấy, các đồng chí chúng ta không khỏi thầm thán phục và hiểu ra; quản là nhân dân Tây Bắc cũng rất anh hùng.

Sau mấy ngày dừng lại ở Mộc Thượng, Mộc Hạ, toàn đội võ trang xung phong Trung Dũng tiếp tục lên đường. Lần này đi đã có thêm đồng chí Lê Thanh, đội trưởng. Toàn đội vẫn hướng về cái đích cuối cùng do Bác đã chỉ thị là Điện Biên Phủ. Tới bản A Má, một bản vẫn nằm trong vùng du kích, toàn đội dừng lại vì đươc tin địch sẽ về sục sạo khủng bố. Đồng chí Lê Thanh, Xích Vân nhất trí với nhau: phải tìm mọi cách bảo vệ dân. Sau khi điều tra biết bọn địch hay về càn không phải ai xa lạ, chính là một tên người làng hiện làm châu đoàn (chỉ huy dõng toàn châu) ở Mộc Châu. Lần nào về, gã cũng đem theo lính để lùng bắt cán bộ, quần chúng cơ sở và cướp bóc gà, lợn. Đồng chí Xích Vân, Lê Thanh bèn tìm đến nhà người em ruột của tên châu đoàn. Anh này là một thanh niên tốt. Các đồng chí ta bèn nói với anh Lò Văn Tình (em tên châu đoàn) cần phải theo dõi mọi hoạt động của tên phản quốc kia và giúp bộ đội bắt nó. Anh Tình không những không ngần ngại, mà vui vẻ nhận lời ngay. Quả nhiên hôm sau tên châu đoàn đem lính về, anh Tình đã bày mưu đưa cán bộ ta ập vào nhà bắt. Tới khi tên châu đoàn bị trói chặt, bấy giờ anh Tĩnh mới khóc: “Dầu sao nó cũng là anh em với tôi, nay đã đưa cán bộ về bắt được nó rồi, tôi chỉ xin đội tha chết cho nó, còn bắt tù bao nhiêu năm cũng được”. Rất cảm động trước tinh thần cách mạng, lòng yêu nước của người thanh niên hiền lành chất phác này, các đồng chí ta nhận lời sẽ tha giết tên châu đoàn. Lò Văn Tình mừng lắm đề nghị được đi theo đội. Về sau, dần dần anh trưởng thành, trở nên một trong những người cán bộ trung kiên, xứng đáng.

Sau khi rời A Mã, toàn đội bắt đầu đi vào vùng địch hậu theo nghĩa hoàn toàn đầy đủ của nó. Cũng bắt đàu từ đây toàn đội thay đổi chiến thuật, dùng lối :nhảy dù”: có nghĩa là dùng một bộ phận táo bạo di thật nhanh, thật sâu vào vùng tạm chiếm để tiến. Khi tới một cái đích đã định sẵn, bộ phận này mới dừng lại và tiến hành gây cơ sở. Trong khi đó bộ phận ở phía sau cứ tiến dần, vừa tiến vừa gây cơ sở hai bên đường để nối với cái đích mà bộ phận trước đã “nhảy dù” xuống. Cứ thế liên tục tiến lên, cho tới khi vào tới Điện Biên Phủ.

Đồng chí Lê Thanh được phân công trực tiếp chỉ huy bộ phận đi trước. Đồng chí Xích Vân chỉ huy bộ phận đi sau. Để che mắt địch cho dễ hoạt động và đi lại được dễ dàng, mau chóng, bộ phận “nhảy dù” nảy ra một mẹo nhỏ: giả trang làm binh lính địch về phép. Các đồng chí đã cố tìm được một bộ ka-ki giao cho một đồng chí cao lớn nhất mặc giả làm đội, còn các đồng chí khác mặc theo kiểu lính dõng. Sau khi đã giả trang, các đồng chí ta rất yên tâm có thể che mắt được địch, che mắt được cả nhân dân ha bên đường. Nhưng không ngờ qua ba ngày đi đường, các đồng chí ta đi tới đâu nhân dân cũng đều nhận ra ngay bộ đội Cụ Hò. Bởi lẽ, dù mặc giả địch, nhưng qua cách cư xử, các đồng chí ta vẫn hoàn toàn bộc lộ ra bản chất tốt đẹp của quân đội cách mạng. Đi tới đâu, các đồng chí cũng được nghe những câu nói gần giống như nhau: “Không phải Pháp ddâu! Lính của Pháp đến chỗ nào cũng đánh người, trêu phụ nữ, bắt gà, bắt lợn chỗ đó. Các anh không làm như thế, đúng là bộ đội Cụ Hồ rồi!”.

Thấy nhân dân nhận ra mình, các đồng chí ta đều lo lắng. Ai dám bảo đảm rằng quân địch sẽ không có chỉ điểm, tạo bản đến báo Pháp; “Việt Minh đã đột nhập vào vùng này?”. Thế nhưng qua ba ngày đóng vai kịch bất đắc dĩ ấy, đi qua hét bản này tới bản khác toàn đội vẫn hoàn toàn bình yên, vô sự. thâm chí có nơi tạo bản còn ra lệnh cho dân làng “không được bép xép lộ bí mật của các đồng chí!”. Một lần nữa, các đồng chí ta thêm tỉnh ngộ: trước sau nhân dân Tây Bắc vẫn một lòng yêu nước, vẫn tiến theo lá cờ của Đảng, mặc dầu vẫn đang bị địch kìm kẹp, o ép rất ngặt nghèo, khổ cực. Không một đồng chí nào không đọc được những niềm vui sướng, mừng rỡ trong ánh mắt của từng ngươi dân khi họ rụt rè đến gần và khe khẽ kêu lên: Ôi, các anh bộ đôi Cụ Hồ…”.

Sau ba ngày đi miết, các đồng chí ta tới Mường Sài, một bản ở gần sông Mã, cách biên giới Việt - Lào chẳng còn bao xa. Đây là cái đích đã được họn để cho dội “nhảy dù” cắm lại. Đồng chí Lê thanh đưa anh em vào rừng làm lán ở tạm, rồi cử một đồng chí trong đội trước đây vốn là chủ tịch Mường Sài hồi chưa bị giặc tạm chiếm trở về làn tìm cách bắt liên lạc với gia đình. Trong đôi còn có một đồng chí trước làm thư kí ủy ban một xã ở bên cạnh. Đồng chí này cũng được phái về làng gây cơ sở.

Công việc trong những ngày đầu khá trót lọt, tốt đẹp. Các đồng chí ta dựa vào các cơ sở mới được xây dựng lại, chia làm ba nhóm hoạt động rải ra một vệt dài mấy bản liền nhau từ Chiềng Khương xuống Mường Sài. Trước tình hình đó, đồng chí Lê Thanh bèn cử người ngay trở lại để đón bộ phận của đồng chí Xích Vân. Nhưng chỉ mấy hôm sau đó đã có những tin chẳng lành đưa về. Hai đồng chí đi đón bộ phận đồng chí Xích Vân đã bị địch phục kích bắn chết một. Quân địch đang tập trung để kéo về Mường Sài càn quét. Khi các đồng chí ta vừa kịp chuyển địa điểm vào trong rừng thì quả nhiên cuộc càn quét đã nổ ra. Địch bắt bớ nhân dân, lùng rừng, sục núi rất ráo riết. Tất cả các đường dây liên lạc giữa đội và cơ sở đều bị cắt đứt.

Bọn địch ở đây càn quét rất dai dẳng, có ý dồn các đồng chí ta lâm vào tình thế bế tắc. Đứng không yên nữa, các đồng chí trong đội đã buộc phải rời bỏ Mường Sài, vượt núi kéo sang một bản khác. Bản này toàn người mắc bệnh hủi. Nhưng vì lòng nhân đạo của Đảng, vì cần thiết phải có cơ sở trong nhân dân, các đồng chí ta không quản bệnh tật, bí mật lần xuống núi, tìm vào từng nhà đồng bào. Nom thấy các đồng chí ta, mọi người không khỏi ngạc nhiên và cảm động. Tất cả đều khóc “Ôi! Cụ Hồ, Chính phủ đã không ruồng bỏ những người tật bệnh như chúng tôi…, ơn này biết lấy gì đền đáp…”. Từ buổi đó, các đồng chí ta đã có một chỗ ẩn náu để hoạt động. Những cũng chẳng được bao lâu, quân địch ở Mường Sài đánh hơi thấy quân ta xuất hiện ở đây, lại kéo quân sang truy lùng dữ dội. Giữa lúc đó, bộ phận đồng chí Xích Vân ở phía sau kéo lên. Nhận thấy chưa thể tập trung được, đội vẫn phải bắt buộc phân tán, đồng chí Xích Vân đành phải đưa bộ phận của mình quay trở lại, đồng thời làm nhiệm vụ nghi binh để thu hút, đỡ đòn cho bộ phận đồng chí Lê Thanh. Kế hoạch ấy đã có hiệu quả. Bọn địch ở Mường Sài và ở bản đồng bào hủi thấy có dấu hiệu quân ta rút lui, bèn hấp ấp kéo quân đuổi theo. Thế là vòng vây được giải tỏa. Tình hình Mường Sài dần dần trở lại yên tĩnh. Nhưng cũng chỉ được ít ngày, quân địch lại từ các đồn Mai Sơn và Then Luông (trên đất Lào) kéo vào càn quét.

Trận càn quét này còn có phần còn ác liệt, dai dẳng hơn trận trước. Các đồng chí chúng ta và nhân dân địa phương lại sống những ngày cực kì căng thẳng. Tất ả các bản bị ây hặt. Không một người nào đươc phép ra rừng. Tất cả các đường mòn, khe suối đều có trạm lính gác. Các đồng chí ta bị dồn lên tận các mỏm núi cao nhất, không có một khe nước nhỏ, không có một thứ củ rừng nào có thể ăn được. Bệnh tất bắt đầu hoành hành cùng với những cơn đói kéo dài đến kiệt sức. Tất cả anh em nhìn nhau lắc đầu, muốn ứa nước mắt. Mấy hôm sau, quân ta bắt đầu rút khỏi vòng vây, đi ngược trở lại, lần tìm trở về căn cứ Mộc Thượng, Mộc Hạ…
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #47 vào lúc: 06 Tháng Bảy, 2010, 10:27:20 am »

*
*   *

Riêng đội xung phong Quyết Thắng lên đường có phần sớm hai hai đội kia một vài tuần. Hướng đi của đội theo phái Cam Đường (Lào Cai) - Phong Thổ rồi xuống Tuần Giáo, vào Điện Biên Phủ. Đội xung phong Quyết Thắng vượt sông Hồng vào một đêm tối trời, mưa tầm tã. Đặt chân sang tới bờ bên kia, toàn đội đã bắt đầu sống với núi rừng hoang vu. Các làng bản đều đã bị địch đốt cháy từ lâu. Nhân dân một phàn bị tập trung vào các chân đồn, một phần chạy tản mác vào núi. Toàn đội im hơi lặng tiếng, tìm đường để tiến vào phía Châu Quế, Vũ Lao sau đó sẽ ngược lên Cam Đường. Tất cả các con đường mòn có sẵn địch đều kiểm soát rất ngặt. Các cứ điểm ở đây hình như có pần còn dày hơn ở các vùng phía dưới. Toàn đội đã phải chiếu hướng, xuyên rừng mà đi. Gặp núi vượt núi, gặp suối lội suối, gặp khe xuống khe, phá rừng lấy đường mà đi, gian nan cực khổ không sao kể xiết. Người khỏe dìu người ốm, toàn đội nghiến răng, cố gắng bước, không một ai chịu lùi. Nhưng đến một hôm, khi toàn đội mới ra khỏi cửa rừng, chưa tới Châu Quế thì đã gặp địch. Trân đánh diễ ra rất bất ngờ. Quân địch đông gấp bội. Toàn đội phải phân tán sau những giờ chiến đấu quyết liệt. Từng đồng chí, từng bộ phận phải hái rau rừng để năm, chém gốc nứa lấy nước để uống và tìm đường quay trở lại.

Sau một thời gian củng cố, toàn đội lại vượt sông Hồng lần thứ hai, tiến vào Tây Bắc. Tuy nhiên do chưa già dặn trong công tác địch hậu, khi tới gần Châu Quế, anh em lại bị địch vây càn ráo riết. Toàn đội lại bật trở ra một lần nữa.

Thất bại liên tiếp, bệnh tật, ốm đau, hi sinh, không thực hiện được nhiệm vụ. Suốt mấy tháng đầu năm 1948, tất cả các đội võ trang tuyên truyền của liên khu đã phải trải qua những ngày lo nghĩ thật căng thẳng. Phương châm, đường lối của Đảng rất đúng, nhưng tại sao mọi việc vẫn chưa thắng lợi? Chúng tôi dần dần hiểu ra: chúng tôi vận dụng phương châm, đường lối ấy chưa thật tốt trong liên khu, chưa chỉ đạo tốt các đơn vị trong quá trình hoạt động. Chúng tôi chưa làm cho các đội thấm nhuần sâu sắc, triệt để phương châm của Đảng, nên các đội thường quên nhiệm vụ gây cơ sở, thiên về tác chiến với địch. Có đội quên cả nguyên tắc công tác bí mật. Bệnh “công khai” còn rất nặng nề. Điều này hoàn toàn trái với phương pháp hoạt động võ trang tuyên truyền,. Tổ chức của các đội cũng chưa thật thích hợp vơi đặc điểm của chiến trường Tây Bắc. Nói chung tổ chức các đội còn nặng nề, cồng kềnh và thiếu rất nhiều cán bộ người dân tộc địa phương. ngoài ra, các cán bộ, đôi viên của các đội đều chưa được huấn luyện tốt. Tất cả hầu như chỉ mới có được một điều cơ bản là lòng trung hành và tận tụy.

Liên khu ủy, Bộ tư lệnh quân khu đã nghiên cứu rất kĩ toàn bộ những vấn đề đó rồi đề ra chủ trương: phải nhanh chóng củng cố lại các đội tăng cường tới mức cao nhất cán bộ người dân tộc địa phương. Việc tổ chức huấn luyện luân chuyển cho cán bộ, đội viên của các đội cũng được đặt ra một cách khẩn trương.

Một hội nghị chuyên về công tác võ trang tuyên truyền của liên khu đã được mở ra dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Quân khu ủy. Trên bộ cũng rất quan tâm tới hội nghị này. Đồng chí Văn Tiến Dũng thay mặt bộ xuống tham dự hội nghị. Có thê coi đây là một lớp học sống. Biết bao nhiêu thiếu sót, khuyết điểm đã được vạch ra và phân tích cặn kẽ. Khá nhiều kinh nghiệm bổ ích đã được đúc kết lại thành những bài học, những nguyên tắc để tiến lên giành thắng lợi. Cũng từ cuộc hội nghị ấy niềm tin tưởng đã được dần dần nâng cao. Những tâm lí bi quan, dao động đã đọc dần dần giải quyết.

Lại một lần nữa, chúng tôi đem hết tâm lực của mình ra chăm sóc cho các đội để anh em lại có thể mau chóng quay trở vào Tây Bắc.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #48 vào lúc: 06 Tháng Bảy, 2010, 10:29:05 am »

V

Cũng trong thời kì các đội võ trang tuyên truyền hoạt động, những đại đội độc lập của liên khu đã phải trải qua rất nhiều khó khăn gian khổ. Các đại đội phải phân tán thành từng tổ nhỏ, “nhảy dù” vào lòng địch. Hàng tháng trời, các chiến sĩ phải ẩn náu trong rừng, chịu đựng đủ mọi gian nan, nguy hiểm. Có những nơi bị địch tuyên truyền lừa gạt, nhân dân thấy bóng cán bộ là lẩn trốn. thậm chí có nơi đã có người đi báo quân Pháp về vây bắt, hoặc vác dao đuổi giết. có những nơi nhân dân không nghe những lời xảo trá, xuyên tạc của địch nhưng lại sợ uy thế củ chúng, nên gặp bộ đội chỉ đành ứa nước mắt, rồi đề nghị hãy tạm lánh đi nơi khác, kéo địch biết, kéo về khủng bố. Trong tình hình nhân dân khó khăn phức tạp thì địch lại luôn luôn vây lùng dữ dội. Chúng treo giải thưởng lớn cho những ai cắt được đầu cán bộ, bộ đội. Chúng phục kích trên các nẻo đường, lần theo khắp các khe suối. Đã có một số đồng chí ta bị bắt hoặc bị giết. có đồng chí bị lạc chạy hàng tháng trong rừng sâu, phải ăn lá cây cầm hơi.

Nơi ở của các chiến sĩ thường là những gốc cây, hang đá. Nhưng vẫn phải luôn luôn di chuyển. Có nhiều khi đang đêm cũng phải trở dậy để thay đổi vị trí. Anh em đã phải chịu đựng những cơn mưa rừng tầm tã, những đợt gió lạnh nhức xương, những cơ suốt rét ác tính làm mê man bất tỉnh mà không có một giọt hồ, giọt cháo, chưa nói tới thuốc men.

Gian khổ như vậy, nhưng tất cả các chiến sĩ đã thâm nhuần chủ trương của Đảng, với bản chất cách mạng cao đẹp, vẫn kiên trì bám rừng, bám núi dể tiến tới bám được nhân dân mà hoạt động. Nói tới những đại đội độc lập vinh quang ở trên các miền Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái phải nơi tới đại đội Thắng Bình, thuộc trung đoàn X. Từ Lao - Hà rút trở về vùng Phố Ràng vào thu đông năm 1947, đại đội Thắng Bình là một trong những đại đội độc lập đầu tiên được thành lập của liên khu. Trong những ngày thoạt vào rừng Lương Sơn, đại đội Thắng Bình phải phân tán trong rừng sâu nghe ngóng một thời gian sau đó mới lần ra nương để tìm gặp dân. Nhưng vừa nom thấy bóng quân ta, đồng bào đã vội vã bỏ chạy, mặc dầu nương lúa đã vàng hoe, sắp đến ngày gặt hái. “Cái giặc nó về đấy!”. Các đồng chí ta lòng xót như xát muối, đành đứng lại để nguyền rủa bọn giặc Pháp quỷ quyệt để xuyên tạc, lừa bịp nhân dân đến nông nỗi ấy. Nhưng không hề nản chí, thấy nhân dân bỏ nương chạy, các đồng chí bèn bảo nhau chông nom, vun xới, rào lại cho thú rừng khỏi phá hoại. Khi lúa chín, các chiến sĩ ta gặt hái, gánh về làm lán cất giấu cho nhân dân thật chu đáo. Từ cái máng nước bị hỏng, mảnh nương chưa có người làm cỏ, cho tới con đường ra suối lầy lội… Tất cả đều có những bàn tay ân cần, khéo léo của các đồng chí ta mó tới sửa sang, làm hộ. Những gia đình nghèo khổ thường xuyên nhận được những bức thư thăm hỏi, có kèm theo kim chỉ hay muối trắng. Tất cả những hành động ấy dần dần đã lọt vào trong mắt nhân dân, làm cho mọi người phải suy nghĩ, bàn tán. Đồng bào bắt đầu thấy thương những “người tốt bụng” ấy phải ở rừng, ở núi, không có cơm ăn, nước uống tử tế. Đồng bào bắt đầu hiểu được: đây không phải là giặc như quân Pháp đã nói. Người ta dần dần nhớ lại tất cả những chuyện trong những nbgày còn tăm sối xưa. Trước đây “những người này” kéo về với lá cờ đỏ sao vàng, đã làm cho dân biết bao điều tốt. Không! Họ quyết không phải là giặc rồi! Ngày xưa, mọi người vẫn quen gọi là Việt Minh, là bộ đội…

Một hôm, một tổ của đơn vị ra nương thấy có gói cơm nếp và mấy bắp ngô để lại. Hôm sau lai thấy như thế. Anh em đón đợi và gặp một cụ già… Từ đó, đại đội bắt đầu có cơ sở quần chúng đâu tiên, rồi dần dần phát triển lên mãi, từ gia đình này tới gia đình khác.

Tình hình khá lên hẳn. Các hình thức đấu tranh với địch như: chống đi phu, chống nộp thuế, chống bắt lính bắt đầu được triển khai và đẩy mạnh. Sau đó, các đội du kích được thành lập. du kích hoạt động vũ trang đã tới. Chi bộ đại đội nhận chỉ thị mới của liên khu phải nắm vững phương châm “đẩy mạnh du kích chiến”, cho nên đã đấu tranh thắng lợi với những tư tưởng “ăn to, đánh lớn” và nhất là tư tưởng trận địa chiến còn khá nặng nề trong đầu óc nhiều đồng chí cán bộ. Sau đó chi bộ chủ trương lãnh đạo bộ đội đánh một trận phục kích nhỏ trên đèo Mã Yên Sơn để lấy thực tế giải quyết triệt để moi vướng mắc, hồ nghi còn tồn tại. Lúc này địch đang xây ứ diểm Phố Lu và các cứ điểm vừa chiếm được. Chúng phải luôn luôn di chuyển trên các đường giao thông để tiếp tế lương thực cho nhau. Trận Mã Yên Sơn tuy nhỏ, nhưng đã giết gọn được dăm tên dõng, thu được một số chiến lợi phẩm. Thắng lợi đầu tiên ấy đã làm cho tinh thần chiến sĩ và nhân dân đều phấn chấn hẳn lên. Chi bộ đại đội lại chủ trương chuẩn bị kĩ để đánh tiếp một trận nữa ở Cốc Chiếm.

Trận phục kích nhỏ lần này đã thắng lợi giòn giã, chiến lợi phẩm gồm một súng trường Mỹ, hai mũ sắt, hai con bò và một túi đầy thư từ. Bắt đầu từ đó, các chiến sĩ trong đại đội mới thực sự biết thế nào là đánh du kích và đánh du kích tốt như thế nào.

Không đầy nửa tháng sau, đại đội lại đi phục kích địch ở làng Bon. Cả đại đội đi với mục đích để anh em “tham quan”, còn thực sự tham gia chiến đấu chỉ có một trung đội bố trí rất kín đáo tại một vị trí rất bất ngờ và hiểm trở. Ta lại thắng lợi. Thu hai súng Mỹ, đạn Mỹ và lương thực của Mỹ.

Từ bấy giờ cho sang tới cuối tháng 5 năm 1948, đại đội liên tiếp đánh nhiều trận khác, tính ra trong ba tháng đại đội đánh mười trận phục kích, hai mưoi trận bắn phá. Đơn vị huấn luyện được liên tiếp ba bốn lớp dân quân. Mặt khác, anh em địa phương cũng nô nức xin đi theo đại đội. Bắt đầu từ đó, đơn vị có anh em người địa phương. Phong trào mỗi ngày một lên cao và mở rộng. Đã có những xã bộ độ ta đi lại hoạt động công khai giữa ban ngày, trong khi các xã chung quanh địch vẫn còn kiểm soát.

Tới đầu mùa hạ, quân địch củng cố xong các vị trí, chúng đưa quân từ Lào Cai về thêm, đánh tràn qua vùng Lương Sơn, rồi chiếm đóng các làng chung quanh như Tổng Già, Khe Pịa, Ngòi Mác, Nủ, Trí Ngoại, xuống tới cả Bến Cóc… Chúng đã chọc thủng hết khu vực hoạt động và căn cứ của đại đội Thắng Bình. Cơ sở vỡ lung tung. Cso đồng chí đã lo lắng phát biểu: “Nếu không rút về Lục Yên Châu, chúng nó sẽ bắt gọn không còn một người”. Trong tình hình ấy, chi bộ đại đội lại đấu tranh để nắm vững đường lối của Đảng và nhiệm vụ của cấp trên giao phó, kiên quyết chủ trương không rút và đã tìm ra được mọt biện pháp rất tích cực để phá tan âm mưu và kế hoạch vây quét của địch. Chi bộ nêu khẩu hiệu “Đánh ngay vào bụng giặc” và khẳng định ; quân giặc muốn đông thế nào cũng không thể diệt mổi một đại đội độc lập của chúng ta.

Thừa lúc chung đang rầm rộ tỏa xuống để vây càn ở đây, ta phải kiên quyết, dũng cảm, bí mật luồn lên, thúc sâu vào vùng kiểm soát của chúng.

Sau đó, toàn đại đội đã phân tán ra nhiều tổ, đi làm nhiều ngả, tiến vào vùng chung quanh Phố Ràng, Bảo Hà, Bắc Cường và ngược lên nữa. Cuộc hành quân rất gian nan, vất vả, nhưng tư tưởng đã được thông suốt nên tất cả các bộ phận đều hăng hái luồn rừng, vượt núi, đi đêm, đi ngày không nghỉ. Trận đầu tiên của đại đội là trận phục kích Khe Pịa ngày 6 tháng 6 năm 1948. Trận này ta thu được một cặp tài liệu quý của chính tên đồn trưởng dồn Phố Ràng. Máy ngày sau đó, bộ phận thứ hai của đại đội lại đánh ở Dốc Sài. Chỉ có một quả mìn nhỏ chôn ở mặt đường và một ổ phục kích, quan ta đã giết được ba tên địch, thu một số súng, có cả khẩu trung liên còn mới nguyên.

Các bộ phận khác tiến hẳn vào các vùng sau lưng Phố Ràng để phá ngụy quyền. Quân ta đi tới đâu, ngụy quyền bị tan rã tới đó. Trong hơn hai tháng, đại đội đã đánh được ba mươi trận phục kích, hai mươi trận bắn phá vị trí; về chính trị, đã tranh thủ được nhân dân ở khắp các làng trong vùng địch giữa ranh giới ba tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái.

Cam Pan - chỉ huy trưởng tiểu khu Phố Ràng không dám mải mê với công cuộc càn quét quy mô nữa. Gã đã bị lạnh gáy và khi quay cổ lại thì thấy ở sau lưng mình đối phương đã làm cho xáo trộn, nghiêng ngả. Cực chẳng đã, Cam Pan phải ra lệnh rút quân bỏ Bến Cốc, bỏ Nủ, bỏ Trì Ngoại…; bỏ tất cả những nơi vừa chiếm được, tức tốc quay về củng cố lại Phố Ràng. Tình hình trở lại y nguyên như cũ tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi cho quân ta hoạt động tốt hơn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #49 vào lúc: 06 Tháng Bảy, 2010, 10:31:31 am »

*
*   *

Đại đội Kim Sơn Cùng với đội võ trang tuyên truyền xung phong Quyết tiến hoạt động ở vùng Nghĩa Lộ, Than Uyên, Tú Lệ. cũng giống như đại đội Thắng Bình, đại đội Kim Sơn là một trong những đơn vị xuất sắc ở bên hữu ngạn sông Hồng. Đại đội đã giác ngộ được một người thuộc tầng lớp trên của dân tộc Mèo (viên thống lí ở Trạm Tấu) do đóc công tác gặp khá nhiều thuận lợi, gây được nhiều cơ sở rất tốt ở vùng bản Liu, bản Hát, Trạm Tấu… Sự thành công lớn nhất và cũng là đặc điiểm nổi bật nhất của đại đội này là chi bộ đã biết nắm vững phương châm hoạt động của Đảng đề ra, lãnh đạo bộ đội tổ chức được cả một vùng đồng bào Mèo thành một vùng cơ sở rất vững, có những đội du kích giỏi, mà nổi tiếng nhất là đội du kích trên dãy núi Cao Phạ. Đội du kích anh hùng này đã hiên ngang giữ vững dải núi hùng vĩ ấy suốt tám năm kháng chiến. Đường liên lạc giữa Than Uyên - Nghĩa Lộ của địch thường xuyên bị anh em cắt đứt. Đường từ Nghĩa Lộ đi Mù Cang Chải cũng luôn luôn bị uy hiếp. Có những gia đình cả hai anh em cùng tham gia du kích và chiến đấu cùng hăng hái, bền bỉ như nhau: đó là hai anh em ông Giàng Phố Kỷ. Người đội trưởng đầu tiên của đội là ông Súng Tu, sau đó là đồng chí Lý Nụ Chu. Lúc ấy trong đội vẫn chưa có chi bộ Đảng, đội hoạt động theo sự lãnh đạo của các đồng chí đảng viên bên quân đội và họ chỉ biết rằng Đảng là Cụ Hồ, Cụ Hồ là Đảng. Cụ Hồ bảo tức là Đảng bảo, cứ thế mà làm… Trong lịch sử chiến đấu của đội chỉ có một lần chín đội viên bị địch bắt. Nhưng cả chín đội viên ấy khi bị giải về Nghĩa Lộ đã lấy súng của giặc, bỏ trốn về đầy đủ, không những thế còn tháo cửa nhà giam để cho một số đông nhân dân bị địch bắt cũng trốn được. Có lúc bị địch vây càn lớn, đại đội Kim Sơn hoạt động xa, toàn đội du kích Cao Phạ đã mất liên lạc hoàn toàn với Đảng, với chính quyền, với quân đội nhưng vẫn tuyệt đối trung thành, kiên trì chiến đấu liên tục. Cho đến khi trở về, các cán bộ không khỏi ngạc nhiên khi thấy toàn đội du kích ây vẫn kiên trì hoạt động chiến đấu và đã thu được nhiều thắng lợi.

Tôi đã nói tới những thành công bước đầu ở một, hai trong số rất nhiều đại đội độc lập của liên khu. Tuy nhiên cũng phải nói thêm rằng trong thời kì đầu, các đội không phải không gặp khá nhiều sai lầm do trình độ nhiều mặt còn non yếu, chẳng khác gì những đội võ trang tuyên truyền. Ngay chính bản thân đại đội Thắng Bình trong thời kì đầu cũng đã có nhiều lần không nắm vững phương châm hoạt động, đã đem cả hai trung đội đi cường tập Phố Ràng, không những không diệt được dồn mà còn bị tổn hại dến sinh lực, cơ sở. Đại đội Kim Sơn cũng vậy, sau khi vào Tú Lệ gây được cơ sở tốt, lập được chính quyền, sinh ra chủ quan. Địch bất ngờ tấn công, cả đại đội lao đao, phải rút ra vùng tự do, cơ sở tan vỡ một phần lớn. Ở Yên Bái, Sơn La, các cấp ủy địa phương cũng có những chủ trương không đúng như đưa một đại đội độc lập ra vùng tự do để củng cố. Đến khi củng cố xong quay trở vào thì các cơ sở đã bị địch phá tan hoang.

Liên khu ủy, Bộ tư lệnh liên khu đã chăm lo tới việc củng cố, chỉ đạo cá đại đội độc lập không kém gì các độ võ trang tuyên truyền. Đối với các tiểu đoàn tập trung cũng vậy. Cả ba hình thức tổ chức ấy đều liên quan rất chặt mật thiết với nhau, cái nọ hỗ trợ cái kia cùng phát triển. Điều chăm lo trước hết vẫn là tăng cường công tác Đảng, công tác chính trị. Sinh hoạt Đảng của tất cả các đội đều được chỉ đạo chặt chẽ. Do đặc điểm của chiến trường rừng núi của liên khu, do đặc diểm hoạt động phân tán của các đội cho nên chúng tôi đã chú trọng xây dựng, bồi dưỡng các chi bộ có trình độ tự động, độc lập công tác. Làm như vậy nhằm tạo cho mỗ chi bộ khi đi sâu vào vùng địch hậu, dù mất liên lạc với khu vẫn tiếp tục lãnh đạo bộ đội theo đúng phương châm, đường lối của Đảng, giành lấy thắng lợi. Công tác chính trị cũng tập trung xây dựng cho mỗi cán bộ, chiến sĩ có tinh thần cách mạng tốt, tin tưởng ở quần chúng, chịu đựng gian khổ, đoàn kết và kỉ luật, quyết tâm làm tròn nhiệm vụ.

Với tất cả những bài học đã có từ khi xây dựng, chỉ dạo các đội võ trang tuyên truyền, Cứu quốc quân hồi tiền khởi nghĩa tới nay đã trải qua những vấp váp, thất bại đầu tiên, quân khu càng tích lũy thêm được những kinh nghiệm xương máu và càng hiểu sâu sắc bí quyết, điều mấu chốt đê lãnh đạo các lực lượng vũ trang xây dựng chiến đấu giành lấy thắng lợi. Cũng chính vì thế mà công tác tổng kết kinh nghiệm của Liên khu 10 rất được coi trọng ngay từ khi những ngay đầu. Mùa hè năm 1949, Liên khu 10 đã đóng góp kinh nghiệm của mình trong hội nghị chính trị viên toàn quốc bằng hai bản báo cáo tổng kết: Chỉ đạo tự động công tácVõ trang tuyên truyền, đại đội độc lập.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM