VoMinhGiang
Thành viên
Bài viết: 91
Sống trên đời sống cần có một tấm lòng.
|
|
« Trả lời #70 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2010, 06:57:30 pm » |
|
Trên tờ báo Chính Đạo trong số ra ngày 05 tháng 9 năm 1969 có đăng bài ở vị trí trang trọng nhất với đầu đề: "Để nói lên khí thế hào hùng của dân tộc" và tên tác giả ghi rõ ràng: Lê Quang Bằng tức Việt Bằng. Tuy bài báo đăng ngày 5 tháng 9, khi các báo Sài Gòn lần đầu tiên loan tin Bác Hồ từ trần nhưng tác giả ghi ngày viết bài: 3 tháng 9 năm 1969, đúng ngày tác giả đón được tin buồn Chủ tịch Hồ Chí Mình đã ra đi (Theo thông báo lúc đó). “Thế là Ông Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã giã biệt tất cả chúng ta vào lúc 9 giờ 45 ngày 22 tháng 7 năm Kỷ Dậu, tức là ngày 03 tháng 9 năm 1969, hưởng thọ 79 tuổi. Theo truyền thống xử thế của dân tộc Việt Nam thì "chết là hết, một khi một người nằm xuống thì mọi việc người ấy làm lúc sinh thời dù phải, dù trái đều được người sống bỏ qua để rồi cùng tiễn đưa nhau về nơi an nghi cuối cùng. Do đó, tất cả những gì được gói ghém trong những dòng viết dưới đây chi nhằm nói lên cảm nghĩ của một người Việt đối với một người Việt đã làm cho tất cả thế giới phải biết đến cái tên "Nước Việt và "Người Việt . Thế thôi. Ông Hồ Chí Minh, một con người có một tiểu sử khá thần thoại mà có lẽ sau khi ông chết đi, tính chất thần thoại chứa đựng tiểu sử cửa ông vẫn chưa chết theo. Nếu chỉ phê phán Ông qua sứ mạng chống xâm lăng giành độc lập cho xứ sở thì không ai có thể phủ nhận rằng ông đã thành công trong việc lãnh đạo một dân tộc lạc hậu sau 100 năm ngoại thuộc, bị ngoại bang bóc lột tới tận xương tủy và vừa phải khoác lên đầu vành khăn tang đau thương vì hai triệu người ruột thịt vừa qua gục ngã khắp hang cùng ngõ hẻm, xó chợ đầu đường vì kế hoạch triệt đường lương thực cửa thực dân Pháp và phát xít Nhật mà chính những người còn sống chưa được phục hồi. Nhưng… Chín năm sau, thực dân Pháp, một cường quốc cai trị một phần tư thế giới này đã phải đầu hàng đoàn quân của Ông. Ngừng tay chiến đấu được năm năm giữa lúc còn chưa phục hồi được những gì do chín năm chiến tranh tiêu thổ tàn phá đất nước, Ông lại phải đương đầu uới một siêu cường quốc số một trên thê giới này. Ai dám bảo rằng mười năm sau, siêu cường quốc kia sẽ phải điêu đứng và hầu như sẽ bị sụp đổ vì Ông. Cá nhân tôi trước đây tôi ra nước ngoài, vì chưa mấy người ngoại quốc biết rõ nước Việt Nam ở đâu? Người Việt Nam da dẻ thế nào? Có phải một tiểu quốc Phi Châu nào đó không? v.v... Nhưng ngày nay con mắt người ngoại quốc nhìn ta đã khác rồi. Và chính tôi, dù chi là một công dân không tên tuổi, tôi cũng không còn ám ảnh bởi bất cứ một thứ cảnh tự ti nào trước mắt họ nữa. Đó là nguyên nhân thúc đẩy tôi, dù phải nhận lãnh mọi hậu quả, tôi cũng không thể không nói lên những lời này, không phải để làm lợi cho Cộng sản, mà chính là để cho các đồng sự ngoại quốc của tôi không hiểu lầm rằng tôi đã ngu muội tới mức không dám công khai thừa nhận một “Vĩ nhân siêu việt” ấy chính là sản phẩm của giống nòi tôi. Tôi xin chân thành tạ lỗi trước các nhà hữu trách và xin chô phép tôi được viết lên những dòng này để nếu có thể được thì nói lên cái tâm tư của cả quý vị nữa. Do đó những lời tôi nói đây, tuy bể ngoài nói về Ông Hồ Chí Minh nhưng thực ra nói cho tất cả chúng ta vậy”. Tấm lòng người dần miền Nam - mặc dù bị địch o ép, kìm kẹp - đối với Bác Hồ, lãnh tụ của dân tộc, không có bút nào tả xiết. Những ngày sau đó, ba anh em đã nghe kể về lễ cầu siêu cho Bác Hồ ở chùa Khánh Hưng (hiện ở đường Cách mạng tháng Tám) do Thượng tọa Pháp Lan chủ trì. Sau ngày Bác mất, chú Tám Cần, một cán bộ lãnh đạo vận động trí thức hỏi Thượng tọa Pháp Lan: - Thượng tọa có dám lảm lễ truy điệu Cụ Hồ không? Chủ Tám Cần đã nhận được câu trả lời dứt khoát: - Nhà chùa không dám làm lễ truy điệu Cụ thi chả' khác nào thợ mộc không dám đóng thang. Nhưng tổ chức lễ như thế nào cho trọng thể, có ý nghĩa và che được mắt bọn an ninh mật vụ mới khó, nhất là khi những người đứng ra tổ chức buổi lễ đều muốn có hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng và bài vị của Cụ Chủ tịch Hồ Chí Minh trên bàn thờ. Trước 7 giờ tối ngày 9 tháng 9 năm 1969, những trí thức có tên tuổi ở Sài Gòn Hồi đó như bà Ngô Bá Thành, luật sư Trần Ngọc Liệng, các ông Nguyễn Long, Dương Văn Đại, Đặng Văn Kỳ... cùng các thiện nam tín nữ đều đã tề tựu tại chùa. Trên bàn thờ chỗ đặt bài vị có ghi mấy chữ nho: "Quốc gia tối thượng" có nghĩa là "Quốc gia trên hết" và cũng có thể hiểu là bài vị đó của "Người cao nhất nước" đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Như thường lệ, trên bàn thờ có đặt mâm hoa, mâm quả. Bên mâm hoa, Thượng tọa Pháp Lan cho bày bông Trang (màu hồng) thay cho nền đỏ và bông Điệp làm ngôi sao vàng. Bên mâm quả cũng có cách sắp đặt rất khéo léo: Những quả thị thay thế màu vàng và trái mận hồng đào (quả doi hoặc bống bồng) xếp làm cờ đỏ. Tuy đã công phu như thế nhưng những người đứng ra tổ chức buổi lễ vẫn chưa thật hài lòng. Phải làm sao ghi được tên và chừ đệm của Bác là Chí Minh trong lễ cầu siêu. Tất nhiên, chính quyền Sài Gòn không cho phép bất cứ cá nhân hay đoàn thể nào được thờ cúng Bác công khai nên vị chủ trì chùa Khánh Hưng đã thức trọn đêm để nghĩ ra đôi câu đối: "Nam Bắc, toàn dân quy thượng chính Á, Âu, thế giới kính tu mi." Về nghĩa đôi câu thật rõ ràng. Về thứ nhất có nghĩa là toàn dân việt Nam từ miền Nam tới miền Bắc quy phục người chính trực có chính nghĩa cao nhất. Về thứ hai nói lên tấm lòng của nhân dân thế giới, đặc biệt là nhân dân châu á, châu âu vô cùng kính phục đấng tu mi nam tử. Đặc biệt, hai từ cuối của hai về đối nếu nói lái ngược lại là tên Bác Hồ: Chí Minh. Vấn đề quan trọng nhất, chủ chốt của buổi lễ cầu siêu là bài điều văn, Thượng tọa (nay cụ đã thăng chức cao nhất của Phật giáo là Hòa thượng), đã thảo xong điều văn, chép làm ba bản. Thượng tọa cho chôn cất kỹ hai bản. Bản còn lại, để đề phòng bọn an ninh, cảnh sát tràn vào chùa dùng vũ lực tịch thu mất, Thượng tọa đã tẩm sáp phía sau tờ giấy và mặc dù đêm đó Sài Gòn có điện, Thượng tọa vẫn đặt cạnh chỗ đứng của mình hai ngọn đèn cầy (nến). Để thật an tâm khi hành lễ, Thượng tọa bố trí những vị sư, chú tiểu và các phật tử là nam thanh niên khỏe mạnh, lực lưỡng đứng bên nhau thành hàng rào danh dự để tăng thêm vẻ trang nghiêm, tôn kính của buổi lễ và sẵn sàng xả thân đối phó với cảnh sát, nếu chúng muốn xông vào hành hung Thượng tọa Pháp Lan đọc bài điếu. (Vì hôm đó Thượng tọa mới đọc được nửa chừng thì cảnh sát ập đến đàn áp, Thượng tọa châm bài điều tẩm sáp vào ngọn nến đốt cháy ngay). Nhưng bà con Sài Gòn đã có dịp đọc toàn vặn bài điều: "Nam mô Bổn sư Thích Ca Mau Ni Phật. Hôm nay đứng trước Linh bài hòa vọng với khói hương nghi ngút trước Anh Linh Người vô vàn kính mến, trọn đời đã vì nước mà quên mình, vì Tổ quốc và nhân dân. Bác không sợ nguy hiểm tới tính mạng. Nhớ Linh xưa, Bác là đấng anh hùng vĩ nhân ái quốc, đã đem từng giọt máu quyết tâm trừ khử loài sâu bọ, mong sao được rạng vẻ sơn hà. Vì lẽ ấy cho nên Bác quyết ra tay diệt giặc, phấn đấu kiên cường, đánh đuối quân thù, oai danh lừng lẫy, trải biết bao gian lao cực khổ, lướt gió xông sương, bươn nguồn vượt suối, quyết gìn giữ giang sơn Tổ quốc. Bác là bậc hào kiệt vô song, trọng nghĩa vụ nặng hơn núi cả, tài bặt thiệp khắp hoàn cầu Âu, Á, trí thông minh nổi tiếng cả Đông Tây; tuôn máu đỏ, nhuộm cờ hổng, dựng khắp non sông đất Việt, lấy da vàng, nêu sao sáng phất rạng cõi trời nam. "Nhớ Bác càng thương, càng khóc; thấy bọn giặc thêm hận, thêm thù. Khóc là khóc đấng thiện tài lỗi lạc, đuối xâm lăng đòi độc lập tự do, trọn đời mãi lo âu cho dân tộc. Quê hương còn đó, nước non còn đó, uất hận thay vật đổi sao dời, nghĩ mấy đoạn lệ tràn chan chứa, nhớ công ơn cảm động can trường". "Ôi! Lồng lộng trời cao mây phấp phới, thinh thinh' bê rộng sóng vơi đầy. Nước non còn, hào kiệt vẫn còn; anh hùng tử, khí anh hùng hà tử. Lư trầm cảnh khói hương ngào ngạt, kính cẩn lòng ngưỡng đạt trước Chân Linh, giúp sơn hà mau đạt được thái bình, phò Tổ quốc chóng mau Độc lập”. Cẩn cáo Đài Tiền, Cung Dung khấu thủ . Ba anh em Tư Linh, Ba Vĩ, Mười Tuân háo hức rủ nhau đi thăm chùa Khánh Hưng. Chùa không rộng lắm, ở cách đường khoảng hơn trăm mét. Các cậu nghe kể lại chi tiết buổi lễ truy điệu tối ngày 09 tháng 9 năm 1969 các thiện nam tín nữ đứng chen chúc chật ních ở trong chùa. Thượng tọa Pháp Lan to, cao trên lm70, nặng không dưới 80 kilôgam, có khuôn mặt từ bi, giọng nói truyền cảm. Nhận được giấy gọi của quận trưởng cảnh sát buộc phải lên trình diện, thượng tọa Pháp Lan báo ngay tin dữ cho các phật tử. Không chậm trễ, từng đoàn thiện nam, tín nữ đi bộ, đi xe đạp, xe gắn máy, ngồi xích lô cứ nườm nượp kẻo đến túc trực bên ngoài đồn cảnh sát. Để xoa dịu cơn phẫn nộ, giận dữ của các phật tử dễ biến thành cuộc biểu tình bao vầy trụ sở cảnh sát, tên trưởng đồn buộc phải nhã nhặn mời Thượng tọa ra xe Zép, chở Thượng tọa trả về chùa và đảm bảo không có chuyện gì xảy ra nữa. Từ chùa Khánh Hưng trở về, Tư Linh nhủ Mười Tuân: - Mày thưa với má là phải làm gì đó đề ghi dấu lực lượng biệt động Thành đoàn để tang Bác. - Dạ. Trong những ngày đau thương này, Dương Mỹ Hòa đang ở trại biệt giam Đ thuộc khám lớn Chí Hòa. Chị là bạn rất thân của út Phương. Lãnh án 18 năm tù giam, út Phương bị đưa vô khám Chí Hòa. Tên giám thị ra luôn ngón đòn phủ đầu: - Em gái đã. kêu án. Anh khuyên em gái ngoan ngoãn cải tạo chấp hành đúng nội quy mà mọi người tù đều phải tuân thủ như giờ báo thức, chào cờ, giờ ăn, ngủ. Tụi anh có biệt nhờn, sẽ xin tổng tHồng ân xá sớm cho em. Út Phương đốp phát luôn: - Tôi bỉ bắt ngày 25 tháng 9 năm 1965. Gần bốn năm qua, các ông đã hiểu quá rõ về tôi và tôi cũng không lạ gì chế độ lao tù khắc nghiệt của mấy ông. Tôi tuyên bố chống chào cờ. Ông cứ cho tôi vào biệt giam. Tên giám thị cố nén cơn giận, vẫn giữ giọng ngọt ngào: - Em mới 18 tuổi. Em còn trẻ, lại rất xinh đẹp. Đừng nên phí hoài tuổi xanh. Anh sẽ lo cho em tấm chống, em sẽ có nhà lầu xe hơi. - Nè, tôi báo cho ông biết: cái trò dỗ ngon, dỗ ngọt bả vinh hoa phú quý không mồi chài nổi gái này đâu. Đi, cha nội. Nghe nhàm tai quá! Tên giám thị nối giận, quát: - Đồ con lừa, nhẹ không ưa, ưa nặng. Tao sẽ nhốt mày vô xà lim. - Để hù dọa, để thi gan với tôi chớ gì? Nói thiệt, tôi đâu có ngán. Mấy ông thả kiến cắn khắp người tôi, nhốt tôi với người cùi, người điên, gái điếm. Tôi đã tuyệt thực không ăn, không uống năm ngày liền nên thứ xà lim ở khám Chí Hòa không khuất phục nổi tôi đâu. Tôi chấp thuận vô biệt giam.
|