Như vậy là tên lửa Kh-25 có 3 loại ; phân biệt dựa theo đầu dẫn đường
Kh-25ML:bằng laze
Kh-25MR: bằng sóng vô tuyến (radio)
Kh-25MP:bằng radar thụ động
Như thế có thể tên hậu tố của nó là Mô-đun + loại đầu dẫn
(ML=mô-đun Laze;MR=Mô-đun Radio;MP=Mô-đun thụ động)
Mời các bác vào mổ đầu tự dẫn thụ động sử dụng bước sóng hồng ngoại.Thực ra ; nó là 1 phần của
bài Hermes ở trên em đã post ; nhưng xét thấy phạm vi của nó là khá rộng ; hơn nữa là có tin nhà ta thử làm Igla gặp khó khăn ở bộ phận đầu dò .Mà nghe đâu tiền bỏ vào cũng không nhỏ
Nguồn:
http://ttvnol.com/forum/gdqp/1237812/trang-54.ttvn#16507327
Đầu tự dẫn
Hiện nay trên thế giới đánh giá rất cao đầu tự dẫn thụ động sử dụng bước sóng hồng ngoại sử dụng để dẫn bắn cho vũ khí có điều khiển
Đầu tự dẫn thụ động dùng bước sóng hồng ngoại có khả năng dò tìm ; nhận dạng ; bám bắt mục tiêu dựa theo các bức xạ hồng ngoại mà mục tiêu phát ra ; cho phép phóng tên lửa theo nguyên lý “bắn-quên”.Nguyên lý này làm tăng đáng kể khả năng sống sót của vũ khí do khả năng bắn từ các vị trí khuất và có thể cơ động chuyển vị trí ngay sau khi bắn.
Sơ đồ ma trận của con quay hồi chuyển hiệu chỉnh (Схема размещения матрицы на корректируемом гироскопе)
1-Thấu kính 2-Ma trận (матрица)-
ở đây em hiểu là ma trận các cảm biến hồng ngoại 3-Bộ chuyển mạch điện tử (электронный коммутатор) 4-Bộ chuyển tín hiệu tương tự-số (аналого-цифровой преобразователь АЦП) 5-Bộ chuyển hệ tọa độ cực sang hệ tọa độ Đề-các (преобразователь координат элементов матрицы из полярной в декартову систему координат) 6-Bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên (оперативное запоминающее устройство (ОЗУ)) 7-thiết bị dò tìm mục tiêu 8-Máy khuếch đại (усилитель) 9 và 16- cảm biến mômen kênh tốc độ và góc(атчики моментов каналов курса и тангажа соответственно) 10- con quay hồi chuyển hiệu chỉnh (корректируемый гироскоп) 11-Thiết bị chuyển mạch của phần tử ma trận(переключатель элементов матрицы) 12-Cảm biến góc xoay tên lửa 13-Thân tên lửa (корпус ракеты) 14-Rô-to quay con quay hồi chuyển(вращающийся ротор гироскопа) 15- khung trong treo con quay hồi chuyển (внутренняя рамка карданного подвеса) 16-Thiết bị điều khiển tên lửa(аппаратура управления ракетой.)
! chút về hoạt động ; bài bác vitính
http://www.quansuvn.net/index.php/topic,16418.msg232707.html#msg232707Tại sao gọi là hệ thống lái kiểu "con vịt"?
Quan sát con vịt bơi dưới nước. Khi đầu nó quay về hướng nào thì hướng bơi của nó là theo hướng đó. Có nghĩa là đầu hướng đi đâu thì quỹ đạo chuyển động hướng theo đó.
Kiểu lái này trước hết là các tên lửa đối không bám theo nguồn hồng ngoại. Trong đầu hồng ngoại của K-13 đối không (hoặc đầu tự dẫn theo chỉ điểm laser của bom) có một sensor quay quanh trục. Nó đã được "lập trình" sao cho 4 mảnh của sensor trong một vòng quay luôn nhận năng lượng bức xạ hồng ngoại như nhau. Để được thế nó luôn hướng theo nguồn hồng ngoại di chuyển. Chính sự "hướng theo" này tạo ra chênh lệch điều khiển khiến các cánh lái ở phía đầu đưa trục tên lửa trùng với vuông góc mặt phẳng sensor, tức là bám đúng hướng cường độ bức xạ thu được là max.
Nếu sai đừng chấp Bài bác than-dau-tuat bên ttvnol
Để có thể phân biệt được ống xả động cơ và thân máy bay, người ta sử dụng phương pháp khác, đó là phân tích dải tần hồng ngoại. Mỗi điểm có tỷ lệ năng lượng trong các bước sóng khác nhau. Điểm nào mà phân phối năng lượng gần về vùng đỏ nhìn thấy thì có nhiệt độ cao. Đó là phương pháp đo nhiệt độ qua bức xạ hồng ngoại, Nhưng khác với máy đo trong lò nung(chỉ có một điểm ảnh) đầu dò phải có rất nhiều điểm ảnh, đầu dò hiện đại của tên lửa có trên 20 triệu máy đo nhiệt độ như vậy. Tạo thành một "ảnh mầu" hồng ngoại. Ảnh mầu ở đây là cách nói dễ hiểu ảnh 4 chiều: x,y như thường, z không phải là tầm xa mà là tần số trung bình, t là cường độ. Với nhiệt độ khoảng vài chục và 100 độ, đó là vỏ máy bay, nhiệt độ khoảng 400-600 độ, đó là ống xả. Nếu nhiệt độ 1000 độ trở lên tránh xa, đó có thể là mồi hèn hay Thượng Đế cao quý. Như đọan trên đã nói, chế tạo phim cho đầu dò hồng ngoại có phân tích dải tần (đo nhiệt độ ) gặp rất nhiều khó khăn. Người ta sử dụng điện trở nhiệt rất nhỏ, phải rất nhỏ, cỡ Micron thì mới phản ứng cỡ phần nghìn giây với hồng ngoại, để đủ sức chụp ảnh vài trăm hay vài chục lần một giây. Mỗi điện trở như vậy, cần nhiều linh kiện để điều khiển nó. Một khó khăn nữa là, bản thân các điện trở này đang được đầu dò truyền nhiệt, chúng nóng lên. Nếu chỉ cần phát hiện hồng ngoại thì chỉ cần đo chênh lệch nhiệt độ các điện trở này. Nhưng cần phân tích dải tần (đo nhiệt độ), nên lại phải chế tạo cho mỗi điện trở này một máy làm lạnh. Dầu dò được làm lạnh đến vài chục độ C âm, rồi cắt làm lạnh, bức xạ thu được làm chúng nóng lên, tốc độ nóng lên của chúng được đo, hết chu trình đo, chúng lại được làm lạnh, thời gian một chu trình rất ngắn, nên nhiệt độ không truyền kịp từ các thành phần khác của đầu dò sang điểm đo, nên đo chính xác nhiệt độ mục tiêu. May thay, có một cơ chế giúp chế tạo những tủ lạnh siêu nhỏ, đó là tiếp giáp. Điện tử đi từ chất rắn dẫn điện có mức năng lượng điện tử tự do cao, sang chất có mức đó thấp, sẽ xả ra chút năng lượng khi đi qua mặt tiếp giáp, làm mặt này nóng lên. Nếu dòng điện tử ngược lại, thì mặt tiếp giáp lạnh đi. Và thế là nhiệt độ được điện tử tải từ mặt tiếp giáp này sang mặt tiếp giáp kia trong dòng điện đóng kín. Như vậy, cần hàng chục triệu căn phòng quan sát có điều hòa (riêng rẽ) cho một đầu dò, mới đảm bảo đo nhiệt độ điểm ảnh. Có thể sử dụng phương pháp làm lạnh đồng đều (tòan bộ phim một lúc), nhưng hiệu quả rất thấp, chỉ dễ chế tạo thôi. Một phương pháp vật lý mới đang được thử nghiệm làm phim hồng ngoại có lọc mầu, đó là phim phân cực, nó hấp thụ những photon thích hợp với lớp tiếp giáp. Nhưng đến nay, phim dùng làm lạnh điện vấn là phim hồng ngoại nhậy nhất.
Nhưng để dừng lại như thế (thông tin về cường độ và nhiệt độ cho mõi điểm ảnh), đầu dò chưa phân biệt được bột quả bom, thùng dầu phụ và thân máy bay. Nó không phân biệt được một hòn bi đặt trước đầu dò vài phân hay một máy bay ném bom ở xa chục cây số. Đây lại là nhiệm vụ của khâu sử lý, dữ liệu từ phim được chuyển đến phần phân tích. Với data-link, đầu dò biết được khoảng cách đến mục tiêu qua thiết bị khác, như bệ phóng hay máy bay mẹ.
Như vậy:dùng phương pháp đo nhiệt độ điểm ảnh để phân biệt đuôi động cơ và thân máy bay. Đặc điểm của phương pháp này là:
1: khó làm phim nhất trong các máy ảnh hồng ngoại
2: cung cấp nhiều dữ liệu cho khâu sử lý, bao gồm dữ liệu về ảnh hai chiều và nhiệt độ phát xạ, cường độ phát xạ. Mở ra khả năng nhận dạng hình học trong khâu sử lý.
3: phân biệt được mồi giả, mặt trời, đuôi động cơ và thân máy bay.
Việc phân biệt đuôi và thân máy bay với SAM sử dụng trên xe hay AAM tầm xa (SAM: tên lửa đất đối không, AAM: tên lửa không đối không), có kích thước lớn, mang đầu đạn lớn không quan trọng lắm. Nhưng với tên lửa vác vai hay đầu đạn AAM tầm ngắn thì khác, chúng phải đổi việc sử dụng đầu đạn nhỏ bằng việc dùng đầu dò lớn, chính xác. Nếu không, tên lửa chỉ gây một vài lỗ thủng nhỏ. Nếu có thêm thông tin qua data-link, thì phân biệt được loại mục tiêu. và tên lửa sẽ bỏ qua bom hay thùng dầu phụ, vượt qua ống xả tấn công thân máy bay. OK, ngon, chưa. Nó còn còn có thể nhận dạng hình học và tấn công thẳng vào buồng lái,nhưng điều này còn đang thử nghiệm.
Có bác nào backup được bài bên 5nam của ttvnol cho em xin ạ