Ở một làng nhỏ sát biển nằm sâu trong thế kìm kẹp của giặc, có một người con gái tám năm trời một mình băng hết rừng này qua núi nọ, đi tìm Đảng, tìm đồng chí. Tìm được Đảng rồi, chị hỏi:
- Làm sao đứng dậy?
Đảng nói:
- Hãy tin ở mình.
Chị trở về cái làng nhỏ của chị, và trong hai ngày chị tập họp hai mươi lăm thanh niên, đứng lên khởi nghĩa trong lòng giặc, diệt sạch tề điệp, dựng nên chính quyền cách mạng và dắt dẫn thôn xóm ba năm nay vững vàng hai chân đi lên. Tôi được gặp chị trong một cuộc hội nghị. Chị rất nhỏ người và còn trẻ quá, ngày bộ đội ta đi tập kết mới mười ba tuổi đầu, năm nay hai mươi ba tuổi; chị mặc chiếc áo ngắn vải ta màu xám đơn sơ như em ta vậy. Chị nói rằng bây giờ chị đã hiểu sức chị có thể làm gì. Chị xưng với tôi bằng em và bảo: “Anh đưa em vá cái áo Giải phóng quân của anh lại cho. Ai lại để áo rách cả cùi tay vậy!” ở một làng nhỏ khác ven đường chiến lược 19, có hai em bé nằn nì mấy tháng trời mới mượn được của du kích một khẩu súng trường. Hai em khệ nệ khiêng súng ra đường cái phục kích. Súng nặng quá, một em quỳ xuống gác nòng súng lên vai, em kia ngắm bắn. Giết một tên tay sai Mỹ và làm bị thương một tên...
Tôi cũng đã được gặp người chỉ huy trận Điện Ngọc mà tất cả chúng ta đều biết tiếng. Hôm ấy anh không kể cho tôi nghe về trận đánh của anh. Anh chỉ cho tôi xem một lá thư của người anh yêu. Chị ấy viết chữ không đẹp nhưng nắn nót. Thư kể rằng chị là đội trưởng đội công tác xã, chị vừa bắn chết hai tên ác ôn giữa chợ ban ngày, được xã tặng khẩu súng ngắn, và Mặt trận thưởng Huân chương chiến công giải phóng. Chị hỏi người yêu: “Cái Huân chương nó ra răng anh? Từ nhỏ em chưa được thấy mặt nó lần nào”...
Và hai vợ chồng người đảng viên trên bờ sông Thu Bồn mười năm trời giấu một khẩu súng, đêm đi bắn giặc, ngày đi đấu tranh chính trị. Và đồng chí nông dân ở một xã Thăng Bình, Quảng Nam, mười năm giả bệnh tê liệt, chỉ lết chứ không đi được, che mắt giặc gây dựng cơ sở, rồi đến ngày xã nhà khởi nghĩa, bỗng dưng thấy đồng chí đứng dậy cầm dao đi diệt ác ôn như trong một chuyện thần tiên.
Và người thiếu phụ Tam Kỳ tự gài chông đâm thủng ruột tên lính giặc, rồi cũng tự tay băng bó và giáo dục nó. Và chị du kích Phú Yên chặn xe bắt Mỹ giữa ban ngày. Và đội du kích đường sắt Tuy Hòa đánh giặc bằng một cái lắc-lê, và bao nhiêu người nữa mà chúng ta không được gặp và không quen biết.
Chúng ta không thể gặp và quen biết hết, nhưng chúng ta hiểu hết tất cả, cũng như họ đã tự hiểu họ. Chúng ta hiểu thế nào là con người Việt Nam ta ngày hôm nay, sau bốn nghìn năm lịch sử, sau mười năm chiến đấu với kẻ thù tàn bạo nhất. Chúng ta hiểu và tin, chúng ta đi tới.
Ngày nay con đường đi của hai mươi tám triệu bàn chân đã rộng rãi, thênh thang. Chông gai phía trước còn dày. Nhưng mục đích đã hiện ra sáng rõ. Chúng ta đã nhìn ra lối đi đến đó...
*
* *
... Tôi đã thức trọn một đêm. Bên ngoài đã hửng sáng. Một ngày mới đang đến.
Làng quê đang thức dậy. Một tiếng gà gáy xa. Một ánh sao mai chưa tắt. Một chân trời ửng đỏ phía xa. Một chút ánh sáng hồng trên mặt nước ruộng lúa lên đòng.
Chẳng có gì cả, nhưng là tất cả, quê hương ta đó. Thân mật như một buổi sáng trong ca dao, trong tiếng hát dân ca trữ tình của chúng ta.
Có tiếng khóc của một đứa bé bên hàng xóm. Mẹ em mới sinh em đêm qua. Em mới ra đời: thêm một người lính khởi nghĩa ra đời! Có lẽ vài hôm nữa, nằm trong tay mẹ, em sẽ có mặt trên đồn giặc trong cuộc đấu tranh chính trị của mẹ em, của làng nước quê em...
Sáng rồi. Cuộc chiến đấu của chúng tôi sắp bắt đầu. Trong trận đánh hôm nay chúng tôi sẽ tiêu diệt địch thật gọn, phối hợp với cuộc đấu tranh đang dậy khắp quê hương. Có thể hôm nay, điều ấy cũng thường tình, tôi sẽ ngã xuống. Nếu như vậy, thì cũng có sao đâu. Bởi vì giá như sau đó vì một sự kỳ diệu, tôi được sống trở lại thì cũng xin cho tôi được sống trong ngày hôm nay của dân tộc ta. Tôi thiết tha yêu cái ngày hôm nay của đất nước, thiết tha yêu đội ngũ trùng điệp của chúng ta đang tiến lên trong cuộc hành quân cả nước sục sôi và chiến thắng này.
Sáng rồi. Phương Đông rực rỡ một màu hồng chói lọi.
1965
(Nguồn: Thuvienonline)