Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 11:39:50 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hình ảnh & Tiểu sử Lãnh đạo, Tướng lĩnh, Sỹ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam  (Đọc 825444 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« vào lúc: 12 Tháng Năm, 2008, 02:27:36 am »

Thiếu tướng Nguyễn Sơn, lưỡng quốc tướng quân


Thiếu tướng Nguyễn Sơn (01/10/1908 – 21/10/1956), nguyên Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên khu IV Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Giám đốc Toà soạn “Tạp chí Huấn luyện Chiến đấu” Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc.

Huân Chương Quân công hạng Nhì của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Huân chương Bát nhất hạng Nhất, Huân chương Giải phóng hạng Nhất của Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Có tượng đồng đặt tại Bảo tàng Quân đội Nhân dân Việt Nam (Hà Nội) và Bảo tàng Giải phóng quân Trung Quốc (Bắc Kinh). Tại Thủ đô Hà Nội và TP Hồ Chí Minh có 2 con đường mang tên ông - Nguyễn Sơn - viên tướng duy nhất trên thế giới làm tướng của 2 quốc gia.

Thiếu tướng (1948 trong đợt phong quân hàm cấp tướng đầu tiên của Quân đội)


“Tướng quân Hồng Thủy đã có cống hiến rất lớn cho cách mạng Trung Quốc..., nhân dân Trung Hoa mãi mãi nhớ ơn” (Nguyên Soái Bành Đức Hoài, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc)

“- Không chính xác! Đồng chí ấy tham gia quân đội từ thời kỳ Hoàng Phố, liệu xem có thể sửa thành tướng cấp quân đoàn chính quy được không?...” (Chủ tịch Mao Trạch Đông)

“Hồng Thủy quả là một con ngựa bất kham đấy, điều khiển không tốt, không cẩn thận, đồng chí ấy sẽ... đá người khác đấy!” (Chủ tịch Mao Trạch Đông)

‘’Nguyễn Sơn là một chiến sĩ cộng sản kiên định, một con người có khí phách, có chút ngang tàng, có khả năng về chính trị, về tuyên truyền, về văn nghệ. Anh lại có phong cách rất riêng - rất là Nguyễn Sơn. Anh coi trọng bạn bè, coi trọng con người, coi trọng bồi dưỡng đội ngũ kế cận.

Trong lịch sử cách mạng Việt Nam cũng như trong lòng mỗi người chúng ta, anh vẫn còn sống mãi với hình ảnh một người cộng sản kiên định, một người bạn, người đồng chí, một người chiến hữu thân thiết và rất mực chân thành, suốt đời phục vụ sự nghiệp cách mạng của nước ta và nước bạn.’’ (Đại tướng Võ Nguyên Giáp)


Thiếu tướng Nguyễn Sơn tên thật là Vũ Nguyên Bác, bí danh Lý Anh Tự, Hồng Thủy, quê tại làng Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Nguyễn Sơn rời quê hương sang Pháp năm 1923. Năm 1925, ông tham gia Việt Nam thanh niên cách mạng ông hội, được Nguyễn Ái Quốc giới thiệu sang Trung Quốc học Trường Võ bị Hoàng Phố.

Tháng 8/1927, ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 12 năm 1927, ông tham gia khởi nghĩa ở Quảng Châu. Năm 1929, ông tham gia Hồng quân Công nông Trung Quốc, lần lượt giữ các chức vụ; Chính trị viên Đại đội, Chính uỷ Trung đoàn, Chủ nhiệm Chính trị Sư đoàn 34, Quân đoàn 12. Tháng 1/1934, ông là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản nước Cộng hoà Xô viết Trung Hoa, Uỷ viên Chính phủ Dân chủ Công nông Xô Viết Trung ương. Từ năm 1934 - 1936, ông tham gia “Vạn lý trường chinh”. Sau đó là Tổng Biên tập báo “Kháng địch” của Biên khu Tấn Sát Ký.

Trong cuộc Vạn lý trường chinh của Hồng quân Trung Quốc nhằm rút lui, bảo toàn lực lượng, lập căn cứ mới thuận lợi kéo dài hơn một năm, trải dài hai vạn năm ngàn dặm. Lúc đi 72 vạn người, đến nơi còn 7 vạn 2, phải vượt qua núi tuyết, vượt qua đồng cỏ mênh mông hoang vắng. Vậy mà Nguyễn Sơn đi tới 3 lần trên con đường ấy để tiền trạm và giải quyết thương bệnh binh. Gần 2 năm trời hành quân có lúc đi môt mình, lạc đường đến vùng dân tộc thiểu số ông phải giả câm xin chăn dê để có cơm ăn, dưỡng sức tìm đường. Về tới Diên An gầy ốm như một bộ xương, quần áo rách không ai nhận ra. Trong khoảng thời gian ấy ông bị khai trừ Đảng 3 lần vì đấu tranh với những điều sai trái và bị vu cáo là phản động, là gián điệp quốc tế, có lúc suýt bị chặt đầu. Nhưng cấp trên nhận ra sai trái lại khôi phục Đảng tịch cho ông. Năm 1938, ông là giáo viên chính trị Trường Cán bộ quân chính kháng Nhật, Biên khu Tấn Sát Ký.

Tháng 8/1945, theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông về nước tham gia lực lượng vũ trang. Tháng 10-1945, Chính phủ quyết định thành lập Uỷ ban kháng chiến miền Nam Việt Nam. Trên thực tế lúc này Uỷ ban kháng chiến Miền Nam mới chỉ đạo được ở các tỉnh Nam Trung Bộ, Nam Bộ vẫn còn do xứ uỷ Nam Bộ lãnh đạo. Uỷ ban kháng chiến miền Nam do Tướng Nguyễn Sơn được Trung ương phân công làm chủ tịch. Vào cuối tháng 11-1945, trước khi vào Nam công tác, ông đã cùng Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái bàn bạc việc thực hiện Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và xây dựng hai trường quân sự (Một trường ở miền Bắc và một trường ở miền Nam). UBKC miền Nam Việt Nam lúc ấy được Trung ương chỉ định ông Hoàng Quốc Việt uỷ viên Thường vụ Trung ương Đảng làm chính trị uỷ viên; tướng Nguyễn Sơn làm chủ tịch kiêm Hiệu trưởng trường Trung học lục quân Quảng Ngãi; tướng Nguyễn Chánh làm uỷ viên UBKC miền Nam Việt Nam đồng thời là uỷ viên Trưởng quốc phòng Trung bộ (chủ yếu là các tỉnh phía Nam Trung Bộ), sau này gọi là Liên khu 5.

Tháng 12/1945, thực dân Pháp từ phía Đông Nam Bộ đã đánh lấn lần lượt chiếm các vùng Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai thượng, Daklak, rồi đến Nha Trang, Khánh Hoà và cả Tây Nguyên. Quân đội ta còn non trẻ lại phải đương đầu với một lực lượng mạnh của quân lê dương Pháp, cộng với hàng nghìn quân Nhật thiện chiến. Tuy vậy quân ta vẫn cương quyết chống cự, không cho chúng lấn ra Phú Yên và ở Tây Nguyên, chúng chỉ có thể lập căn cứ An Khê, phía ngoài Pleiku.

Tướng Nguyễn Sơn đã cùng với UBKCMN chủ trương tập trung lực lượng đánh sâu vào vùng địch hậu ở Khánh Hoà, đồng thời tăng cường cán bộ lãnh đạo, chỉ huy cho các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận... tăng cường đánh địch. Thế trận ta hoàn toàn chủ động, nhất là sau khi giặc Pháp phản bội hiệp định sơ bộ 6/3/1946. Tháng 4/1946, Nguyễn Sơn cho mở lớp bổ túc cán bộ Trung đoàn, đồng thời xúc tiến chiêu sinh, mở trường Trung học Quân sự tại Quảng Ngãi do ông làm hiệu trưởng khai giảng vào ngày 19/5/1946.

Tháng 1/1947, ông được bổ nhiệm giữ chức Cục trưởng Cục Quân huấn Bộ Tổng Tham mưu. Tháng 7/1947, ông là Khu trưởng kiêm Chính uỷ Liên khu 4. Ngày 19/ 1/ 1948, ông được Chủ tịch Chính phủ phong quân hàm thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam trong đợt phong tướng đầu tiên của Quân đội theo sắc lệnh số 111/SL.

Tháng 10 năm 1950, ông trở lại Trung Quốc, phụ trách khoa Việt Nam bán Mặt trận thống nhất Trung ương và học tại Học viện Quân sự Nam Ninh. Năm 1954, ông tốt nghiệp loại xuất sắc, được cử đến Bộ Tổng Giám Huấn luyện Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc giữ chức Phó cục trưởng Cục Điều lệnh. Sau đó được bổ nhiệm Giám đốc Toà soạn “Tạp chí Huấn luyện Chiến đấu”. Ngày 27/9/1955, ông được Nhà nước Trung Quốc phong quân hàm thiếu tướng. Ông là vị tướng duy nhất của Trung Quốc là người nước ngoài.

Năm 1956, do bệnh tình trầm trọng, ông xin về nước và đã từ trần ngày 21/10/1956. Lễ tang được Nhà nước Việt Nam tổ chức trọng thể và an táng tại nghĩa trang Mai Dịch. Ông là tác giả của nhiều tác phẩm và bài viết về quân sự và văn học bằng tiếng Việt và tiếng Trung Quốc.

Tướng Nguyễn Sơn là một người có tài diễn thuyết và phát biểu trước đám đông. Lý luận của ông có tình, có lí lại không cứng nhắc rất dễ đi vào lòng người. Chính nhờ tài năng này đã giúp ông hoàn thành xuất sắc công tác dân vận suốt cuộc Vạn lý trường chinh ở Trung quốc rồi trong quãng thời gian làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam rồi Tư lệnh quân khu IV.

Tướng Nguyễn Sơn là người có lòng nhân ái, thương yêu cán bộ, chiến sĩ dưới quyền của mình; chan hoà mật thiết với đồng bào, cả những đồng bào tôn giáo luôn tỏ thái độ thân ái, đoàn kết và cởi mở. Các vị cao tăng, linh mục, tu sĩ đều tỏ lòng quý mến. Ông rất giản dị, với bộ quần áo chàm, may theo kiểu áo người dân tộc thiểu số miềm Bắc, miệng luôn ngậm tẩu thuốc, y hệt như người nông dân bình thường, không ai biết đó là vị tướng.

Tướng Nguyễn Sơn còn là một người rất yêu và am tường văn hóa – nghệ thuật, đồng thời biết trân trọng các văn nghệ sĩ. chính Nguyễn Sơn là ngưòi bênh vực, bảo vệ, cho khôi phục các hình thức sân khấu tuồng, chèo vì sau Cách mạng tháng Tám bị những người hữu khuynh toan dẹp bỏ. Ông chi tiền để nhân dân Thanh Hóa dựng lại Hội Múa dân gian cổ truyền. Ông mời Đinh Ngọc Liên - Quản Liên vốn chỉ huy đội kèn Bảo an của Bảo Đại-trao nhiệm vụ khôi phục lại đội kèn, bây giờ là đoàn quân nhạc của quân đội ta. Ông cũng rất khuyến khích phát triển các vốn cổ văn hóa nghệ thuật truyền thống: tuồng, chèo, cải lương, dân ca... Chuyện ông tướng quân sự mà giảng về kịch Lôi Vũ suốt mấy buổi liền vẫn hấp dẫn người nghe. Đến người dịch Lôi Vũ từ tiếng Trung qua Việt ngữ – Đặng Thai Mai – nghe xong cũng phải thốt lên lời khâm phục sự uyên thâm văn học của Nguyễn Sơn.

Tướng Nguyễn Sơn luôn có cái nhìn, cách nghĩ vô cùng nhân văn. Ông không thích những thứ cứng nhắc, khuôn mẫu, gò ép con người…điều này thể hiện rõ qua cái cách mà ông bảo vệ truyện Kiều. Ông phê phán những Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Ngô Đức Kế... đã đành. Ông còn làm giật thót người, tái mặt cả những Hoài Thanh, Đào Duy Anh, Trương Tửu... và cả cụ Huỳnh Thúc Kháng. Phê rằng nghiên cứu Kiều mà đứng trên lập trường chính trị, lấy quan điểm con người thời nay để chê bai Nguyễn Du là “tiêu cực”, là “định mệnh”, là “có hậu” một cách gượng gạo v.v..., thì thật là phi lịch sử... Tướng Nguyễn Sơn không thích nghe những như: “Bao chiến sĩ anh hùng lạnh lùng vung gươm ra sa trường...” hay “Không quân Việt Nam lướt bay rầm trời... bom đạn gầm réo”... bởi theo ông thì “Nó đế quốc quá!”.

Là một người tham gia Việt Nam thanh niên Cách mạng hôi từ rất sớm, lại tham gia cuộc Vạn lý trường chinh của Hồng quân Trung quốc nghĩa là ông là một người Cộng sản thực thụ. Nhưng qua những gì ông thể hiện thì ông chỉ là một người chiến đấu giành độc lập, hòa bình cho Tổ quốc, chống lại chiến tranh và xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc. Với ông Tổ quốc là trên hết.


Tham khảo: Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, Báo Quân đội Nhân dân, Báo điện tử Quảng Ngãi.
« Sửa lần cuối: 02 Tháng Mười Hai, 2011, 09:05:00 pm gửi bởi panphilov » Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #1 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2008, 02:32:47 am »


Trung tướng Lê Quang Đạo (8/8/1921 – 24/7/1999), nguyên Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch Đoàn chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Sao Vàng (truy tặng 2003), Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang Nhất – Nhì – Ba, Huy chương Quân kỳ Quyết thắng. Huân chương Itxala (Itxala: Nhân dân) của Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.

Thiếu tướng (1959), Trung tướng (1974)


"Yêu anh từ lần gặp đầu tiên. Người ấy đã mang trong mình một sức mạnh làm tôi tin tưởng gửi gắm cả cuộc đời" (Nhà văn Nguyệt Tú, vợ Trung tướng Lê Quang Đạo).

‘’Anh Lê Quang Đạo có đức tính thật quý báu, rất hiếm có của một cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng và của quân đội mà không phải nhiều người đều có được. Đức tính quý báu ấy của anh có sức cảm hoá lòng người mà bất kỳ ai, dù chỉ được một lần gặp anh cũng đều có được cái cảm nhận sâu sắc ấy.’’ (Thượng tướng Nguyễn Trọng Xuyên).

“Không có sự lựa chọn nào tốt hơn, un choix heureux (một sự chọn lựa thích hợp)” ( Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, nói khi Trung tướng Lê Quang Đạo được đề xuất giữ trách nhiệm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam)


Trung tướng Lê Quang Đạo tên thật là Nguyễn Đức Nguyện quê tại xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ngoài ra ông còn các bí danh sau đây : Nho Mẫn, Minh, Miện, Đăng, Trần Hoạt… Năm 1938, ông tham gia phong trào thanh niên dân chủ ở Hà Nội. Năm 1939, ông tham gia phong trào thanh niên Phản đế Đông Dương, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1940.

Từ năm 1940-1942, ông là Bí thư chi bộ xã Đình Bảng, Uỷ viên Ban cán sự phủ Từ Sơn, Uỷ viên Ban Cán sự tỉnh Bắc Ninh, Bí thư Ban Cán sự tỉnh Bắc Ninh, Bí thư Ban Cán sự tỉnh Phúc Yên rồi làm Xứ uỷ viên Xứ uỷ Bắc kỳ. Từ năm 1943 đến tháng 5/1945, ông là Bí thư Ban Cán sự Hà Nội, Uỷ viên Thường vụ Xứ uỷ Bắc kỳ, phụ trách tờ báo “Quyết thắng” và các lớp huấn luyện Việt minh ở Chiến khu Hoàng Hoa Thám. Tháng 8/1945, ông là Chính trị viên Chi đội Giải phóng quân tỉnh Bắc Giang, tham gia lãnh đạo tổng khởi nghĩa ở Bắc Giang.

Từ cách mạng Tháng Tám năm 1945-1948, ông giữ các chức vụ: Bí thư thành uỷ Hải Phòng, Hà Nội, Phó Bí thư Khu uỷ đặc biệt Hà Nội Xứ uỷ viên Bắc kỳ, Bí thư Liên tỉnh uỷ Hà Nội – Hà Đông, Uỷ viên thường vụ Liên khu uỷ Liên khu III, phụ trách công tác tuyên huấn. Năm 1949, ông là Phó trưởng ban Tuyên huấn Trung ương Đảng.

Từ năm 1950-1976, ông công tác trong Quân đội nhân dân Việt Nam và được giao nhiều trọng trách: Cục trưởng Cục Tuyên huấn, Phó Chủ nhiệm Chính trị Chiến dịch Điện Biên Phủ, Phó trưởng đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam trong Uỷ ban Liên hiệp đình chiến Việt Pháp, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Bí thư Đảng uỷ, Chính uỷ Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh, Đường 9 - Nam Lào, Bí thư Đảng uỷ và Chính uỷ Mặt trận giải phóng Quảng Trị. Năm 1960, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, ông được bầu làm Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Uỷ viên Quân uỷ Trung ương. Năm 1976, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, ông được bầu làm Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Bí thư Trung ương Đảng. Năm 1978, ông là Phó Bí thư thành uỷ Hà Nội, Chính uỷ Bộ chỉ huy quân sự thành phố Hà Nội.

Năm 1982, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, ông được bầu làm Uỷ viên Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Bí thư Trung ương Đảng, trực tiếp làm Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương. Từ năm 1983-1987, ông giữ các chức vụ: Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bí thư Trung ương Đảng phụ trách công tác dân vận của Đảng, Bí thư Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Từ năm 1986, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, ông tiếp tục được bầu làm Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 6/1987, tại kỳ họp lần thứ nhất khoá VIII, ông được bầu làm Chủ tịch Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Tháng 11/1988, tại Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ III đã bầu ông vào Đoàn Chủ tịch Uỷ Ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và là Bí thư Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Từ tháng 8/1994 đến tháng 7/1999, ông làm Chủ tịch Đoàn chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ( khoá IV).

Một con người ‘‘trắng trẻo, nhỏ nhắn, thư sinh, cặp kính cận to dày’’ như Trung tướng Lê Quang Đạo, nếu không nói ra, ít ai nghĩ rằng ông là một vị tướng. Một vị tướng đã từng tham gia hoạt động cách mạng từ những ngày tiền khởi nghĩa. Một vị tướng đã từng tham gia lãnh đạo Khởi nghĩa giành chính quyền tại Bắc Giang với tư cách là Chính trị viên Chi đội. Và một vị tướng đã từng tham gia chỉ huy Chiến dịch Đường 9 Khe Sanh, Chiến dịch Đường 9 Nam Lào. Là một người làm công tác Chính trị, một Chính ủy nhưng ông là một người rất uyên bác về Quân sự.

Tham khảo : Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, Trang thông tin điện tử Quốc hội Việt Nam, Báo Quân đội Nhân dân
« Sửa lần cuối: 02 Tháng Mười Hai, 2011, 09:05:41 pm gửi bởi panphilov » Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #2 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2008, 02:38:43 am »


Thiếu tướng Nguyễn Thị Định (15/3/1920 – 26/8/1992), Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân (truy tặng 30/8/1995), nguyên Thiếu tướng Phó Tư lệnh các lực lượng vũ trang Giải phóng miền Nam Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam.

Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, 2 Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương chiến sĩ vẻ vang Nhất – Nhì – Ba, Huy chương Quân kỳ quyết thắng. Giải thưởng Hòa bình Lê-nin, Huân chương Plâya Giron và Huân chương Ana MariaGranajales của Nhà nước Cu-ba.

Thiếu tướng (1974)


"Phó tư lệnh quân giải phóng miền Nam là cô Nguyễn Thị Định. Cả thế giới chỉ nước ta có vị nữ tướng quân như vậy. Thật là vẻ vang cho cả miền Nam, cho cả dân tộc ta" (Chủ tịch Hồ Chí Minh).

"Tôi cảm thấy rất vinh hạnh khi viết thư này gửi thǎm Bà - một người phụ nữ nổi tiếng và có một vai trò quan trọng trong lịch sử thế giới, một tấm gương của người phụ nữ chân chính. Tôi rất sung sướng khi sử dụng cuốn hồi ký của Bà để dạy cho sinh viên nước mình về truyền thống Cách mạng Việt Nam" (Giáo sư sử học Christine Whate trường Đại học Tổng hợp Hawai, trong một lá thư gửi Thiếu tướng Nguyễn Thị Định).

“Sự thực là có chị Ba Định ở Bộ Tư lệnh, nhiều việc cụ thể ở chiến trường đã được làm sáng tỏ. Dưới sự chỉ đạo của anh Nguyễn Chí Thanh ở cương vị Chính ủy, chúng tôi được phân công giúp chị nắm những vấn đề cơ bản về chỉ huy và công tác tham mưu quân đội, cũng như công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang, đồng thời chúng tôi cũng học tập được ở chị nhiều kinh nghiệm quý báu trong lãnh đạo đấu tranh chính trị và trong công tác xây dựng phong trào quần chúng.

Chúng tôi không khỏi ngạc nhiên về sự thông minh và hiểu biết nhanh chóng của chị về các vấn đề quân sự. Chỉ sau một thời gian không dài, chị đã có nhiều ý kiến đóng góp có giá trị trong việc chỉ huy lực lượng tổng hợp trên chiến trường.

Trong công tác, chị bộc lộ khá rõ sự năng động và tinh thần tích cực, hết mình trong mọi việc. Chị hầu như có mặt trong tất cả các cuộc hội nghị tổng kết về chiến tranh du kích, trong Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua của Miền. Chị đi thăm các sư đoàn, trung đoàn chủ lực, các đơn vị binh chủng không chỉ ở nơi đóng quân mà còn ở mặt trận. Chị quan tâm cụ thể đến việc tổ chức, huấn luyện, tác chiến và cả việc ăn ở, giải trí của chiến sĩ.

Anh em tiếp đón chị với cương vị người chỉ huy, đồng thời như người chị cả thân thương, họ thường gọi chị bằng cái tên “Chị Ba” trìu mến. Anh Nguyễn Chí Thanh có lần nói vui với chị là “Chúng tôi ghen với chị về lòng thương yêu, quý mến của cán bộ, chiến sĩ đối với chị đấy...”. (Thượng tướng Trần Văn Trà)

"Bước vào lán của chị Ba, cái đập vào mắt trước tiên là tấm bản đồ không ảnh toàn miền Nam bằng lụa treo trên vách. Kế đó là chồng sách quân sự. Trên bàn làm việc của chị lúc nào cũng có một quyển đang xem dở. Chị nghiên cứu, chị học ngày, học đêm chiến thuật chiến tranh hiện đại. Nhớ hôm địch tấn công vào căn cứ, Bộ Tư lệnh phải di chuyển đến nơi an toàn, mỗi người ở cách xa nhau trong cự ly một quả bom đìa để hạn chế bom sát thương một lúc hai người. Bên bờ suối hoang vắng, chị vẫn đọc sách...Tôi mời chị đi xem đơn vị diễn tập, chị vui vẻ nhận lời, và tôi đã tổ chức bảo vệ chị đi chu đáo. Chị tham quan diễn tập với cặp mắt và bộ óc của người chỉ huy binh chủng hợp thành. Chị chỉ ra những chỗ cần phải suy nghĩ thêm, khi chiến đấu ở đồng bằng với điều kiện địch chiếm ưu thế tuyệt đối về không quân, pháo binh, xe thiết giáp, đổ bộ trực thăng. Phải công nhận rằng, với bề dày kinh nghiệm lăn lộn đấu tranh nhiều năm qua, chị biết địch biết ta, am hiểu thời tiết, địa hình, chị tiếp thu nghệ thuật tác chiến hiện đại khá nhanh với nhiều hứa hẹn sáng tạo.." (Thiếu tướng Bùi Cát Vũ)

“Chị Ba Định ạ! Ngày xưa, người dân làng quê bảo nhau rằng những người như chị là sống làm tướng, chết thành thần" (Giáo sư Trần Văn Giàu, trong lời đề tựa cuốn Nhớ chị Ba Định).

Với các chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam Thiếu tướng Nguyễn Thị Định luôn được gọi bằng cái tên trìu mến "Cô Ba Định"

Và trong lòng người dân Việt Nam: "Nǎm 1992 Nguyễn Thị Định qua đời sau một cơn đau tim đột ngột, hầu hết các tỉnh, thành Hội phụ nữ trong cả nước đều lập bàn thờ để tưởng nhớ đến Bà, theo triết lý dân gian: "Sống làm tướng chết thành thần". Nhân dân Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Tây nơi thờ Hai Bà Trưng đã rước bát hương thờ Bà Nguyễn Thị Định về thờ trong khu đền Hai Bà như một vị nhân thần mới. Nhiều địa phương đã đặt tên trường học Nguyễn Thị Định, quỹ hỗ trợ trẻ em nghèo hiếu học mang tên Nguyễn Thị Định". (Theo Phụ nữ Việt Nam)


Sinh năm 1920 trong một gia đình nông dân có 10 người con (bà là con út cho nên thường tên thường gọi lúc nhỏ là Út) ở xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Bà sinh ra với thể chất yếu đuối, ốm nhom vì hen suyễn. Đến tuổi đi học, do trường học xa nhà, ở trọ thì tốn kém, bà không được đi học, đành ở nhà học chữ với người anh thứ ba tên là Chẩn. “Người thầy” ấy có ảnh hưởng sâu sắc với cuộc đời cô về nghĩa khí Lục Vân Tiên, về chí hướng đánh Tây, giành độc lập cho đất nước.

Bà tận mắt chứng kiến anh trai tham gia cách mạng, bị bắt, bị đánh đập trong nhà giam ở quận. Bà đứng nhìn, căm thù mà không biết làm gì để cứu anh ra, đành khóc tức tưởi. Từ đó, những câu hỏi về thời cuộc, về cách mạng nảy nở trong đầu bà. Cô hiểu và tin làm cách mạng là việc tốt nhưng là việc rất khó, là con gái chắc không thể làm được. Có thể nói bà đến với Cách mạng trước hết là do sự dìu dắt, hướng dẫn của người anh trai.

Năm 16 tuổi, bà rất đẹp, da trắng, môi đỏ, tóc xoăn, một vẻ đẹp rất đặc biệt. Nhiều gia đình giàu có đánh tiếng dạm hỏi. Tuổi cô thời ấy con gái đã lo lấy chồng nhưng bà không quan tâm đến điều hệ trọng ấy. Bà nói “Nếu lấy chồng, phải là người cách mạng, em mới ưng”. Đó cũng là năm phong trào dân chủ lên cao. Bà say sưa lắng nghe anh trai và các bạn của anh diễn thuyết, rồi tham gia rải truyền đơn, làm giao liên, lo cơm nước cho các anh, tham gia các hội tương tế ái hữu, cổ động báo “Dân chúng"...

Tháng 10 năm 1938, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Được tổ chức Cách mạng và người anh trai mai mối, bà kết hôn với một người Đồng chí của mình tên là Bích. Nhưng hạnh phúc đến với vợ chồng Út Định chưa bao lâu thì giông tố ập đến. Mới sinh con 3 ngày (đây là người con duy nhất của bà tên là Nguyễn Ngọc Minh, tên thường gọi là On. Sau tập kết ra Bắc học ở trường học sinh miền Nam ở Đông Triều, Quảng Ninh. On mắc bệnh nặng rồi nằm lại nghĩa trang Văn Điển), mật thám đến nhà vây bắt chồng bà rồi sau đó bị kết án 5 năm tù và 5 năm đầy đi biệt xứ. Đây là thời điểm sau Nam kỳ khởi nghĩa 1940, cũng như các tỉnh khác ở Nam Kỳ, Bến Tre đã bị giặc Pháp khủng bố, đàn áp một cách dã man. Nhiều cơ sở cách mạng bị vỡ, hàng loạt đảng viên bị bắt, bị tù, trong đó có nhiều đồng chí trong cấp ủy tỉnh và huyện.

Ngày 19/7/1940, bà bị mật thám vây bắt và đưa về khám Lá ở Bến Tre cùng với con trai. Sau đó, Thực dân Pháp tuyên bố đưa bà đi giam giữ ở "căng" Bà Rá và buộc bà phải gửi con về nhà khi con bà mới có 7 tháng tuổi. Trước khi đưa chồng bà ra Côn Đảo và bà đi Bà Rá, Pháp đưa cả hai người đến một nhà giam ở Sài Gòn. Tuy nhiên, hai vợ chồng bà không hề biết điều này.

Tại Bà Rá bà bị xếp và nhà B, nơi dành riêng cho tù nữ chính trị, ở đây mọi người gọi bà là Ba Bích (theo tên chồng). Tại đây bà tiếp tục hoạt động và là trung tâm đoàn kết của khu nhà B, trước hết là việc đoàn kết tù nhân nữ nhằm chống lại những trò chọc ghẹo của những tên cò Tây. Bà còn bày thêm kinh nghiệm là bọn quản tù hay chụp nắm tóc phụ nữ trước khi đánh. Vì vậy, chị em nên cài ít kim may vào trong búi tóc, để khi chúng chụp vào đầu tóc chị em, tay bị kim đâm, sẽ bỏ ra ngay. Tới lúc đó, chị em có thì giờ để đối phó...

Tên quan ba nổi tiếng tàn ác, có thú tính thích nhìn thấy máu đổ, thích xui chó béc-giê cắn xé tù nhân cho ra máu lai láng, bắt bà bước ra sân, giơ cao vỏ chai đựng rượu làm đích cho hắn bắn. Hắn vừa muốn khoe tài bắn súng vừa "nắn gân" bà “chuyên xách động nữ tù đấu tranh”. Nếu bà không chịu bước ra, không giơ cao chai rượu cho hắn nhắm bắn, hắn sẽ có dịp bêu riếu chị là hèn nhát. Còn nếu thể hiện chí khí, viên đạn của tên quan ba có thể cắm vào cơ thể bà. Bà bình tĩnh bước ra sân rồi giơ cao vỏ chai rượu lên. “Đoàng”. Tiếng súng nổ, vỏ chai vỡ toang. Hắn khoái chí cười khanh khách. Chưa thỏa mãn thú tính, hắn bắt bà tháo chiếc vòng cẩm thạch đang đeo ở tay - kỷ vật chồng chị tặng ngày cưới mà bà rất quý yêu, làm đích cho hắn bắn tiếp. Quá phẫn uất, bà tháo vòng, ném mạnh vào viên gạch gần đó, làm chiếc vòng vỡ tan. Trước sự bướng bỉnh, gan dạ của bà, tên quan ba hơi bất ngờ. Lúc ấy, hắn không làm gì nhưng định bụng sẽ trừng trị bà và các “nữ tù ngoan cố” vào một dịp khác.

Bệnh tim ngày càng trở nặng, bà liên tục bị ngất. Chị em nữ tù đấu tranh quyết liệt với tên sếp Tây. Cuối cùng, chúng đành chấp nhận đưa bà về điều trị tại Nhà thương Biên Hòa. Năm 1943, bà được Thực dân Pháp đưa về quản thúc tại địa phương... Ba tháng sau, vết thương những ngày bị đọa đày trong nhà tù đế quốc chưa lành thì bà nhận được hung tin: chồng bà đã hy sinh ngoài Côn Đảo ngày 12/6/1942. Năm 1944, phong trào Việt Minh lên mạnh, bà bắt được liên lạc với tổ chức. Bà gửi con cho mẹ, lao vào công tác và hoạt động ở huyện Châu Thành. Trong Cách mạng tháng Tám 1945, bà đã cầm cờ dẫn đầu hàng ngàn quần chúng tay dao, tay gậy, cờ, băng, biểu ngữ rầm rộ tiến chiếm thị xã Bến Tre.

Sau ngày cách mạng thành công, bà là ủy viên Ban chấp hành Hội Phụ nữ cứu quốc tỉnh và sau đó làm Hội trưởng – lúc bấy giờ quen gọi là Đoàn trưởng Phụ nữ cứu quốc tỉnh. Tháng 3 năm 1946, bà là thành viên trong đoàn cán bộ của khu 8 vượt biển ra gặp Trung ương để báo cáo tình hình kháng chiến ở Nam Bộ và tỉnh để xin Trung ương chi viện. Đòng đi trên chiếc tàu đánh cá nghi trang, từ cửa biển Bến Tre ra Phú Yên. Rồi từ Phú Yên, họ ngồi xe lửa ra Hà Nội.Chuyến đi này không những cung cấp cho Chính phủ, Trung ương Đảng tình hình thực tế của chiến trường Nam Bộ - một chiến trường xa cách Trung ương – mà còn đặt cơ sở cho việc tổ chức chi viện miền Nam về sau này. Kết thúc chuyến đi miền Bắc, bà đi thẳng vào Quảng Ngãi - trụ sở của Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, nhận súng, tiền và tài liệu của Trung ương mang về cho Xứ ủy Nam Bộ.

Bà cũng là người duy nhất trong 4 thành viên của đoàn trở về lại Bến Tre với chiếc thuyền chở đầy vũ khí chi viện cho chiến trường, xuất phát từ bờ biển Phú Yên, lúc này đang còn là vùng tự do. bằng lòng quả cảm, trí thông minh, bà lại cùng các đồng chí của mình khéo léo vượt trùng dương đưa được 12 tấn vũ khí chi viện cho miền Nam một cách an toàn. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, bà cùng với các đồng chí lãnh đạo ở địa phương bám đất, bám dân, đưa phong trào kháng chiến trong tỉnh vượt qua những khó khăn, cùng cả nước kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh kéo dài 9 năm.

Chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết (7/1954), bà quyết định ở lại miền Nam, chỉ mình con ra Bắc. Khi đó Bến Tre là một trọng điểm đánh phá bình định ác liệt của chính quyền Ngô Đình Diệm. Bà phải giả làm nghề nuôi heo, nuôi gà vịt tại nhà một đồng bào ở giữa cánh đồng vùng giáp ranh ba xã Tân Hòa, Thạnh Phú Đông, Phước Long. Bà đã từng cải trang thành người tu hành, người chăn vịt, người đi mua bán, làm vợ bé, người ở... Đôi chân của bà hết in dấu bên Minh lại về bên Bảo, hết qua An Hóa lại về Châu Thành xây dựng cơ sở, nắm tình hình phong trào. Cái đầu của bà được địch treo giá: “Thưởng 10.000 đồng cho ai bắt được Nguyễn Thị Định".
« Sửa lần cuối: 02 Tháng Mười Hai, 2011, 08:08:24 am gửi bởi panphilov » Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #3 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2008, 02:39:27 am »

Nguyễn Thị Định, trong thời kỳ này, là một trong những cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng bộ Bến Tre, đã cùng với những đồng chí khác ra sức chèo chống, bảo vệ cách mạng, bảo vệ nhân dân trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, đen tối. Từ con số 2.000 đảng viên lúc đầu còn lại sau khi chuyển quân tập kết, đến khi Đồng khởi (nghĩa là trong khoảng thời gian 5 năm), Bến Tre chỉ còn lại 162 đảng viên. Hơn 80% đồng chí bị giết, bị tra tấn, tù đày, bị tàn phế. Bà là thành viên của "Bộ tham mưu cuộc Đồng khởi”, người chỉ đạo trực tiếp cuộc “khởi nghĩa điểm” của nhân dân 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh (thuộc huyện Mỏ Cày) thắng lợi (17-1-1960), mở đầu cho cao trào Đồng khởi trong tỉnh và cả trong toàn miền Nam về sau.

Từ sau Đồng khởi, bà được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre, rồi Khu ủy viên khu 8 (5/1961), Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam. Đến khi đế quốc Mỹ chuyển hướng chiến lược từ “chiến tranh đặc biệt” sang “chiến tranh cục bộ” ồ ạt đưa quân vào miền Nam năm 1965, cùng năm này bà nhập ngũ, thì bà nghiễm nhiên trở thành vị tướng, Phó tư lệnh các LLVT giải phóng miền Nam theo dõi chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích, đấu tranh chính trị”.

Đó là trận càn lớn nhất của Mỹ - và lính VNCH vào tháng 2/1967, huy động 7 lữ đoàn Mỹ, 2 chiến đoàn VNCH gồm 50.000 tên, 1.100 xe tăng, toàn bộ máy bay nhằm xóa sạch căn cứ Trung ương Cục miền Nam. Bộ Tư lệnh họp, quyết định bằng mọi giá phải bảo vệ vùng căn cứ; chuyển thế bị động sang chủ động tấn công địch. Bộ Tư lệnh phân công bà Nguyễn Thị Định chỉ đạo các đơn vị văn công, tuyên huấn, du kích các cơ quan, đoàn thể tham gia đánh địch. Bà họp toàn thể anh chị em nói: “Mình có ít người, ít vũ khí, phải chia thành từng tổ nhỏ, đào công sự thật chắc, đón hướng đi của địch, đánh cho chúng những đòn bất ngờ, làm chúng nghi là có quân chủ lực đánh”.

Cuộc chống càn đã diễn ra đúng như kế hoạch đã chuẩn bị. Suốt 2 ngày đêm, quân ta bẻ gãy cánh quân chủ yếu của địch. Địch lại mở trận tấn công đợt 2. Dưới hầm, bà vẫn bình tĩnh chỉ huy trận đánh. Bốn giờ chiều, Bộ Tư lệnh nhận được tin du kích khối cơ quan do “chị Ba” chỉ huy đã bắn cháy một số xe tăng địch. Sau những ngày bị du kích đánh cho mệt mỏi, rã rời, địch phải co cụm lại một nơi. Lúc ấy, các đơn vị chủ lực của ta đánh thẳng vào những cụm đóng quân của địch, diệt được nhiều xe tăng, máy bay. Trận càn Johnson City địch thất bại thảm hại. Rừng Tây Ninh vang tiếng hát chiến thắng, bà Nguyễn Thị Định được cán bộ chiến sĩ rất khâm phục.

Trong đợt Tổng tấn công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, bà được Bộ Tư lệnh phân công đi chỉ đạo tỉnh Tây Ninh. Năm 1970, khi Lonnon lật đổ Xihanúc, các căn cứ của ta ở biên giới Campuchia càng gặp nhiều khó khăn. Chăm chú theo dõi tình hình Campuchia, bà Nguyễn Thị Định trao đổi với các đồng chí ở H12 (Trường sơ cấp Quân giải phóng của Bộ tư lệnh Miền), tìm cách đối phó, bảo vệ căn cứ. Bà phân tích: Địch bên sông Vàm Cỏ chỉ cách ta một con sông nhỏ, ta phải gấp rút tập trung thành lực lượng thống nhất đủ sức đối phó, tránh tình trạng phân tán quá nhỏ, hành động rời rạc. Ta phải ngụy trang chu đáo các kho tàng, tổ chức chiến đấu ở mỗi khu vực. Cần phân tán kho lớn, những vũ khí gọn nhẹ như AK, KCK, K63, B40... chia cho các đơn vị giữ và chiến đấu. Bà kiên nghị nói: “Trong lúc chờ chủ trương của Bộ, của Trung ương Cục, tôi sẽ chịu trách nhiệm trước cấp trên và quyết định đánh. Trong lúc này, ta phải dám nghĩ dám làm, bỏ lỡ thời cơ, ta sẽ gặp khó khăn lớn!”. Rất may, Bộ kịp thời gửi điện xuống căn cứ, giao trách nhiệm cho bà Định cùng Sư đoàn 9, tỉnh Tây Ninh đánh địch bảo vệ lực lượng, bảo vệ căn cứ.

Ông Huỳnh Tấn Phát - Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời đến gặp bà, trao đổi: “Ý kiến của trên muốn đưa hai cơ quan về phía Nam, chị nghĩ sao?”. Bà nói: “Nếu đưa cơ quan Chính phủ Cách mạng lâm thời về phía Nam, ta sẽ mắc mưu địch. Nó đang chờ ta để tiêu diệt. Theo tôi, anh cứ tìm chỗ cho cơ quan di chuyển. Tôi sẽ chịu trách nhiệm tổ chức phối hợp chiến đấu bảo vệ cơ quan đầu não của ta”. Ông Huỳnh Tấn Phát đồng ý. Thế là một không khí sôi nổi, khẩn trương diễn ra.

Quân Mỹ cho quân đổ xuống Xóm Giữa, gần trường Lê Thị Riêng, máy bay B.52 liên tục thả bom. Dưới đất, chúng cho từng đoàn xe bao quanh căn cứ dày đặc, quyết tâm tiêu diệt cơ quan đầu não của kháng chiến. Bà Định cùng Chủ tịch Huỳnh Tấn Phát nhận trách nhiệm dẫn cơ quan dân vận gồm gần 1.000 người lặng lẽ băng trong rừng, trong mưa. Cuộc hành quân đúng như dự kiến của bà Định. Trong lúc cơ quan di chuyển, các lực lượng vũ trang đã anh dũng chiến đấu, bẻ gãy được cuộc càn. Các mũi quân của địch sục vào khu căn cứ cách mạng bị đánh mìn, bị du kích đánh gây nhiều tổn thất, khiến chúng không dám sục sạo. Kho tàng của ta được bảo vệ; các bệnh viện kịp thời sơ tán, an toàn. Đặc biệt, trường H 12 trong tay chỉ có một trung đội nhưng trong 3 ngày tiêu diệt được 3 xe tăng, 2 trực thăng Mỹ.

Trong thời gian địch càn, vùng căn cứ của ta đón gần hàng ngàn đồng bào và lực lượng cơ quan, cán bộ các phân khu khác dồn về. Lò Gò là một trong những căn cứ chống càn có hiệu quả nhất, thiệt hại rất ít, bảo vệ được vùng giải phóng. Đặc biệt, hai cơ quan Chính phủ Cách mạng lâm thời, cơ quan phụ nữ hầu như không bị thiệt hại gì. Sau này, những người có mặt trong cuộc hành quân dời căn cứ ngẫm lại, giật mình khi đưa ra câu hỏi: “Năm ấy, Trung ương Cục không có Phó tư lệnh Nguyễn Thị Định biết chớp thời cơ, dám chịu trách nhiệm, dám nghĩ dám làm, biết phán đoán tình hình, kiên quyết không di chuyển về phía địch đang chờ sẵn, bà cắt đặt chu đáo quân ứng chiến,... thì cơ quan Chính phủ cách mạng lâm thời sẽ ra sao?! Tài chỉ huy và óc phán đoán nhạy bén, tinh thần trách nhiệm, sự dũng cảm của bà đã góp phần xoay chuyển thế bị cô lập bao vây thành thắng, từ bị động chuyển sang phòng ngự và chủ động tấn công...

Chiến tranh chống Mỹ kết thúc, bà chuyển về công tác ở thủ đô Hà Nội, đảm nhiệm nhiều cương vị khác nhau: Ủy viên Trung ương Đảng (Đại hội IV - 12/1976, Đại hội V - 3/1982, VI - 12/1986), Đại biểu Quốc hội nhiều nhiệm kỳ ( Quốc hội khó VI, VII, VIII), Thứ trưởng Thương binh – xã hội, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (1980 - 1992), Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (từ tháng 6/1987 đến 1992). Bà còn tham gia nhiều hoạt động đối ngoại: Phó Chủ tịch Liên đoàn Phụ nữ dân chủ thế giới, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam – Cuba.

Con người bà Ba Định là sự kết hợp hài hòa giữa đức tính can trường, dũng cảm với lòng nhân ái, bao dung, giữa ý chí quyết liệt và sự mau nước mắt, giữa chất hùng của người lính xông pha trận mạc với nữ tính dịu dàng, đồng thời cũng rất rạch ròi, phân minh giữa cái đúng và cái sai, giữa yêu thương và căm giận. Gần 50 bài viết nhân dịp bà ra đi về nơi an nghỉ cuối cùng của bạn bè, đồng chí, người thân, đồng hương, chiến sĩ, tướng lĩnh, nhà doanh nghiệp, nhà văn, nhà báo, nữ tu… được tập hợp lại trong cuốn sách Nhớ chị Ba Định (Nxb Khoa học xã hội, 1993), ngoài nỗi tiếc thương, phần lớn các tác giả đều dành những trang viết ngợi ca bà về cách đối nhân xử thế.

Là con đẻ của nhân dân, của phong trào, bà gắn chặt cuộc đời hoạt động của mình với số phận nhân dân, sống chân chất, mộc mạc như hạt lúa, củ khoai. Người ta yêu quý bà không vì cái chức cao, quyền trọng mà vì cái chất đằm thắm, nhân ái tỏa sáng trong hành vi đời thường cũng như trong lúc thi hành công vụ.

Có cái tâm trong sáng, bà Nguyễn Thị Định thuộc trong số không nhiều người có chức, có quyền mà không bị tha hóa bởi quyền uy và địa vị. Có thể nói bà thuộc vào hàng những người "phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Vẫn sau trước thủy chung với bạn bè, đồng chí, luôn luôn nhớ ơn đối với những người cưu mang mình từ những ngày gian khổ, đen tối nhất, nhớ từng bát cháo trắng, từng con cá, cọng rau mà các bà má nghèo đã chắt chiu nuôi mình, bà sống bình đẳng, dân chủ với anh chị em được phân công phục vụ bà hằng ngày.


Tham khảo: Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, Báo Điện tử tỉnh Bến Tre, Báo Công an Nhân dân
« Sửa lần cuối: 02 Tháng Mười Hai, 2011, 09:06:29 pm gửi bởi panphilov » Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #4 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2008, 02:43:09 am »


Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện (20/10/1922 – 5/9/1995), nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Thứ trưởng thứ nhất Bộ Thương binh và Xã hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Quân công (2 hạng Nhất, 1 hạng Nhì, 1 hạng Ba), Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương chiến công hạng Nhất, 2 Huân chương Kháng chiến hạng Nhất và nhiều huân huy chương khác. Ông còn được Hội đồng Viện hàn lâm Hermann Gmeiner thuộc tổ chức Làng trẻ em SOS quốc tế trao tặng giải thưởng "Kim vàng Danh dự" do đã có những đóng góp đặc biệt cho tổ chức này.

Thượng tá (1958), Đại tá (1966), Thiếu tướng (1974)


"Đồng chí Hoàng Thế Thiện là một cán bộ cao cấp của Đảng, một vị tướng của Quân đội. Đồng chí đã từng đảm nhiệm những chức vụ quan trọng, suốt đời chiến đấu vì sự nghiệp của Đảng, của Dân tộc. Đồng chí có ưu điểm nổi bật là dù ở cương vị nào cũng là tấm gương đoàn kết và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được đồng chí, đồng đội tin yêu". (Đại tướng Võ Nguyên Giáp)

"Anh Thiện có nhiều kinh nghiệm về công tác chính trị và có kiến thức quân sự. Anh chiến đấu rất dũng cảm. Anh Thiện đã cùng anh Nguyễn Hữu An chỉ huy, chỉ đạo Sư đoàn 1 đánh nhiều trận hay, đặc biệt là đánh thiệt hại nặng lữ dù 173 của Mỹ trong chiến dịch Đắc Tô I trên đồi 875 ở phía tây bắc Kon Tum vào mùa Đông năm 1967 ... Điểm đặc biệt của anh Thiện: tuy là Chính ủy nhưng rất chú ý đến quân sự và nghiên cứu về tình hình địch. Một Chính ủy như thế quả là hơi hiếm". (Thượng tướng Hoàng Minh Thảo)

"Anh Hoàng Thế Thiện - Chính ủy là người toàn năng, không chỉ giỏi về chính trị mà còn là người hiểu biết về quân sự, khá sâu những vấn đề có liên quan đến cương vị của mình và rất xứng đáng là nhân vật trung tâm của Sư đoàn" (Thượng tướng Nguyễn Hữu An)

"Tuy là Chính ủy nhưng anh Hoàng Thế Thiện có trình độ cao về nghệ thuật quân sự, về cách đánh của nhiều hình thức tác chiến khác nhau. Vì vậy, anh không chỉ đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị mà anh còn thực sự là một cán bộ chỉ huy quân sự, đi sâu vào tác chiến ... Điều làm gương cho chúng tôi và cán bộ quân sự nói chung là địch tìm mọi cách chống lại ta thì anh luôn tìm cách để đánh thắng địch. Đây là một điểm rất đặc biệt ở anh Thiện, một Chính ủy mà cũng là một nhà quân sự. Địch có cách này thì ta có cách khác hay hơn nó để đánh thắng nó. Đây là điều rất cần thiết trong chiến tranh". (Thiếu tướng Hoàng Đan)


Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện tên thật là Lưu Văn Thi sinh năm 1922 tại Hải Phòng trong một gia đình nghèo yêu nước. Cha ông từng tham gia phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu và tham gia phong trào mặt trận Bình dân, là sáng lập viên đồng thời là Ủy viên Ban trị sự Hội Ái hữu công nhân tư gia thành phố Hải Phòng, cụ từng bị thực dân Pháp bắt giam. Gia đình cụ cũng là cơ sở của nhà Cách mạng Nguyễn Lương Bằng.

Ngay từ khi còn là học sinh Trường Bonnal, Hoàng Thế Thiện đã tích cực tham gia vào các hoạt động yêu nước của phong trào Hướng đạo sinh thành phố Hải Phòng. Đầu năm 1940, ông tham gia Tiểu tổ bí mật do nhà cách mạng Vũ Quý phụ trách, tự động xây dựng lại cơ sở cách mạng bí mật tại thành phố Hải Phòng đã bị địch khủng bố tan rã trước đó. Ông tham gia hoạt động trong phong trào Truyền bá Quốc ngữ từ năm 1940 và được cử làm Ủy viên Ban Trị sự Hội Truyền bá quốc ngữ thành phố Hải Phòng.

Tháng 1 năm 1942, ông tham gia Đoàn Thanh niên Cứu quốc và được giao nhiệm vụ xây dựng Đoàn Thanh niên Cứu quốc của Việt Minh thành phố Hải Phòng, đồng thời phụ trách một cơ sở bí mật trong thanh niên, học sinh thành phố. Sau một đợt đấu tranh treo cờ, phân phát truyền đơn toàn thành phố Hải Phòng có kết quả vào cuối năm 1942, ông được giao nhiệm vụ chuẩn bị thành lập Đoàn Thanh niên Cứu quốc toàn thành phố và thống nhất đầu mối chỉ đạo.

Tháng 3 năm 1943, ông bị chính quyền thực dân Pháp bắt tại Ngân hàng Đông Dương và đưa ra xử tại tòa án binh Hà Nội. Ông bị kết án 5 năm tù khổ sai, bị giam tại nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội), rồi bị đày lên nhà tù Sơn La. Trong tù, mặc dù bị tra tấn, đày ải nhưng ông không nhụt trí đấu tranh. Ông được kết nạp vào nhóm Trung Kiên ở Hỏa Lò và Hội Lao tù Cứu quốc ở Sơn La, được nhà cách mạng Trần Đăng Ninh trực tiếp huấn luyện về công tác bí mật và vận động quần chúng.

Tháng 3 năm 1945, ông vượt ngục tập thể trong nhóm của nhà cách mạng Trần Quốc Hoàn rồi về Thái Nguyên tiếp tục hoạt động cách mạng. Tháng 4 năm 1945, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và được cử làm Đội trưởng Đội Vũ trang Tuyên truyền Cứu quốc quân huyện Vũ Nhai. Tháng 8 năm 1945, ông tham gia giành chính quyền tại thị xã Thái Nguyên. Tháng 10 năm 1946, ông làm Thường vụ Tỉnh ủy - Chủ nhiệm Việt Minh tỉnh Thái Nguyên. Tháng 10 năm 1946, ông làm Thường vụ Tỉnh ủy - Chủ nhiệm Việt Minh tỉnh Vĩnh Yên.

Tháng 4 năm 1947, ông được điều vào Quân đội làm Phái viên Chính trị Khu 10, rồi Trưởng phòng Chính trị Liên Khu 10 - Quân khu ủy viên. Tháng 7 năm 1948, ông được cử làm Chính ủy - Bí thư Đảng ủy Trung đoàn Sông Lô (E209). Tháng 9 năm 1949, ông được Bộ Quốc phòng cử làm Trưởng đoàn cán bộ quân sự vào tăng cường cho chiến trường Nam Bộ, Nam tiến lần thứ nhất. Tháng 7 năm 1950, ông làm Phái viên Kiểm tra Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Tháng 11 năm 1950, ông làm Chính ủy - Bí thư Đảng ủy Trung đoàn Tây Đô (Khu 9), Chỉ huy phó các chiến dịch Long Châu Hà II và chiến dịch Sóc Trăng II. Cuối năm 1951, ông làm Chính ủy - Bí thư Đảng ủy Trung đoàn Cửu Long (Phân Liên khu miền Tây Nam Bộ). Tháng 10 năm 1952, ông làm Trưởng phòng Chính trị rồi Chủ nhiệm Chính trị Phân Liên khu miền Tây Nam Bộ - Quân khu ủy viên, ủy viên Ban Tuyên huấn và ủy viên Ban Tổ chức Trung ương Cục miền Nam.

Năm 1955, ông tập kết ra Bắc phụ trách Ban Đại diện miền Tây Nam Bộ. Tháng 12 năm 1955, ông làm Chủ nhiệm Chính trị Liên khu 3 - Quân khu ủy viên. Tháng 7 năm 1956, Ông làm Chính ủy Ban Nghiên cứu Sân bay. Tháng 12 năm 1958, ông được phong quân hàm Thượng tá. Tháng 1 năm 1959, ông làm Chính ủy - Bí thư Đảng ủy đầu tiên của Cục Không quân.

Tháng 10 năm 1964, ông trở lại chiến trường Nam Bộ trên con tàu "không số" (Đoàn 125) với bí danh là Hoàng Dân tức Tư Dân, Nam tiến lần thứ hai. Lúc này, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng có chủ trương thành lập một sư đoàn chủ lực của Quân Giải phóng miền Nam ở miền Tây Nam Bộ. Ông về thẳng miền Tây để chuẩn bị cho việc thành lập sư đoàn này và đảm nhiệm chức vụ Chính ủy sư đoàn, nhưng vì nhiều lý do khách quan nên sư đoàn này không thành lập được.

Tháng 12 năm 1964, ông làm Phó Chính ủy Quân khu 8 (Trung Nam Bộ). Tháng 7 năm 1965, ông về miền Đông tham gia thành lập Sư đoàn 9 - Sư đoàn chủ lực đầu tiên của Quân Giải phóng miền Nam, làm Phó Chính ủy - Phó Bí thư Đảng ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị đầu tiên của Sư đoàn 9. Tháng 2 năm 1966, ông được phong quân hàm Đại tá. Tháng 8 năm 1966, ông về Mặt trận Tây Nguyên (B3) làm Chính ủy - Bí thư Đảng ủy Sư đoàn 1, Đảng ủy viên Mặt trận B3; ông đã cùng Tư lệnh sư đoàn Nguyễn Hữu An chỉ huy, chỉ đạo Sư đoàn 1 đánh nhiều trận hay, đặc biệt là đánh thiệt hại nặng Lữ dù 173 của Mỹ trong chiến dịch Đắc Tô 1 trên đồi 875 ở phía tây bắc Kon Tum vào mùa đông năm 1967. Tháng 1 năm 1969, ông làm Chính ủy - Bí thư Đảng ủy Sư đoàn 304.

Tháng 7 năm 1970, ông được điều vào tuyến lửa Trường Sơn, làm Phó Chính ủy - Thường vụ Đảng ủy Mặt trận 968 Nam Lào rồi tham gia chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (tháng 1 năm 1971). Tháng 6 năm 1971, ông làm Phó Chính ủy - Thường vụ Đảng ủy Bộ Tư lệnh Trường Sơn (đoàn 559) kiêm Chính ủy - Bí thư Đảng ủy Bộ Tư lệnh khu vực 470 (tương đương Sư đoàn). Tháng 5 năm 1973, ông làm Chính ủy - Phó Bí thư rồi Bí thư Đảng ủy Bộ Tư lệnh Trường Sơn.

Ngày 16 tháng 4 năm 1974, ông được phong quân hàm Thiếu tướng theo Lệnh số 21-LCT của Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Tôn Đức Thắng. Tháng 2 năm 1975, ông được điều vào chiến trường B2 (Nam Bộ), Nam tiến lần thứ ba, làm Chính ủy đầu tiên - Bí thư Đảng ủy Quân đoàn 4, Phó Chính ủy - Thường vụ Đảng ủy Mặt trận phía Đông thuộc Bộ Tư lệnh B2. Ông trực tiếp chỉ huy hướng tiến công Dầu Tiếng - Chơn Thành. Tháng 4 năm 1975, ông tham gia chỉ huy cánh quân hướng Đông - một trong năm cánh quân tiến vào giải phóng Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh.

Tháng 12 năm 1976, ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IV. Tháng 4 năm 1977, ông được cử làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Xây dựng Kinh tế - Bí thư Đảng ủy Tổng cục. Từ tháng 10 năm 1978 đến tháng 6 năm 1982, ông làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, trưởng Ban B.68 Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Đoàn Chuyên gia Việt Nam toàn Campuchia, Cố vấn cho Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, Phó Tổng đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia, Phó Tư lệnh Chính trị Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia kiêm Trưởng đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia (đoàn 478).

Tháng 7 năm 1982, ông được điều về nước làm Thứ trưởng thứ nhất Bộ Thương binh và Xã hội. Tháng 5 năm 1983, ông được cử làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa II. Tháng 2 năm 1987, ông làm Thứ trưởng thứ nhất Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Tháng 7 năm 1987, ông được nghỉ hưu.

"Có thể nói rằng, chặng đường chiến đấu của Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện ở Nam Bộ gắn liền với các đơn vị chủ lực, với quá trình xây dựng, chiến đấu và công tác của lực lượng vũ trang chủ lực ở Nam Bộ, từ trung đoàn đến cấp quân đoàn. Ông có mặt ở hầu khắp các chiến trường Nam Bộ, từ miền Tây, miền Trung lên miền Đông và thành phố Sài Gòn, từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cho đến kháng chiến chống đế quốc Mỹ và những ngày tháng sôi động sau khi đất nước hòa bình, thống nhất. Những gì ông để lại cho lực lượng vũ trang Nam Bộ là hình ảnh một cán bộ chính trị - quân sự kiên trung, tận tụy, sâu sắc, mực thước và dung hậu. Với tư cách một người lính cầm súng, trên dọc đường hành quân đánh giặc, Nam Bộ là nơi ông dừng chân nhiều nhất, cũng là nơi ông dừng lại sau cùng" (Đại tá Hồ Sơn Đài, tiến sĩ Sử học)

"Cuộc đời và sự nghiệp của Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện là một tấm gương sáng về phẩm chất của người cán bộ cách mạng, một vị tướng trưởng thành từ cơ sở, qua nhiều cương vị, là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy quân đội đứng mũi chịu sào của nhiều đơn vị. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đồng chí đã được Đảng tin cậy giao nhiệm vụ vào chiến trường Nam Bộ trong những thời điểm khó khăn nhất, nhưng đồng chí đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trên 50 năm hoạt động cách mạng, gần 40 năm chiến đấu và công tác trong Quân đội, đồng chí luôn thể hiện là một cán bộ chính trị - quân sự trung kiên, dũng cảm, trung thực, liêm khiết, sống gần gũi với đồng chí, đồng bào, nghiêm khắc với mọi biểu hiện cá nhân chủ nghĩa. Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện đã có nhiều công lao trong sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Là một vị tướng có uy tín của Quân đội, công lao và thành tích xuất sắc của đồng chí đã được Đảng, Nhà nước và Quân đội ta ghi nhận. Lịch sử hai cuộc kháng chiến vĩ đại của Dân tộc ta và lịch sử quá trình xây dựng, chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng còn mãi mãi ghi đậm hình ảnh và công lao vị tướng có tài tổ chức và chỉ huy chiến đấu, một Chính ủy kiên trung, mẫu mực, một đảng viên ưu tú của Đảng" (Thiếu tướng Trịnh Vương Hồng, Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam)
« Sửa lần cuối: 02 Tháng Mười Hai, 2011, 08:09:37 am gửi bởi panphilov » Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #5 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2008, 02:46:11 am »


Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ (1917 – 1991), nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam), nguyên Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, nguyên Phó Tổng thanh tra Quân đội, nguyên Tư lệnh kiêm Chính ủy Bộ Tư lệnh 559 (Bộ Tư lệnh Đường Trường Sơn), nguyên Thứ trưởng Bộ Công an.

Huân chương Sao Vàng (truy tặng 15/10/2007), Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng nhất, Huân chương Chiến thắng hạng nhất, Huân chương Kháng chiến hạng nhất và nhiều huân, huy chương khác.

Đại tá (1954), Thiếu tướng (1955)


"Đồng chí Phan Trọng Tuệ, người Cộng sản kiên trung, một vị tướng, một cán bộ cao cấp của Đảng, của Nhà nước có đức độ và tài năng, hết lòng vì nước vì dân. Đồng chí sớm giác ngộ cách mạng, gia nhập Đảng từ năm 1934 lúc mới 17 tuổi, đã 2 lần bị địch bắt, tù đày, tra tấn nhưng đồng chí vẫn giữ vững khí tiết…với tôi đồng chí là người bạn chiến đấu thủy chung". (Đại tướng Võ Nguyên Giáp)

"Anh Phan Trọng Tuệ không chỉ đóng góp cho ngành Giao thông vận tải mà còn có nhiều cống hiến đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ miền Bắc XHCN, đấu tranh thống nhất nước nhà… Anh đã rất xuất sắc trên cương vị Chính ủy và Tư lệnh Đoàn 559 mở đường cơ giới cho ôtô đi sâu vào các chiến trường miền Nam. Anh huy động các lực lượng giao thông vận tải làm hậu cần cho quân đội giành thắng lợi cuối cùng ở Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sau khi thống nhất nước nhà, anh đã chỉ đạo nhanh chóng khôi phục đường sắt thống nhất Bắc - Nam vào dịp Đại hội Đảng lần thứ 4 (1976)’’ (Nguyễn Văn Trân, nguyên Bí thư Thành ủy Hà nội, nguyên Chủ tịch Ủy ban bảo vệ Hà Nội trong những ngày Toàn quốc kháng chiến)


Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ quê ở xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây – một vùng đất giàu truyền thống yêu nước. Dòng họ Phan ở Sài Sơn xuất phát từ Thạch Hà, Hà Tĩnh với ông tổ là Danh sĩ Phan Huy Ích. Phan Huy Ích chuyển từ Hà Tĩnh ra định cư tại xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây và sinh ra Phan Huy Chú, nhà Bác học, Sư học nổi tiếng thời Nguyễn. Tuy nhiên, ông lại sinh ra tại Viên Chăn, Lào. Cụ thân sinh ra ông là Phan Trọng Định, khoảng đầu thế kỷ 20, đã phiêu bạt sang tận Lào, Thái Lan mưu sinh.

Sau khi gây dựng được cơ ngơi tại Viên Chăn, cụ Định về quê đón cụ bà Trịnh Thị Miễn cùng 2 người con gái là Phan Thị Lạng và Phan Thị Nén sang đoàn tụ. Tại vùng đất mới 2 cụ sinh thêm ra các ông bà Phan Trọng Tuệ, Phan Trọng Quang, Phan Thị Sáng, Phan Thị Suốt. Khoảng giữa năm 1930, Viêng Chăn trở thành nơi lưu trú của nhiều chiến sĩ cách mạng sau sự kiện Xôviết Nghệ Tĩnh bị dìm trong biển máu, phải lẩn trốn sự truy lùng của mật thám Pháp. Cụ bà Trịnh Thị Miễn, tuy chỉ là người nội trợ, nhưng cũng là người đứng đầu tổ chức ái hữu, đã vận động bà con Việt kiều che chở, đùm bọc những chiến sĩ cách mạng. Được tiếp xúc với sách báo tiến bộ và những người cách mạng, Phan Trọng Tuệ đã tích cực tham gia các hoạt động xã hội như giúp đỡ người nghèo, chống lại sự hà hiếp, áp bức của bọn chức dịch, tay sai…

Năm 1934, Phan Trọng Tuệ trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1935, Phan Trọng Tuệ tham gia lãnh đạo cuộc mít tinh lớn phản đối thực dân Pháp, nên bị bắt giam 4 tháng. Sự việc này, cùng với ảnh hưởng và những việc làm yêu nước của gia đình họ Phan khiến chính quyền sở tại lo ngại, họ bèn trục xuất cả gia đình về quê gốc Sài Sơn để quản thúc cùng với Nguyễn Văn Thọ và Đào Văn Tiễu. Thời gian này, ông cùng các đồng chí của mình đã nhanh chóng khôi phục hoạt động, tổ chức vận động cách mạng ngay tại quê hương. Tháng 8/1936, "Tổ Cộng sản Đa Phúc" đã được thành lập tại nhà của ông với ba thành viên chủ chốt là Phan Trọng Tuệ, Nguyễn Văn Thọ, Đào Văn Tiễu. Tổ được ra đời nhằm công việc Tuyên truyền, vận động cách mạng trong quần chúng nhân dân địa phương và tìm cách bắt liên lạc với Đảng Cộng sản Đông Dương.

Năm 1937 ông trực tiếp phụ trách chi bộ Ðảng ở xã Sài Sơn và liên lạc với Thành uỷ Hà Nội. Năm 1940 ông là Bí thư Tỉnh uỷ lâm thời tỉnh Sơn Tây. Năm 1941: Bí tỉnh uỷ Hà Ðông, rồi Bí thư liên tỉnh uỷ gồm Hà Nội, Hà Ðông, Sơn Tây, Hà Nam. Cuối năm 1941, ông là Xứ uỷ viên xứ uỷ Bắc Kỳ phụ trách công tác binh vận. Tháng 9/1943, ông bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nam và đem giam tại Hỏa Lò, Hà Nội. Cuối năm này ông bị kết án 27 năm tù và đày đi Côn Đảo cùng với hơn mười ‘’tù chính trị nguy hiểm’’ khác trong đó có Trần Văn An, Vũ Xuân Chiêm (sau này là Trung tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng). Trong tù ông tiếp tục hoạt động cách mạng, là chi ủy viên khối Hà Nội-Sơn La.

Cách mạng tháng Tám thành công, ông công tác trong Ban trật tự Côn Đảo cho đến ngày 20/9. Ông được Ủy ban Khởi nghĩa Nam Bộ cho thuyền ra đón và trở về cửa Mỹ Thanh thuộc Sóc Trăng trong đêm 22/9 cùng với nhiều tù chính trị khác trong đó có Bác Tôn và Lê Duẩn.  Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, các tù chính trị Côn Đảo được phân công đi các tỉnh miền Nam và miền Trung lãnh đạo kháng chiến. Phan Trọng Tuệ được phân công ở lại miền Tây Nam Bộ trên cương vị Thanh tra kháng chiến Hậu Giang, Ủy viên liên tỉnh ủy (gồm 10 tỉnh miền Tây Nam Bộ). Ngày 23/8/1947, ông được cử giữ chức Chính trị viên Khu 9.

Từ tháng 12 năm 1948 đến năm 1950, ông làm Chính ủy Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn; Chính ủy Khu VII; Thanh tra Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Từ năm 1952 đến năm 1954, ông làm Tư lệnh, sau đó Phó Tư lệnh kiêm Chính ủy Phân liên khu miền Tây Nam Bộ. Từ tháng 8 năm 1954, ông là Đại tá Phó Trưởng đoàn Liên hiệp đình chiến Nam Bộ rồi quyền Trưởng đoàn Đại biểu Bộ tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam trong Ủy ban liên hiệp đình chiến Trung ương, đồng thời ông cũng giữ vai trò Phó Trưởng đoàn liên hiệp định chiến Trung ương. Năm 1955, ông được thăng quân hàm Thiếu tướng theo Sắc lệnh 243-SL ngày 3 tháng 11 năm 1955, do Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh kí.

Tháng 3 năm 1957, ông làm Phó Tổng thanh tra Quân đội. Ngày 19/11/1958, các đơn vị bộ đội quốc phòng đang làm công tác bảo vệ nội địa, bảo vệ biên giới, bờ biển, giới tuyến và các lực lượng vũ trang khác chuyên trách công tác bảo vệ nội địa và biên phòng, giao cho ngành công an trực tiếp chỉ đạo, lấy tên là Lực lượng Cảnh vệ, ông được cử phụ trách lực lượng này kiêm Thứ trưởng Bộ Công an. Ngày 3/3/1959, Khi lực lượng Công an vũ trang (tiền thân của lực lượng Biên phòng) được thành lập, ông được cử làm Tư lệnh kiêm Chính ủy đầu tiên của Lực lượng Công an nhân dân vũ trang cho đến năm 1961.

Năm 1961 đến năm 1980, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải và là Bộ trưởng lâu năm nhất của Bộ này. Thời gian ông làm Bộ trưởng kéo dài suốt cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc và thời kì khôi phục cơ sở giao thông, đường sá cầu cống Bắc Nam sau chiến tranh. Từ năm 1965 đến năm 1968, ông được cử vào tuyến chiến lược Trường Sơn, làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Đoàn 559 thay cho Đại tá Hoàng Văn Thái đi nhận nhiệm vụ khác. Đây cũng là thời điểm bắt đầu mở đường Trường Sơn cho cơ giới nhằm đáp ứng với đòi hỏi của thực tế chiến trường là quân Mĩ ào ạt đổ bộ vào miền Nam Việt Nam.

Năm 1968, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải ông vào phụ trách và chỉ đạo công tác bảo đảm giao thông trên địa bàn Quân khu IV nhằm phục vụ cho công tác chi viện cho chiến trường miền Nam, đặc biệt là trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Bởi vì, địa bàn Quân khu IV là địa bàn tập trung binh lực, vũ khí, đạn dược…chi viện của miền Bắc trước khi vượt Trường Sơn vào Nam cho nên luôn là trọng điểm đánh phá của giặc Mĩ.

Từ năm 1973 đến năm 1976, ông kiêm chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thời gian này ông cùng Phó Thủ tướng Đỗ Mười thay mặt Chính phủ chỉ đạo việc phát triển Đường Trường Sơn thành đường chuẩn Quốc gia. Đây là một vấn đề mang tính chiến lược, góp phần quan trọng tạo thế và lực cho sự nghiệp giải phóng miền Nam. Từ cuối năm 1974 đến 1975, ông làm Ủy viên Thường trực Hội đồng Chi viện giải phóng miền Nam. Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa III và VI. Đại biểu Quốc hội từ khóa II đến khóa VI.

Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ là một vị Bộ tưởng có tài quản lý và có tầm nhìn chiến lược đối với sự phát triển của Bộ Giao thông Vận tải, nhằm đáp ứng những đòi hỏi và yêu cầu thực tế của tình hình đất nước. Năm 1961, ngay khi được cử làm Bộ trưởng, ông đã chỉ đạo các cán bộ khoa học kĩ thuật của Bộ nghiên cứu, thiết kế, đóng mới loại tàu cỡ nhỏ của Bộ Quốc phòng. Đây là một công tác bí mật mang tính chiến lược, vì đó chính là những con tàu không số huyền thoại. Ngành đóng tầu Việt Nam hiện nay là một trong những ngành cônng nghiệp trọng điểm rất phát triển, ngành mà chúng ta hoàn toàn có thể tự chủ từ khâu thiết kế đến khâu thi công. Hiếm ai biết được ngay từ năm 1970, chính Bộ trưởng Phan Trọng Tuệ đã chỉ đạo cán bộ của Bộ thực hiện đề tài “Về chiến lược cần xây dựng Việt Nam thành một quốc gia hàng hải - với nền kinh tế biển phát triển - một hạm đội mạnh - một đội thương thuyền mạnh. Muốn vậy phải xây dựng một nền công nghiệp đóng tàu Việt Nam hiện đại và phát triển”, ông luôn quan tâm đến việc xây dựng lực lượng nghiên cứu thiết kết và lực lượng đăng kiểm.

Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ không những yêu khoa học, thích kỹ thuật, mà còn có tư duy khoa học, kỹ thuật rất độc đáo, một con người rất coi trọng trí tuệ và trí thức. Ông luôn luôn quan tâm động viên, khuyến khích các cán bộ khoa học kĩ thuật, tạo điều kiện cho họ hoàn thành nhiệm vụ của mình trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh và đồng thời rất biết tiếp thu những đề suất cũng như những ý tưởng của họ. Ông thường nói “Cán bộ khoa học phải cố làm những gì sản xuất và chiến đấu đang cần với cái gì đang có và sẽ tạo ra với ý chí quyết tâm học hỏi - phàm những việc người khác làm ta cố gắng rồi cũng làm được. Ta đã thắng giặc Mỹ trên mặt trận giao thông vận tải đâu chỉ bằng sức lực mà cả bằng trí tuệ nữa. Trí tuệ Việt Nam có chịu thua kém đâu”. Chính tướng Phan Trọng Tuệ là người gợi ý cho các đề tài khoa học như : ca-nô không người lái dùng để phá thủy lôi, rồi ý tưởng cho ô tô chạy trực tiếp trên dây cáp thông qua kẽ hở vành lốp ô tô – đây chính là cơ sở cho đề tài khoa học ‘’nghiên cứu các biện pháp vượt sông bằng hệ dây đàn hôi’’.

« Sửa lần cuối: 02 Tháng Mười Hai, 2011, 03:36:17 pm gửi bởi panphilov » Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #6 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2008, 02:48:37 am »


Trung tướng Anh hùng (truy tặng) Liệt sĩ Nguyễn Bình (1908 – 29/9/1951), Anh hùng Lực lượng Vũt rang Nhân dân (truy tặng) nguyên Khu trưởng Khu VII, nguyên Chỉ huy trưởng Chiến khu Đông Triều. Ông được phong hàm Trung tướng ngay trong đợt phong quân hàm đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất...

Trung tướng (1948 trong đợt phong tướng đầu tiên của Quân đội và đứng thứ 2 sau Đại tướng Võ Nguyên Giáp).


‘’Bác giao miền Nam cho chú’’ (Chủ tịch Hồ Chí Minh)

“Thảo có can đảm, vũ dũng hơn người và trung hậu với bạn, trung thành với đoàn thể. Trước Cách mạng Tháng Tám, Thảo lập chiến khu Đông Triều một cách tự động...” (Nhà sử học Trần Huy Liệu)


Nguyễn Bình tên khai sinh là Nguyễn Phương Thảo, quê làng An Phú, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ nhưng sống ở thành phố Hải Phòng. Ông sinh năm 1908 trong một gia đình trung lưu có 5 người con, ông là thứ 4. Năm 17 tuổi đang học năm thứ 2 trường Trung học Hải Phòng, vì những hoạt động yêu nước và bị thực dân Pháp truy lùng, ông trốn gia đình vào Nam giao du với nhà văn giang hồ Vương Sơn. Sau ông kết thân với nhà văn, nhà báo Trần Huy Liệu bấy giờ là Đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng và trở thành Đảng viên tích cực của Đảng này, giữ chức Trưởng ban tổ chức. Năm 1928 Xứ bộ Việt Nam Quốc dân Đảng Nam Kỳ được thành lập, hoạt động với tôn chỉ: “Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”. Ông được bầu vào Ban chấp hành Xứ bộ, Trần Huy Liệu giữ chức Bí thư.

Năm 1929 ông và Trần Huy Liệu bị bắt, bị kết án 5 năm tù và đày Côn Đảo. Khi ở tù, được tiếp xúc với những đảng viên cộng sản, ông có thiện cảm với Đảng cộng sản, đường lối đấu tranh của ông bắt đầu ngả sang những người cộng sản. Chính vì vậy mà ông bị bọn cầm đầu Quốc dân Đảng thanh trừng, bị khoét mất mắt trái. Cũng từ đó ông nhận ra rằng khẩu hiệu của chủ nghĩa Tam dân thực chất chỉ là khẩu hiệu suông, còn bọn cầm đầu thì theo mục đích: “Vinh thân thì gia” và không ngần ngại thủ tiêu những đồng đảng khác chính kiến.

Năm 1935 mãn hạn tù, ông trở về quê nhà. Ông tiếp tục hoạt động, bí mật xây dựng chiến khu Đông Triều, ông bị bắt một lần nữa từ năm 1938 đến năm 1942. Tuy bị quản thúc nhưng ông vẫn nuôi ý chí cách mạng, bí mật xây dựng Đông Triều làm căn cứ chống Pháp một cách độc lập. Khoảng năm 1942, ông được tổ chức Đảng và Việt Minh giao cho nhiệm vụ mua vũ khí chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa. Ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đồng thời còn vận động binh lính các đồn Thủy Nguyên, Cửa Ông, thị xã Kiến An cung cấp vũ khí. Nhờ súng đạn nhiều mà Đông Triều trở thành chiến khu vững vàng và chùa Bắc Mã là tổng hành dinh của quân giải phóng chiến khu Đông Triều.

Đêm 12/3/1945 ông tham gia đánh trận đồn Bần Yên Nhân, thu được nhiều thắng lợi. Trận đánh đồn Bần được coi là trận đánh kiểu mẫu ở đồng bằng. Cũng trong tháng 3-1945, ông đã lãnh đạo tổ chức đánh cướp tàu Pháp ở Hạ Lý-Hải Phòng, hạ đồn Đông Triều, diệt đồn Bí Chợ, đánh địch chiếm thị xã Uông Bí. Tháng 4/1945 Hội nghị quân sự Bắc kỳ quyết định cả nước chia làm 7 quân khu, Bắc Bộ có 4, ông giữ chức Tư lệnh Đệ tứ quân khu (tức chiến khu Đông Triều gồm các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hải Phòng, Hòn Gai, Móng Cái và Lạng Sơn).

Trong tháng 6, tháng 7 năm 1945 ông chỉ huy nhiều trận đánh lớn, thu được nhiều lương thực và vũ khí, như trận phục kích trên sông Kinh Thầy, trận tấn công đồng loạt 5 đồn Thanh Hà, Kinh Môn, Thuỷ Nguyên, Uông Bí, và Bí Chợ, đặc biệt là trận đánh chiếm giải phóng thị xã Quảng Yên, là tỉnh lị duy nhất ở miền Bắc về tay nhân dân trước cách mạng tháng Tám. Trong các trận này thu 600 súng trường, 400 trung liên. Thừa thắng ông mang quân đi yểm trợ cuộc khởi nghĩa ở Hải Phòng, sau đó giải phóng Tiên Yên, Ba Chẽ, Hòn Gai, Cẩm Phả, Cát Bà.

Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông dẫn gần 100 nghĩa quân tiến theo cờ đỏ sao vàng trên đường 18 hướng tới Đông Triều. Cả đoàn chỉ có một súng trường, còn toàn giáo mác. Cánh tay phải của mỗi người đeo một băng đỏ dính sao vàng. Riêng trên ngực ông có gắn miềng vải đỏ có chữ TCH-tức Tổng chỉ huy…Từ chiến khu Đông Triều, ông đã chỉ huy lực lượng tiến công phối hợp với nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, tổ chức giành chính quyền ở Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An. Hải Dương là một trong những tỉnh giành được chính quyền đầu tiên trong cả nước, trước khi mệnh lệnh tổng khởi nghĩa về đến. Sau đó, ông được giao làm khu trưởng Khu duyên hải Bắc Bộ, ông là người có công lớn trong bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ ở đây.

Do có biệt tài về quân sự, tháng 9/1945 ông được Hồ Chủ tịch cử vào miền Nam lo việc thống nhất các lực lượng vũ trang tại chiến trường Nam Bộ. Ông thưa với Bác :
- Thưa Bác, được Bác tin cậy trao cho nhiệm vụ vô cùng lớn lao, vô cùng hiểm nguy và nặng nề, Nguyễn Bình xin bái mệnh, nhưng…
- Chú nhận nhiệm vụ rồi sao còn ‘’nhưng’’ ?
- Thưa Bác, một Nguyễn Bình giang hồ ngang dọc để làm việc nghĩa, một Nguyễn Bình Quốc dân đảng để cứu nước đã thất bại…Nguyễn Bình ly khai Quốc dân đảng bị kết tội phản đảng, họ trị tội bằng cách móc một mắt. Nguyễn Bình không chết đã tìm đến con đường của ‘’Ông Nguyễn yêu nước’’. Giờ đây được Bác tin cậy giao việc lớn cho cháu, nhưng cháu chưa phải là Đảng viên đảng cộng sản…

Bác Hồ mỉm cười :
- Đảng viên cộng sản ử ? Tổ quốc trên hết ! Tôi giao nhiệm vụ cho đồng chí Nguyễn Bình ái quốc, ái dân và bình thiên hạ cho an sinh hòa mục…

Tháng 10 năm 1945, ông vào Nam đi theo ngả Tây Nguyên tới thị xã Thủ Dầu Một, ở nhà ông giáo Chương. Sau đó, được ông Võ Bá Nhạc là con rể ông Chương nhường sở cao su Bến Vịnh mà chủ người Pháp giao cho quản lý để ông lập tổng hành dinh. Chính ông Võ Bá Nhạc là chánh văn phòng cho ông từ ngày đầu cho tới lúc hy sinh. Ông được giao giữ chức ủy viên quân sự Nam bộ kiêm khu trưởng khu VII, rồi Tư lệnh mặt trận Nam Bộ với toàn quyền quyết định các việc thuộc lĩnh vực quân sự tại Nam Bộ, theo sắc lệnh số 18/SL ngày 21 tháng 3 năm 1949 của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong những ngày đầu kháng chiến, tình hình Nam Bộ hết sức rối ren, phức tạp, có thể ví như thời kỳ “Thập nhị sứ quân” - gồm nhiều Đảng phái, anh hùng hảo hán và phải đối diện với một đội quân viễn chinh hùng hậu. Nguyễn Bình đã tìm mọi cách tập hợp các lực lượng kháng chiến dưới sự chỉ huy chung và nhanh chóng tổ chức một cuộc kháng chiến toàn lực, toàn diện.

Đây là nhiệm vụ vô cùng khó khăn vì trong Nam lúc đó rất nhiều màu sắc chính trị, đảng phái và tôn giáo như Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên, Hải Hồ (do Nhật tổ chức)... Nguyễn Bình tìm được giọng nói thích hợp với từng hạng người. Với tư sản Sài Gòn, ông đề cập tinh thần quốc gia. Với nông dân ông nói về chia ruộng đất các đại điền chủ cấp cho dân nghèo. Với thanh niên ông hô hào lòng dũng cảm vì nước quên mình... Nhưng ông cũng dùng cả hình phạt với những kẻ lợi dụng chiến tranh để làm giàu bằng cách hợp tác với Pháp... Tổng hành dinh của ông ở giữa Đồng Tháp Mười mà lại tiếp giáp cửa ngõ Sài Gòn, nhờ khéo ngụy trang mà không bị quân Pháp tìm thấy. Một bộ máy hành chính, kinh tế và quân sự cực kỳ phức tạp được thiết lập trên khắp Nam Bộ. Tất cả các làng và các phường hộ trong thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn đều có cán bộ lãnh đạo nhân dân, thu thuế và thi hành các bản án dành cho bọn phản động...”.

Vào Nam, tướng Nguyễn Bình đã sử dụng tài đức của mình kể cả tác phong anh hùng mã thượng để thu phục các nhóm của Bảy Môn, Mười Lực, Mười Trí, Bảy Viễn, Tám Mạnh, Ba Dương... Chẳng những thế, tướng Nguyễn Bình còn thu phục được giới trí thức làm việc dưới trướng như giáo sư Phạm Thiều, Đặng Minh Trứ, luật gia Lê Đình Chi, Huỳnh Kim Trương, Huỳnh Văn Nghệ...

Tướng Nguyễn Bình còn tỏ ra vị tướng có bản lĩnh phi thường khi một mình vào Sài Gòn để nghiên cứu tình địch, hay khi làm chánh án xử Ba Nhỏ tử hình, Ba Nhỏ xin ân huệ được dùng súng ngắn của tướng Nguyễn Bình để tự xử. Ông đã bình tĩnh tháo súng sai người đưa cho Ba Nhỏ. Mọi người hồi hộp lo lắng cho ông. Ba Nhỏ đã nhận súng và tự xử trước mặt mọi người. Ông Chánh án Nguyễn Bình và tử tội Ba Nhỏ đều hiên ngang đầy đủ khí phách như nhau trước cái chết và cái còn mạnh hơn cái chết đó là: danh dự.

Những chiến công buổi đầu của quân dân Nam Bộ được gắn liền với tên tuổi Nguyễn Bình, khiến các giới chính trị, quân sự Pháp cũng phải kính nể. Năm 1947, ông được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam. Ngày 25/1/1948 Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh phong cho ông hàm Trung tướng. Đây là trung tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tháng 9/1951, theo yêu cầu của Trung ương, ông lên đường ra Bắc nhận nhiệm vụ mới. Trên đường đi ông bị giặc phục kích, hy sinh tại biên giới Việt Nam - Campuchia.

Trung tướng Nguyễn Bình là người chỉ huy mưu lược, quyết đoán và dũng cảm, giữ kỷ luật nghiêm minh, lập nhiều chiến công xuất sắc ở những nơi nguy hiểm vào những thời điểm khó khăn nhất. Ông có công trong việc thống nhất lực lượng kháng chiến ở Nam Bộ và xây dựng Ban công tác thành (biệt động) Sài Gòn. Tháng 2 năm 1952 Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh 84/SL truy tặng ông Huân chương Quân công hạng nhất. Ông cũng là người đầu tiên trong quân đội được nhận Huân chương cao quý này.

Sau khi ông qua đời, nhiều sách báo đã viết về ông như một hiện tượng đặc biệt về tài năng quân sự những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp.

Sử gia người Pháp chuyên về Đông Dương P.Sê-nút đã viết về “Nguyễn Bình-ông tướng một mắt”. Các sử gia người Pháp tặng Nguyễn Bình biệt danh “Lưu Bá Thừa của Việt Nam”-Lưu Bá Thừa là tướng “độc nhãn long” nổi tiếng chuyên về tiến hành chiến tranh du kích của Quân giải phóng Trung Hoa. Sê-nút đã ngợi ca Nguyễn Bình là “Lưu Bá Thừa của Việt Nam” đã ngã xuống cho Nam Bộ đứng lên.

Tuy nhiên ở đây cũng phải nói đến mỗi quan hệ giữa tài năng của Nguyễn Bình và sự tinh tế, mạnh dạn trong cách dùng người của Bác Hồ. Một vị chỉ huy như Nguyễn Bình, sau cách mạng xứng đáng được đứng vào hàng ngũ những người cộng sản mà sao phải đợi đến năm 1946 ! Chắc hẳn không phải Nguyễn Bình là người duy nhất trong số rất ít những người có khả năng đảm đương vai trò của ông vào thời điểm những buổi đầu của Nam Bộ kháng chiến mà Bác chỉ tin tưởng giao phó cho ông ‘’Bác giao Nam Bộ cho chú’’ ! Tất nhiên có rất nhiều lí do, nhưng ta có thể kể đến những lí do có tính chiến lược như : với tình trạng của Nam Bộ thời kì đầu của Nam Bộ kháng chiến, thì việc một người ngoài Đảng cộng sản sẽ có tiếng nói mạnh mẽ hơn đối với đông đảo đồng bào Nam Bộ vốn thời kì đó trong tình trạng ‘’cát cứ phân tranh’’ với nhiều màu sắc chính trị, đảng phái, tôn giáo…Mặc khác, vì là người ngoài Đảng cho nên ông sẽ ít bị mật thám Pháp để ý hơn. Thực tế lúc bấy giờ, quân Pháp không biết gì nhiều về ông. Quân Pháp tập trung vào việc tìm hiểu, điều tra các ông Trần Văn Giàu – Trưởng ban kháng chiến Nam Bộ, rồi ông Phạm Ngọc Thạch…mà ít chú ý đến tướng Nguyễn Bình, trong khi chính ông mặc dù chỉ là Ủy viên quân sự nhưng thực tế là người thiết kế, tổ chức kháng chiến…

Năm 2000, Bộ Tư lệnh quân khu VII đã di chuyển hài cốt ông về an táng tại nghĩa trang thành phố Hồ Chí Minh. Ông được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
« Sửa lần cuối: 02 Tháng Mười Hai, 2011, 09:25:21 pm gửi bởi panphilov » Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #7 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2008, 02:52:07 am »


Thiếu tướng Trần Tử Bình (1907 – 11/2/1967), nguyên Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, nguyên Tổng thanh tra Quân đội kiêm Phó Tổng thanh tra chính phủ, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Là một trong 9 cán bộ đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh kí quyết định phong quân hàm Thiếu tướng.

Huân chương Sao Vàng (truy tặng 14.1.2008), Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Nhất.

Thiếu tướng (1948 trong đợt phong quân hàm cấp tướng đầu tiên của Quân đội)


“Đồng chí Trần Tử Bình đã hoạt động không mệt mỏi và có những cống hiến quan trọng trong việc tăng cường mối tình hữu nghị chiến đấu anh em giữa nhân dân hai nước Trung - Việt” (Thủ tướng Chu Ân Lai)

“Anh là tấm gương sáng cho các thế hệ hiện nay và mai sau học tập. Tôi mãi mãi giữ những kỷ niệm và ấn tượng tốt đẹp về anh!”. (Đại tướng Võ Nguyên Giáp)

“Là một chương sử thời đại mà ông (Trần Tử Bình) đã sống, đã cống hiến một cách tận tụy và hóa thân cho một sự nghiệp lớn”. (Nhà Sử học Dương Trung Quốc)


Thiếu tướng Trần Tử Bình tên thật là Phạm Văn Phu sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo theo đạo Thiên Chúa tại xã Tiêu Động, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Là một thanh niên công giáo theo học ở trường dòng, thông qua sách báo tiến bộ mà giác ngộ Cách mạng. Cuối năm 1926, vì tham gia phong trào vận động giáo sinh ở Chủng viện Hoàng Nguyên (thuộc giáo phận Hà Đông) để tang cụ Phan Châu Trinh cho nên ông bị đuổi học. Trên đường kiếm sống ông đã gặp nhà cách mạng Tống Văn Trân, đây là bước ngoặt lớn đối với ông, bước ngoặt đưa ông đến với Cách mạng đến với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân.

Lãnh đạo Phú Riềng đỏ

Giữa năm 1927, cùng với đoàn người đi phu đồn điền cao su vào Nam bằng tàu biển xuất phát từ cảng Hải Phòng, ông vào làm phu tại Phú Riềng. Ngay trong thời gian tại khu nhà tôn phường Hạ Lý (thành phố Hải Phòng), trong suy nghĩ của những người đi phu, ông đã trở thành người thủ lĩnh bởi tính tình thẳng thắn, hay giúp người và điều đặc biệt ông là người duy nhất trong số họ được học hành.

Tại Phú Riềng, Trần Tử Bình đã vạch trần những thủ đoạn bóc lột của giới chủ Pháp đối với người công nhân đồn điền cao su. Như : lợi dụng họ không biết chữ để dùng các hợp đồng lao động ràng buộc và bóc lột họ, nói một đằng và viết một nẻo. Cai thầu (Phan Tất Tạo) ăn chặn tiền của công nhân, bớt xén khẩu phần của dân phu…Với vai trò là người nêu vấn đề, ông đã phát động phong trào đấu tranh với giới chủ (tuyệt thực…) khiến cai thầu phải nhượng bộ. Trong thời gian này, ông được nhà cách mạng Ngô Gia Tự giác ngộ thêm và kết nạp vào Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí hội. Đầu năm 1928, theo chỉ thị của Ngô Gia Tự, Nguyễn Xuân Cừ và Trần Tử Bình đi vào tổ chức quần chúng. Họ đã thiết lập Nghiệp đoàn Cao su Phú Riềng với thành viên là 1/3 tổng số những người lao động tại Phú Riềng.

Tháng 10/1929, chi bộ Cộng sản đầu tiên của Phú Riềng ra đời gồm 6 thành viên và ông chính thức trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương và là Bí thư chi bộ. Ngày 30/1/1930 (đúng mùng Một Tết Canh Ngọ), dưới sự lãnh đạo của Trần Tử Bình, 5000 công nhân đồn điền đã tiến hành biểu tình và bao vây khu nhà của chủ đồn điền buộc giới chủ phải thực hiện những quyền lợi thiết yếu cho người công nhân. Tiếp đó họ đã chiếm giữ khu trại cưa, tước vũ khí của viên giám thị và viên cai, chiếm nhà máy điện, nhà máy cưa, kho gạo…Phú Riềng đặt trong quyền kiểm soát của công nhân.

Sáng ngày 6 tháng 2, thực dân Pháp huy động xe bọc thép, hơn 300 lính lê dương, 500 lính khố đỏ, do đích thân Thống xứ Nam Kỳ Krauheime, cùng Công sứ Biên Hòa Marty, Phó công sứ Biên Hòa Vilmont và Chánh mật thám Đông Dương Arnoux chỉ huy đã tiến tới khu vực đồn điền Phú Riềng. Sau đó, tuy phong trào đấu tranh của công nhân Phú Riềng bị đàn áp xong giới chủ buộc phải nhượng bộ một số yêu cầu của công nhân. Trần Tử Bình cùng những người lãnh đạo phong trào Phú Riềng đỏ bị bắt. Ông bị kết án 10 năm tù và bị đày ra Côn Đảo. Tại Côn Đảo ông vẫn tiếp tục đấu tranh và học tập nâng cao lý luận cũng như kinh nghiệm hoạt động Cách mạng. Trong thời kì này ở ngoài Côn Đảo có rất nhiều những tù chính trị mà sau này trở thành những lãnh đạo chủ chốt của Việt Nam như Tôn Ðức Thắng, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng…

Vượt ngục Hỏa Lò

Do ảnh hưởng của Mặt trận bình dân, năm 1936, ông được trả về đất liền và bị quản thúc ở quê nhà huyện Bình Lục, Hà Nam. Ông tiếp tục bí mật hoạt động và giữ các chức vụ như Bí thư huyện Bình Lục, Bí thư Tỉnh ủy. Năm 1940, ông được bầu vào Xứ uỷ Bắc Kỳ và trực tiếp phụ trách Liên tỉnh C (Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình) rồi Liên tỉnh D (Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ, Tuyên Quang) vào năm 1941. Thời kì này ông lấy bí danh là Minh.

Tháng 4 năm 1943, do phản bội chỉ điểm, hai ông Hoàng Văn Thụ và Vũ Kỳ bị bắt. Rồi tiếp đến, tháng 9 năm 1943, ông Phan Trọng Tuệ bị bắt, Trần Tử Bình chạy thoát. Tháng 12/1943, ông bị bắt ở Thái Bình. Sau khi vượt ngục không thành tại Hà Nam, thực dân Pháp chuyển ông về giam tại Hỏa Lò, Hà Nội. Tại đây ông bị tra khảo bằng cực hình nhưng vẫn giữ khí phách của người Cách mạng khiến cho kẻ thù phải khiếp sợ thốt lên ‘’sợ cái gan cộng sản đó !’’.

Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, cùng với chi bộ nhà tù Hỏa Lò do ông Đỗ Mười lãnh đạo, Trần Tử Bình đã tổ chức thành công hai đợt vượt ngục tập thể cho gần 100 tù chính trị thông qua đường cống ngầm. Đây chính là nguồn lực quan trọng chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám. Sau đó theo phân công ông về tổ chức và xây dựng chiến khu Hòa – Ninh – Thanh.

Tham gia lãnh đạo Cách mạng tháng Tám

Thực hiện chỉ thị "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta", ngày 18/8/1945 ông Nguyễn Khang, Chủ tịch Uỷ ban Khởi nghĩa và Trần Tử Bình, thường vụ Xứ uỷ phụ trách Quân sự, đã quyết định khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội. Cuộc khởi nghĩa kịp thời đã làm thất bại âm mưu của Phát xít Nhật đưa tên Việt gian Nguyễn Xuân Chữ từ Sing-ga-po về thay Phan Kế Toại đã bỏ nhiệm sở từ hôm 17/8.

Ngày 19/8, khi lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện trước mặt tiền Nhà Hát Lớn, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng kéo đến Phủ Khâm sai (12 Ngô Quyền) và ngay khi cánh cổng lớn được mở ra, Trần Tử Bình đã xông lên, ra lệnh cho tự vệ bắt Nguyễn Xuân Chữ đưa về an toàn khu của Xứ ủy ở làng Vạn Phúc, Hà Đông. Sau đó hai ông Nguyễn Khang và Trần Tử Bình đã dùng tổng đài điện thoại trong Phủ Khâm sai ra lệnh cho chính quyền tay sai ở các tỉnh, huyện "Phải trao quyền ngay cho Việt Minh". Đêm 19 rạng sáng 20/9/1945, Xứ uỷ quyết định thành lập Chính quyền Uỷ ban Nhân dân Cách mạng Bắc Bộ và cử ông Nguyễn Khang làm Chủ tịch, đóng trụ sở ở Phủ Khâm sai (Bắc Bộ phủ). Trần Tử Bình tiếp tục hỗ trợ chỉ đạo các cuộc khởi nghĩa ở Hải Phòng, Hà Đông. Cuộc khởi nghĩa thành công ở Hà Nội đã nhanh chóng thúc đẩy các địa phương nổi dậy giành chính quyền và đưa Cách mạng tới thắng lợi trong cả nước…

Tướng quân Trần Tử Bình

Tháng 9 năm 1945, ông được giao nhiệm vụ Phó giám đốc, Chính trị uỷ viên Trường Quân chính Việt Nam (sau đổi tên là Trường Cán bộ Việt Nam). Tháng 5 năm 1946, ông nhận nhiệm vụ Phó giám đốc, Chính uỷ Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn. Năm 1947, ông được đề bạt làm Phó bí thư Quân uỷ Trung ương, Phó Tổng thanh tra Quân đội. Thu đông 1947, Trần Tử Bình chỉ huy mặt trận Đường số 2 – Sông Lô, đập tan một trong hai gọng kìm của quân Pháp tiến quân lên Việt Bắc hòng bắt giữ cơ quan đầu não kháng chiến.

Ngày 20/1/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 112/SL phong hàm Thiếu tướng cho đồng chí Trần Tử Bình; ông trở thành 1 trong số 11 vị tướng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.1950-1956, ông nhận nhiệm vụ Chính uỷ Trường Lục quân Việt Nam tại Trung Quốc.

Là Phó tổng Thanh tra quân đội ông tham gia giải quyết những vụ án lớn như vụ “gián điệp ảo” H122, vụ tham nhũng của đại tá Trần Dụ Châu, Tổng cục trưởng Tổng cục cung cấp… Tháng 2 năm 1951, ông được cử làm đại biểu quân đội dự Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam II tại Việt Bắc.

Thời gian 1956-1958, ông nhận nhiệm vụ Tổng thanh tra Quân đội, Phó tổng thanh tra Chính phủ, tham gia củng cố và trong sạch hoá chính quyền thời hậu chiến. Năm 1960, ông được bầu làm đại biểu quân đội dự Đại hội Đảng III, và được bầu vào Ban chấp hành Trung ương. Ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khoá II và khoá III.

Nhà ngoại giao Trần Tử Bình

Năm 1959, cách mạng nước ta đứng trước những thời cơ mới. Nhằm tranh thủ sự ủng hộ của các nước anh em, đặc biệt là Trung Quốc và Liên Xô, Thiếu tướng Trần Tử Bình được cử làm Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc, và tại Mông Cổ.

Vào những năm 1960, Đại sứ Trần Tử Bình đã góp phần tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các lãnh Trung Quốc với cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam. Thập niên 1960 quan hệ chính trị giữa Trung Quốc và Liên Xô, hai quốc gia bảo trợ cho Việt Nam trong cuộc nội chiến, trở nên rất căng thẳng. Lãnh đạo Trung Quốc đã có những thời điểm thể hiện sự không hài lòng về chính sách của Việt Nam đối với Liên Xô. Đoàn ngoại giao Việt Nam, đứng đầu là Đại sứ Trần Tử Bình, đã rất mềm dẻo và khôn ngoan giàn xếp ổn thoả những bất đồng và qua đó đã giúp cho Việt Nam tiếp tục nhận được sự ủng hộ to lớn từ Trung Quốc cũng như Liên Xô.

Trong một lần tháp tùng Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị thăm Trung Quốc, sau đàm phán, bạn đồng ý viện trợ một số lượng hàng hóa cho Việt Nam; trong đó có 2.000 xe vận tải ba cầu Giải Phóng. Phía Việt Nam đề nghị bạn viện trợ thêm phụ tùng thay thế, do điều kiện chiến tranh ác liệt, hệ thống đường giao thông xấu, thường xuyên bị bom mìn... Phía bạn trả lời: Hiện tại không thể sản xuất kịp số phụ tùng thay thế. Với uy tín và mối quan hệ tốt với các lãnh đạo Trung Quốc, Đại sứ Trần Tử Bình đã thay mặt đoàn vận động bạn và đề nghị: “Vậy các đồng chí viện trợ cho chúng tôi thêm 500 đến 1.000 xe nữa, nếu khó khăn thì có thể cấn trừ vào khoản khác. Khi cần chúng tôi có thể lấy phụ tùng của xe chưa sử dụng thay vào xe hỏng hóc”. Đề nghị này nhanh chóng được phía bạn chấp nhận.

Trong số 11 cán bộ được phong quân hàm cấp tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam (tháng 1/1948), Thiếu tướng Trần Tử Bình có một tiểu sử khá đặc biệt. Sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo theo đạo Thiên Chúa, từ con chiên được giác ngộ Cách mạng, từ một học sinh trường dòng tự giác tham gia và trưởng thành trong phong trào công nhân, ông trở thành một trong những đảng viên đầu tiên của Đông Dương Cộng sản Đảng (tháng 10/1929) tại Chi bộ Phú Riềng. Có lẽ trường hợp của Thiếu tướng Trần Tử Bình là trường hợp không phải nhiều đối với những người Công giáo.
« Sửa lần cuối: 02 Tháng Mười Hai, 2011, 08:12:32 am gửi bởi panphilov » Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #8 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2008, 02:55:41 am »


Thượng tướng Nguyễn Hữu An (10/1926 – 9/4/1995) Phó Giáo sư Quân sự, nguyên Viện trưởng Học viện Quân sự cấp cao, nguyên Phó Tổng thanh tra Quân đội, nguyên Tư lệnh Quân đoàn II.

Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương Quân công giải phóng hạng Ba, 2 Huân chương Chiến công hạng Nhất Nhì, Huân chương Chiến thắng hạng Nhì.

Thượng tá (1958), Đại tá (1966), Thiếu tướng (1974), Trung tướng (1980), Thượng tướng (1986)


‘’Đó là một vị tướng tài, một vị tướng trung thành, trung thực, trung kiên’’ (Đại tướng Chu Huy Mân)

‘’Vị tướng trận mạc’’ (Đại tướng Võ Nguyên Giáp)

“Bộ đội các ông thật tuyệt vời-một đối phương có sự chỉ huy tuyệt vời ở mọi cấp và có những người lính thiện chiến vì sự nghiệp, không bao giờ được đánh giá thấp...” (Tướng Mỹ Mo-rơ, nói về trận Iađrăng do tướng Nguyễn Hữu An trực tiếp chỉ huy)


Thượng tướng Nguyễn Hữu An sinh ra trong một gia đình dân nghèo yêu nước tại xã Trường Yên, huyện Gia Viễn (Hoa Lư), tỉnh Ninh Bình - đất kinh đô xưa của hai vị vua có công dẹp loạn cát cứ và chống giặc ngoại xâm (Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn). Tháng 8/1945, ông gia nhập quân đội.

Năm 1949, tại đèo Bông Lau và Lũng Phầy (là hai đèo nối tiếp nhau nối liền giữa hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn), ông đã chỉ huy đơn vị mình (thuộc Trung đoàn 174 do Đặng Văn Việt làm Trung đoàn trưởng) đánh nhiều trận gây nhiều thiệt hại cho quân đội Pháp. Năm 1950, trong chiến dịch Biên Giới, ông là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 251 chủ công của Trung đoàn 174 (Trung đoàn Cao Bắc Lạng) đột phá trên hướng chủ yếu tiêu diệt đồn Đông Khê (18/9/1950), mở đầu thắng lợi cho chiến dịch. Đây là trận đánh được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm và trực tiếp động viên bộ đội chuẩn bị và lên đài quan sát xem xét tình hình quân địch vì đây là trận đánh có ảnh hưởng tiên quyết đến chiến dịch Biên Giới do Đông Khê là một cứ điểm quan trọng nhưng địch lại tương đối yếu. Trong khi tại Biên Giới giặc Pháp phòng thủ trên một đường biên giới dài, với lực lượng hạn chế không cho phép bộ đội tấn công trên suốt một chiều dài như vậy. Mất Đông Khê tuyến phòng thủ của Pháp trên đường số 4 sẽ bị cắt đôi. Đây chính là nghệ thuật ‘’Đánh điểm để khống chế diện’’ và ‘’Đánh điểm diệt viện’’Chiến thắng Đông Khê buộc thực dân Pháp phải tung 2 binh đoàn cơ động chiến lược Sác Tông và Lơ Pa-dơ lên cứu viện và bị tiêu diệt. Chiến thắng Biên Giới đã ‘’mở toang’’ biên giới với Trung Quốc nối liền cách mạng Việt Nam với cách mạng trên thế giới.

Sau chiến dịch Biên Giới, ông lần lượt là tiểu đoàn trưởng, trung đoàn phó trong các trận chiến thắng ở Bình Liêu, Vĩnh Phúc, Mộc Châu... Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, trên cương vị Trung đoàn trưởng Trung đoàn chủ công (Trung đoàn 174) của sư đoàn 316, ông đã 3 lần chỉ huy đánh cứ điểm đồi A1. A1 là một cụm cứ điểm vào loại mạnh nhất ở hướng đông, “cánh cửa thép” của phân khu Trung tâm, nơi có sở chỉ huy Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. A1 đã từng được mệnh danh là “cái đinh” của chiến dịch, cho nên trận đánh gặp khó khăn ác liệt ngay từ đầu, Trung đoàn ông và Trung đoàn 102 (Trung đoàn Thủ Đô) đã phải thay nhau đánh, giữ liên tục, kéo dài suốt từ 30-3 đến 7-5. Cuối cùng đã mở được “cánh cửa thép” để lực lượng từ hướng đông tiến công vào phân khu Trung tâm cùng các hướng khác, bắt sống tướng chỉ huy Đờ Cát, giành toàn thắng cho chiến dịch, lúc đó Nguyễn Hữu An mới 28 tuổi.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ ông làm nhiệm vụ bảo vệ Tây Bắc. Năm 1962, ông lên đường giúp bạn Lào trong chiến dịch Mường Sinh, Luông Nậm Thà. Năm 1964 trên cương vị Sư đoàn trưởng, ông dẫn Sư đoàn 325 vào miền Nam chiến đấu. Vào đến Tây Nguyên, do khó khăn về bảo đảm hậu cần và tình hình thay đổi, sư đoàn 325 phân tán; hai trung đoàn xuống khu 5, chỉ còn Trung đoàn 101 ở lại mặt trận Tây Nguyên (mang mã hiệu chiến trường B3), ông làm Phó Tư lệnh B3. Ông đã trực tiếp chỉ đạo và chỉ huy Trung đoàn 101 diệt gọn tiểu đoàn biệt động “Cọp đen”, rồi lại đánh thiệt hại nặng trung đoàn 44 chủ lực quân lực Việt Nam Cộng hòa, diệt trung tá trung đoàn trưởng trung đoàn này.

Thời kì đó (1964 – 1965) ở chiến trường bắc Kon Tum rất cực khổ, bộ đội thường xuyên thiếu lương thực thực phẩm. Trong điều kiện như vậy, ông đã hạ quyết tâm đánh Tu Mơ Rông, một chi khu lớn của Kon Tum. Tướng Đoàn Khuê lúc đó là Chính ủy B3 lo rằng không đánh nổi, vì trung đoàn Ba Gia nổi tiếng, đã ở chiến trường lâu lúc đó còn chưa dám đánh công kiên một chi khu, Trung đoàn 101 mới vào chưa có kinh nghiệm nên cần phải suy nghĩ thật kỹ. Ông vẫn kiên trì giữ phương án đó và được Đảng ủy mặt trận B3 chấp thuận. Kết quả không những diệt được Tu Mơ Rông mà còn diệt luôn cả chi khu Đắc Tô, và chi khu Đắc Sút. Trong chiến tranh đặc biệt, cả Kon Tum có 5 chi khu và một tỉnh lỵ. Trong tay chỉ có một trung đoàn, đánh suốt năm 1965, quân số, đạn dược không có bổ sung, lương thực thì như vậy mà dám đánh và diệt được 3/5 chi khu của Kon Tum, đánh vỡ tan cả mảng bắc Tây Nguyên. Nếu Mỹ không vào thì Tây Nguyên vỡ rất nhanh.

Năm 1965, Thượng tá Nguyễn Hữu An là Tham mưu phó mặt trận B3 và tại đây, tháng 11 năm 1965, ông đã trực tiếp chỉ huy trận đánh nổi tiếng ở thung lũng Ia Đrăng trong chiến dịch Plây-me (chiến dịch đầu tiên mà Quân đội Nhân dân Việt Nam đụng độ với một số lượng lớn quân chủ lưc Mĩ đó là Lữ đoàn kỵ binh không vận số 3 có sự phối hợp của 1 trung đoàn Nam Triều Tiên, 1 chiến đoàn dù và 1 chiến đoàn thiết giáp Việt Nam Cộng Hòa), với cương vị Phó tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên, ông đã cùng Bộ tư lệnh bày mưu, tạo thế, kéo quân Mỹ đến thung lũng Ia-đrăng rồi vận động bao vây tiến công liên tục trong 10 tiếng đồng hồ, tiêu diệt gần hết tiểu đoàn 1 và 1 đại đội của tiểu đoàn 2..., trận đánh phủ đầu và chiến thắng lực lượng kỵ binh bay của Mỹ khi quân Mỹ vừa vào Việt Nam, một trận thắng mà chính các tướng lĩnh của Mỹ phải thừa nhận "Ia Đrăng - trận đánh đã làm thay đổi cuộc chiến tranh ở Việt Nam".

Mùa mưa năm 1966, ông lại trực tiếp đi chỉ đạo đánh lại ở chiến trường bắc Kon Tum. Kế hoạch là vây đồn Tu Mơ Rông (địch đã đóng lại khi Mỹ vào) để diệt viện và sẵn sàng đánh Mỹ vì có tin Lữ đoàn dù 173 Mỹ sẽ tham chiến. Vây đồn Tu Mơ Rông được mấy ngày thì trung đoàn 44 chủ lực Việt Nam Cộng Hòa lên viện, xong cứ thập thò không vào sâu trận địa phục kích, ý kiến của Thường vụ Đảng ủy tiền phương và cơ quan tham mưu là cứ kiên trì diệt một bộ phận trung đoàn 44 cho chắc ăn, rồi sẽ quay lại đối phó với Mỹ. Riêng ông, sau một đêm suy nghĩ, đã quyết tất cả lực lượng vây đồn và diệt viện đều rút về bố trí ở khu tập kết cách trận địa khá xa. Mọi người tin ông, chấp hành, song vẫn thắc mắc, nếu địch không vào thì sao, đánh hết gạo về tay trắng hay sao? Nhưng khi bộ đội vừa bố trí xong, thì Mỹ ào ạt đổ trực thăng xuống. Chúng chắc mẩm, chủ lực ta đang bị hút vào mục tiêu quân ngụy, ở đây toàn là lực lượng hậu cần, nếu bóc hết hậu cần thì quân ta hết gạo, đạn, không đánh cũng tan và sẽ quay lại diệt chủ lực ta sau. Như vậy khác với Ia-đrăng, chúng không đổ thẳng quân vào đội hình quân ta để tìm diệt ngay từ đầu. Nhưng chúng đã lầm, rơi vào ổ kiến lửa, bị tiêu diệt rất nặng, tình cảnh cũng như ở Ia-đrăng.

Năm 1971, ông là Tư lệnh Sư đoàn 308 tham gia chiến đấu và góp phần cùng các đơn vị khác trong chiến thắng ở mặt trận đường 9-Nam Lào. Sau chiến thắng, ông lại được Quân ủy Trung ương điều sang giúp Mặt trận Pa thét Lào chiến đấu lấy lại Cánh đồng Chum, đánh quân Thái Lan và quân phỉ Vàng Pao. Với cương vị Phó tư lệnh thay mặt Tư lệnh mặt trận, trực tiếp chuẩn bị quyết tâm chiến dịch. Ông đã dành hai chục ngày, xuống kiểm tra, giúp đỡ các đơn vị phía trước, nhất là các trận địa phòng ngự cấp trung đội, đại đội. Ông cũng phát hiện ra điểm yếu rất lớn của địch là vận tải, tiếp tế chỉ dựa vào máy bay, thế là ông dùng pháo khống chế sân bay Cánh Đồng Chum, cắt tiếp tế, đẩy địch vào chỗ đói, thiếu, phải chuyển sang phòng ngự. Theo sự chỉ dẫn của ông, bộ đội biết cách tổ chức, xây dựng trận địa, biết đánh bằng nhiều loại hỏa khí, ở nhiều cự li, bằng nhiều cách chuyển từ chỗ nhùng nhằng, bị động, đã giành lại quyền chủ động và đã đánh thắng.

Đến cuối tháng 6 năm 1972, Quân ủy Trung ương lại điều ông chỉ huy Sư đoàn 308 chiến đấu ở mặt trận Quảng Trị. Năm 1975, trên cương vị Thiếu tướng, Tư lệnh Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang), ông đã xuất sắc chỉ huy Quân đoàn của mình trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Trong chiến dịch Huế Đà Nẵng (từ 21/3 đến 29/3 năm 1975), Quân đoàn 2 do ông chỉ huy đã cùng với Quân khu Trị Thiên, Quân khu 5 băm nát đội hình Quân đoàn 1-Quân khu 1 Việt Nam Cộng Hòa, khiến gần 10 vạn quân Việt Nam Cộng Hòa phải tan tác tháo chạy, bỏ cả căn cứ liên hợp quân sự Đà Nẵng. Với khí thế tiến công thần tốc, Quân đoàn ông lại ập tới phá vỡ tuyến phòng thủ Phan Rang (16/4/1975), áp sát Xuân Lộc, thọc vào trung tâm Sài Gòn từ hướng Đông-Nam, chiếm và cắm cờ trên Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ nội các chính quyền Sài Gòn, buộc Tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện (30-4-1975).

Chiến tranh biên giới Tây Nam, ông lại chỉ huy Quân đoàn đi bảo vệ biên giới Tổ quốc, rồi cùng các đơn vị khác tiến vào sào huyệt của chế độ diệt chủng Pôn Pốt, giải phóng Cam-pu-chia, cứu nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi họa diệt chủng (7-1-1979)...

Đất nước và biên giới trở lại bình yên, ông rời quân đoàn, đi làm Phó tổng Thanh tra quân đội, Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng quân khu, rồi quyền tư lệnh Quân khu 2 (1984-1987). Từ năm 1988 đến cuối đời (1995), ông làm Viện trưởng Học viện Lục quân, rồi Học viện Cấp cao (sau là Học viện Quốc phòng).

Thượng tướng Nguyễn Hữu An là một vị tướng trận mạc. Ông tham gia trọn vẹn cả ba cuộc kháng chiến: chống Pháp, chống Mỹ và chống chế độ diệt chủng Pôn Pốt xâm lược, trải qua 50 năm làm “Lính Cụ Hồ” - vừa tròn nửa kỉ.Vào bộ đội, ông không được ưu ái gì đặc biệt, chiến đấu, công tác ở 26 đơn vị, qua các chức vụ từ trung đội phó đến quyền Tư lệnh Quân khu, Viện trưởng một học viện lớn nhất toàn quân, với cấp hàm Thượng tướng, Phó Giáo sư Khoa học Quân sự. Ông đã đánh hàng trăm trận và tham gia chỉ huy nhiều chiến dịch có ý nghĩa chiến lược quyết định chuyển giai đoạn cho cuộc kháng chiến của dân tộc.

Thượng tướng Nguyễn Hữu An là một người chỉ huy có tầm nhìn chiến lược, một vị chỉ huy quyết đoán và nhạy bén trong xử lý tình huống thực tiễn của chiến trường, lý luận của ông có sức thuyết phục cao. Ông là một người rất hiểu cán bộ cấp dưới của mình, chính ông cũng là người ‘’cứu’’ Anh hùng Lê Xuân Phôi khỏi ‘’án oan’’ Anh hùng cá nhân. Ông cũng là một vị chỉ huy gan dạ, thấy đúng là làm không hề quan tâm đến miệng lưỡi thiên hạ ‘’ Ai nói kệ họ, mình không nằm xuống vì có hai lý do: thứ nhất chúng mình đã thoát ly công sự, nó ném bom kiểu rải thảm, đứng hay nằm, bị trúng là chết thôi; thứ hai nghe tiếng đồn B52 rất ghê, nay bị đánh lần đầu, mà Tư lệnh đã rúc đầu xuống thì tiếng vang khắp mặt trận, anh em chả ai xông lên nữa đâu. Vì trách nhiệm chính trị mà mình đứng nhìn nó thôi, chứ ai mà chả muốn sống, tớ cũng vợ đẹp, con khôn như cậu”

Chiến tích là thế song ông vẫn sống giản dị, khiêm nhường, trọng tổ chức, trọng tình người, trọng con người và có kỷ luật. Đọc hồi ký của ông, có khá nhiều lần ông khen đồng đội: nào Lã Ngọc Châu là chính ủy trung đoàn giỏi, đã chỉ huy trung đoàn như một trung đoàn trưởng thực thụ..., nào Nguyễn Ngọc Thực là một chủ nhiệm hậu cần quân đoàn có tài năng và trách nhiệm..., nào các mũi tiến công của quân ta đã hiệp đồng tuyệt đẹp và ăn khớp... Rõ ràng với ông, vai trò quyết định tất cả là đơn vị, là “anh em”, là tập thể chỉ huy, trong đó có mình.


Tham khảo: Báo Quân đội Nhân dân.
« Sửa lần cuối: 02 Tháng Mười Hai, 2011, 09:07:31 pm gửi bởi panphilov » Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #9 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2008, 02:58:21 am »


Thượng tướng Vũ Lăng (sinh 4/8/1921 – mất 1988), Giáo sư Khoa học Quân sự, nguyên Viện trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Học viện Lục quân Đà Lạt, nguyên Tư lệnh Binh đoàn Tây Nguyên và Phó Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên, nguyên Cục trưởng Cục tác chiến Bộ tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Quân công 2 hạng Nhất 1 hạng Ba, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất Nhì Ba.

Thượng tá (1958), Đại tá (1966), Thiếu tướng (1974), Trung tướng (1980), Thượng tướng (1986)


Thượng tướng Vũ Lăng tên thật là Đỗ Đức Liêm, ông sinh ra tại xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì, ngoài thành Hà Nội trong một gia đình yêu nước, sớm giác ngộ Cách mạng. Năm 16 tuổi ông là thợ rồi sau đó là y tá tại Bệnh viện Phủ Lý tỉnh Hà Nam.

Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được cử đi học ở Trường Quân chính Việt Nam (khóa 5). Tháng 11 - 1945, theo lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông tham gia đoàn quân Nam tiến vào nam Trung Bộ chiến đấu, được cử làm chỉ đạo viên trung đội, sau đó là Phó ban huấn luyện khu 6, rồi Phó ủy viên quân sự Ninh Hòa. Tháng 6 - 1946, ông ra Bắc, được cử làm đội phó bảo vệ Bắc Bộ phủ (Hà Nội). Trên cương vị mới, ông luôn gương mẫu, lãnh đạo anh em, một lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ Hà Nội, ông đã có nhiều thành tích và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) tháng 2 -1947.

Sau cuộc rút lui an toàn không mất một người lính, một khẩu súng nào vào đêm 17 tháng 2 năm 1947 của trung đoàn Thủ đô ra vùng tự do, Vũ Lăng là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 54, trung đoàn Thủ đô (E102), đại đoàn 308. Ông đã chỉ huy tiểu đoàn trong trận hạ đồn Đại Bục, mở màn chiến dịch tấn công vào phòng tuyến sông Thao, đúng ngày sinh nhật của chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1949. Từ năm 1947 đến năm 1954, ông tham gia các chiến dịch Việt Bắc. Sông Thao, Biên Giới, Trung Du, Hoàng Hoa Thám, Hà Nam Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào. Từ năm 1953 ông là trung đoàn trưởng trung đoàn 98, đại đoàn 316, đồng thời là tham mưu trưởng Đại đoàn. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, trung đoàn 98 do Vũ Lăng chỉ huy, là một trong các Trung đoàn chủ lực, đã thắng trong trận đánh đồi C1 góp phần quan trọng vào chiến thắng của chiến dịch.

Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, đầu năm 1956 ông được lựa chọn cử đi học tập tại Học viện cao cấp Bộ Tổng tham mưu (Liên Xô) mang tên Vô-rô-xi-lốp. Ông đã cùng đồng đội hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập và trở về nước cuối năm 1959 và được cử làm Cục phó Cục nghiên cứu khoa học quân sự Bộ Tổng tham mưu.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trước muôn vàn khó khăn, thử thách, trên các cương vị công tác khác nhau, lúc ở cơ quan tham mưu chiến lược, khi ở các bộ tư lệnh chiến trường, ông luôn thể hiện là một cán bộ quân sự có năng lực tư duy sáng tạo, nhạy bén trong tổ chức chỉ huy và tính quyết đoán chịu trách nhiệm cao trước tập thể, lãnh đạo, chỉ huy cơ quan đơn vị. Trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (năm 1965-1967), được Bộ Quốc phòng điều động và làm Phó tư lệnh Quân khu 4. Đến nơi chiến trường đang diễn ra cuộc chiến tranh phá hoại rất ác liệt của đế quốc Mỹ, ông đã cùng với tập thể Bộ tư lệnh quân khu xây dựng phương án tác chiến, đẩy mạnh các hoạt động chiến đấu, đánh thắng máy bay và tàu chiến Mỹ. Bên cạnh đó, ông còn cùng Bộ Tư lệnh Quân khu 4 đào tạo được nhiều cán bộ chỉ huy bổ sung cho chiến trường miền Nam.

Thực hiện chủ trương về kiện toàn đội ngũ cán bộ chỉ huy cao cấp trong quân đội và chuẩn bị các phương án tác chiến với quân Mỹ, cuối năm 1967 ông chuyển về Bộ và được cử làm Cục phó rồi Cục trưởng Cục tác chiến. Trên cương vị công tác ở cơ quan tham mưu chiến lược, với tư duy khoa học, năng động, sáng tạo quyết đoán và dầy dặn kinh nghiệm, ông đã đầu tư trí tuệ và có những đóng góp to lớn trong quá trình xây dựng các phương án tác chiến, góp phần vào thắng lợi lớn của quân đội ta trên hai miền Nam Bắc.

Năm 1974, theo yêu cầu của chiến trường, Thiếu tướng Vũ Lăng được cử vào giữ chức Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên. Cùng với tập thể Đảng ủy Bộ Tư lệnh mặt trận, ông đã triệt để chấp hành sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy trung ương, phát huy tính sáng tạo của mình cùng lãnh đạo mặt trận đề xuất ý kiến với Bộ và tiến hành tốt nhất công tác chuẩn bị và chỉ huy trận mở màn then chốt quyết định Buôn Ma Thuột. Tháng 3 - 1975, ông là Phó tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên và Tư lệnh binh đoàn Tây Nguyên. Ở cương vị mới trên chiến trường ông luôn gương mẫu, chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, các chỉ thị mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, luôn đặt lợi ích của cách mạng lên trên, giữ vững tính nguyên tắc của Đảng, cùng tập thể đơn vị xây dựng phương án tác chiến tối ưu, chỉ huy bộ đội chiến đấu dũng cảm, lập nhiều chiến công xuất sắc. Tiếp đó, Bộ Tư lệnh binh đoàn Tây Nguyên chỉ huy binh đoàn tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu ngụy, góp phần quan trọng giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Bước vào thời kỳ cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, năm 1977, trên cương vị mới là Viện trưởng và Bí thư Đảng ủy Học viện Lục quân, ông đã cùng Đảng ủy và Ban Giám hiệu Học viện lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng học viện đi vào nền nếp và ngày càng vững mạnh về mọi mặt. Với kinh nghiệm về xây dựng quân đội đã tích lũy được trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông đã có nhiều đóng góp trong nghiên cứu đào tạo, bổ túc cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn và phát triển khoa học quân sự. Ông chỉ đạo biên soạn một hệ thống tài liệu với khối lượng lớn, đáp ứng kịp thời đầy đủ cho công tác huấn luyện của tám chuyên ngành binh chủng lục quân. Những tài liệu được Hội đồng khoa học Học viện thông qua có nhiều ý kiến đóng góp và kết luận rất sâu sắc của ông, góp phần rất quan trọng trong nghiên cứu, giảng dạy ở Học viện và cả các nhà trường Quân đội.

Trong suốt những năm công tác tại Học viện Lục quân, ông đã đem hết khả năng, trí tuệ của mình để cùng với Ban Giám đốc Học viện triển khai nghiên cứu thành công nhiều công trình, đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ Quốc phòng có tác dụng đối với việc xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Năm 1980, Thiếu tướng Vũ Lăng được thăng quân hàm Trung tướng, năm 1986, được thăng quân hàm Thượng tướng. Thượng tướng Vũ Lăng đã được Nhà nước phong học hàm Giáo sư khoa học quân sự đợt đầu tiên trong quân đội.

Ông là một trong những vị tướng nóng tính của Quân đội Nhân dân Việt Nam, chính vì vậy mà người ta thường gọi ông là tướng Hổ Lửa. Nóng tính nhưng ông lại rất biết chú ý lắng nghe ý kiến của người khác. Một người có tác phong xuề xòa với đồng cấp và cấp dưới đặc biệt là lính tráng. Thế nên mới có chuyện trong chiến dịch Điện Biên Phủ ông bị Đại tướng Võ Nguyên Giáp ‘’đuổi’’ ra khỏi cuộc họp các Trung đoàn trưởng và Sư đoàn trưởng để ‘’chỉnh đốn tác phong’’ hay có chuyện ‘’lính 2 râu (lính thuộc Trung đoàn 66) sờ râu tư lệnh’’ khi ông được điều vào làm Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên.

Ông là một vị tướng có học vấn cao, kiến thức rộng rất yêu văn nghệ và có năng khiếu làm thơ. Trong lần nhận lệnh vào Chiến trường Tây Nguyên đánh Mỹ ông làm bài thơ ‘’Ta lại ra đi’’ nói về vị tướng đã 50 tuổi vẫn hăng hái lên đường ra trận. “Vào nơi lửa cháy bốn bề. Miền Nam lại gọi ta về, bạn ơi!”. Xem ra, thơ ông còn đầy sức trẻ và khoáng đạt lắm:

“Tám chục tuổi vẫn còn lên ngựa
Múa gươm xung trận giữa ba quân
Tướng quân Thường Kiệt tên lừng lẫy
Giặc kia nghe thấy chạy thục thân.

Ta năm nay mới năm mươi lẻ
Tóc dẫu pha sương lòng còn trẻ
Miền Nam tiếng súng còn chưa ngớt
Luống thẹn mình nghe chuyện người xưa.

Ba lô, gậy cũ lên đường
Vai khoác ba lô lòng trẻ lại
Đầu xanh, đầu bạc kề vai bước
Lại thấy trong ta tuổi đôi mươi”.

Thư của ông những năm tháng ở chiến trường gửi cho bà Hoàng Việt Hoa vợ ông có thể xếp đầy một hòm. Một phần trong số này đã được giới thiệu đăng trong tập ‘’Thơ tình từ chiến hào’’.

Dáng người tầm thước, da trắng và bộ râu quai nón, tướng Vũ Lăng là một trong những tướng ‘’tốt râu’’. Ông là nguyên mẫu của nhân vật Văn Việt trong tác phẩm ‘’Sống mãi với Thủ đô’’ của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Là một chỉ huy tài tình xong ông còn là một người lĩnh dũng cảm. Trong trận chiến đấu ở đồi C1 tại Điện Biên Phủ năm 1954, khi ông chỉ huy Trung đoàn từ chiến hào xông lên đánh giáp lá cà với quân Pháp. Tiếng thét xung phong của ông khiến cho viên chỉ huy Pháp khựng lại, tạo điều kiện cho quân ta xông lên tiêu diệt địch. Thượng tướng Vũ Lăng và Thượng tướng Nguyễn Hữu An là một cặp bài trùng từ những trận đánh ở Điện Biên Phủ cho đến những trận đánh ở Chiến trường Tây Nguyên rồi Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.[/i]

Tham khảo: Báo Quân đội Nhân dân, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam
« Sửa lần cuối: 02 Tháng Mười Hai, 2011, 09:08:28 pm gửi bởi panphilov » Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM