Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 05:21:54 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Phan Đình Phùng  (Đọc 40500 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #50 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2010, 06:58:24 pm »


MỘT THẦY ĐỒ GÀN TỰ XƯNG LÀ VUA

Hồi bấy giờ trong núi Đại Hàm, có một nhân vật rất là kỳ quái, tuy không có quan hệ vào trong chính truyện này cho lắm, song tiếc vì là một người có gan, có tài, học rất hay chữ, nên chi luôn dịp tôi muốn ghi chép ra đây.

Nhân vật kỳ quái ấy là Bạch Xỉ.

Bạch Xỉ, tên thiệt là Đoàn Đức Mậu, tương truyền là người tỉnh Quảng Bình, qua ở Hà Tĩnh từ bao giờ không biết. Ông ta tự hiệu là Bạch Xỉ, cũng có ngụ ý. Có người nói hồi đó cha mẹ sinh ra ở chùa Bạch Xỉ, cho nên lấy tên chùa mà đặt tên con. Nhưng có người nói chủ ý Đoàn Đức Mậu muốn lấy câu sấm của ông Trạng Trình: “Bạch Xỉ sinh, thiên hạ bình” (Bao giờ răng trắng mới nên đời) mà tự hiệu mình, là có ý tự cao đó.

Nguyên trước, Bạch Xỉ cũng là người trong nghĩa đảng Văn thân, hồi năm Ất Dậu (1885) cũng khởi binh cần vương. Tiểu sử ông có nhiều truyện vui lắm, vì ông vốn là người học giỏi lại có tà thuật, cho nên quân lính của ông chỉ lấy quạt và gậy làm khí giới nói rằng lấy quạt để quạt cho quân địch mê man đi đã, rồi lấy gậy mà đập chết. Thế mà người ta quy phục cũng đông, đến nỗi hạng người bấy giờ như ông Phan Trọng Mưu, ông Phan Huy Nhuận mà cũng tin phục.

Sau khi vua Hàm Nghi bị bắt, ông cho là vận số đến lúc xoay đổi, mệnh trời sẽ phú thác vào tay ông từ đây nên ông tự xưng đại là Hoàng đế, kỷ nguyên là Văn Lượng. Phàm là giấy tờ trát sức chi gửi cho dân quanh ở miền Đại Hàm đều lấy niên hiệu Văn Lượng; nhưng viết thư riêng cho ai, thì chỉ ký tên Nhiễu Long tiều tử.

Bạch Xỉ đi đâu cũng đem 28 người thủ hạ đi theo, cho là nhị thập bát tú theo hộ vệ Tử vi tinh. Đến năm Giáp Ngọ (1894), ông có lập ra một hội kỳ quái tên là Nhân Thập Hội, chiết lấy trong chữ “Ngọ”, cho rằng đến năm đó là tới vận số thiên tử của mình rồi. Một hôm, ông đem 28 tên quân cầm gậy và quạt xuống núi, toan đi đánh đồn Phố. Một lũ 29 người cứ cầm quạt phe phẩy như thế, mà lính trong đồn không dám ló ra, cũng không bắn; thế rồi cả bọn kéo về sơn trại bình an. Nhiều người thấy chuyện trước mắt như thế tin chắc Bạch Xỉ có tà thuật giỏi thiệt, không vậy sao vỏn vẹn 29 thầy trò mà dám kéo xuống lăm le xâm phạm một đồn lính Pháp.

Bạch Xỉ có tài xuất khẩu thành văn. Tương truyền có hôm đi bói thầy Dư, là một thầy ở làng Dương Phổ (cùng thuộc hạt Hương Khê) có tiếng là bói giỏi lắm, nói trăm điều không sai một điều nào. Thầy Dư nói rằng: ngài năm nay 30 tuổi nên lấy vợ mới tốt, Bạch Xỉ ứng khẩu đọc thành bài thi 4 câu như vầy:

Nằm chẳng ngủ, ăn chẳng ngon,
Khăng khắng đêm ngày dạ sắt son.
Đã nghĩ một mình nên lấy vợ,
Những thương muôn họ hết là con.


Đại khái Bạch Xỉ có tài lanh như thế, mà câu nào cũng khéo gò cho có khẩu khí hoàng đế ít nhiều, thành ra nhiều người càng tin, càng phục. Thầy trò Bạch Xỉ nhất là riêng một mình Bạch Xỉ, chỉ ở quanh quẩn trong mấy khóm núi Vụ Quang và Đại Hàm với cụ Phan, nhưng không ai có thể biết đích là ông ta đóng ở chỗ nào. Người ta nói ông có thuật tàng hình. Mãi đến năm Bính Thân (1896), một bữa ông xuống núi, vô nhà dân làng, khi ông nổi cơn sốt rét li bì, có kẻ biết là Bạch xỉ, liền đi báo quan lính sở tại về nắm cổ được Văn Lượng hoàng đế, giải về giam trong đề lao tỉnh Nghệ. Được ít lâu, “Hoàng đế thăng hà” trong ngục. Thế là rồi đời một người điên cuồng.

Bình sinh Bạch Xỉ đối với cụ Phan tôn phục có tôn phục, nhưng chỉ coi là bậc em mình, chứ theo cụ thì không muốn theo. Nói cho rõ hơn: dầu ai khuyên nhủ nên đồng tâm hiệp lực với cụ Phan mà làm việc lớn, Bạch Xỉ cũng không nghe.

Người ta còn nhớ ngày tháng chạp năm Quý Tỵ (1892) Bạch Xỉ có sai người đem tặng cụ Phan hai cái ngáng bằng ngà, để làm ngáng võng. Luôn dịp có viết mấy câu như sau này:

Của gọi là,
Đôi ngàng ngà.
Năm hết tết đến gửi làm quà.
Mừng em sức khỏe,
Lo việc nước nhà.


Ngoài ra còn một bài thơ chữ như vậy đưa tặng cụ:

Bật thị hoang giao độn đắc phi.
Ân cần cố quốc động thu tư.
Tế dân cơ khát tri kim dị,
Tu kỷ tha ma thức tạc phi.
Hạ đạo phục hưng thần Mỹ tướng,
Hàn cừu vị báo Tử Phòng sư
Đối thiên tâm sự bằng tương chiếu,
Bạch bạch minh minh giữ cổ kỳ.


Dịch nôm:

Dám đâu lẩn lút chốn hoàng thôn,
Lo nước năm canh dạ héo don.
Vất vả dân này sao cứu vớt,
Ngẫm suy mình trước khéo bôn chôn.
Mỹ phò Hạ chúa nên cơ nghiệp,
Trương giúp Cao hoàng mở nước non.
Tâm sự hai ta trời cũng thấu,
Ngàn xưa chiếu rọi tấm lòng son.


Còn bài thơ chữ dưới đây nữa cũng hay, người ta truyền tụng là của Bạch Xỉ gửi tặng cụ Phan hồi cụ mới khởi nghĩa.

Hứa quốc đan tâm bất kế niên,
Ngưỡng kỳ thấu đáo cửu trung thiên.
Văn sơn chính khí thiên thu tại,
Vũ mục tinh trung vạn cổ truyền.
Lân bút tôn Chu hoài Tứ thủy,
Long đao sát tặc thệ đào viên.
Tướng quân nghĩa liệt văn hoàn vũ,
Nguyện hướng viên môn tác chấp chiên.


Dịch nôm:

Bao lâu việc nước nặng lo lường,
Nhờ lượng tâu lên đấng thánh vương.
Chánh khí Văn sơn bia vẫn tạc,
Tinh trung Võ mục sử treo gương.
Há quên bút hổng tôn vương thất,
Thề múa đao Quan giữa chiến trường.
Nghĩa liệt Tướng quân vang bốn cõi,
Xin theo bên ngựa đỡ dây cương.


Xem như thế thì Bạch Xỉ là người học giỏi thiệt, chỉ tiếc không theo đường chính, lại đi lấy tà thuật làm mê hoặc lòng người mà tự kiêu vô dụng. Toan chống cự với quân lính Pháp mà dùng khí giới là quạt thần gậy phép, bộ muốn pha trò hay sao không biết. Vì thế cụ Phan ghét lắm. Đáng lẽ cụ cũng không chấp trách làm gì, song chỉ lo ngại tà thuyết của y làm loạn nghĩa binh và mê hoặc nhân tâm đi, đến đỗi trong hàng tướng sĩ của cụ xem ra có ít nhiều người cũng hâm mộ Bạch Xỉ, nên cụ muốn bắt Bạch Xỉ mà giết.

Cụ sai quân dò thám được đồn của y cũng ở trong núi Đại Hàm để vô bắt sống, nhưng lạ thay! Lúc nghĩa quân đến nơi thì chỉ thấy năm bảy cái nhà mới cất mà bỏ không, chứ không có người. Té ra Bạch Xỉ hay trước mà trốn rồi. Giữa nhà lớn thấy treo một tấm bảng sơn son chữ vàng:

Xẻ giữa rừng xanh nổi nóc nhà,
Mà cho bốn biển ngưỡng trông ta,
Khoan thai rủ áo ngồi vui vẻ,
Nào khác đền Nghiêu những mấy tòa.


Hai bên lại có treo đôi câu đối:

Vận hội nửa ngàn may gặp đó,
Công danh bốn biển kém ai đâu.


Rõ là Bạch Xỉ dùng toàn khẩu khí vua như kiểu Thánh Tông nhà Lê. Người ta nói Bạch Xỉ giỏi cả nghề độn lục nhâm, cho nên đã biết trước rằng cụ Phan muốn hại mình mà trốn đi. Sau có mấy lần cụ Phan định bắt nữa, như y cũng trốn được cả. Cụ bận lo việc lớn, nên rồi bỏ qua. Tới sau hết thời Bạch Xỉ bị dân làng báo lính về bắt rồi bị giam chết ở Nghệ như trên kia đã nói.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #51 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2010, 06:59:16 pm »


* * *

Cụ Phan vẫn đóng ở núi Đại Hàm tiếp tục cách mệnh kháng chiến. Bấy giờ Chính phủ Bảo hộ thấy quan binh và lính tập đánh dẹp mãi không được, tổn phí mất nhiều, bèn thương thuyết với triều đình Huế (lúc ấy là đời vua Thành Thái năm thứ 7) sai Tổng đốc Bình Định là ông Nguyễn Thân làm Khâm sai Tiết chế quân vụ, đem quận ra tuần tiễu. Thế là sau ông Hoàng Cao Khải là người cùng làng, hạ bút viết thư dụ dỗ cụ ra hàng không được, bây giờ đến ông Nguyễn Thân là người cùng nước, đem quân ra đánh cụ vậy.

Chắc hẳn độc giả đều muốn biết ông Nguyễn Thân là người thế nào?

Nguyễn Thân cũng như Hoàng Cao Khải, đều là hai vị quan lớn do thời thế dựng nên.

Ông nguyên là chưn Ấm sanh, người tỉnh Quảng Ngãi, con ông Nguyễn Tấn, ngày nước có công dẹp giặc Mọi ở tỉnh ấy. Giặc Mọi đã tôn ông Nguyễn Tấn là thần tướng, vì ông dùng kế mà chúng phải phục. Ông đem bỏ đường phèn lẫn vào đá cuội ở dưới giọt mái tranh, rồi sai bắt mấy tên Mọi vào, giả đò chiêu dụ; trong khi đó, ông sai lính ra lấy mấy cục đá cuội cho ông ăn. Lính chọn lấy những cục nào là cục đường phèn đem lên, nhưng mấy quân Mọi ngu, tưởng là quan lớn ăn đá cuội thật, đều cho ngài là thiên thần, rồi về bảo nhau hàng phục cả. Đời ông còn, quân Mọi không dám làm phản Triều đình nữa. Nhưng sau ông chết, thì chúng nó lại làm phản. Triều đình sai quân đi đánh dẹp mãi không yên. Sau phải sai Nguyễn Thân đi. Giặc Mọi thấy là con của ông thần tướng ngày trước phải tan chạy cả. Nguyễn Thân có tiếng từ đó.

Ông sinh vào giữa hồi nhà nước lắm nạn, nên khi đầu, đối với thời thế, ông cũng xem bằng con mắt bi quan và có lòng phẫn khích lắm. Song vì tấm lòng lập công danh nặng hơn lòng yêu nước, cho nên sau ông đổi ý kiến ngay, đem thời thế lợi dụng vào cho mình. Cũng không nhớ là vào năm nào, mà cũng không biết hồi đó ông làm chức gì, chỉ biết là giữa hồi nước ta và nước Pháp đang giao binh, Triều đình ta thua, phải ký hòa ước với nước Pháp, thì có một bọn lính ở tỉnh Bình Định nổi lên phản đối, nói Triều đình hòa với người Pháp mặc lòng, chứ họ không chịu; họ làm như tỉnh Bình Định tuyên bố độc lập vậy. Vốn trước, ông Nguyễn Thân cũng đã có ý đó, nghĩa là ông muốn chiếm lấy tỉnh Bình Định để phản đối với người Pháp, nhưng chỉ vì chậm một bước mà người ta làm mất rồi, ông nghĩ nếu bây giờ mình cũng làm thì chẳng qua sau bước người ta. Ông không thích. Ông muốn làm một việc gì mà người ta chưa làm kia, bèn xoay về phía bên người Pháp, xin đem binh đi đánh dẹp bọn kia. Ông dẹp được, nhân thế người Pháp rất trọng ông, cho nên chẳng bao lâu đã làm Tổng đốc Bình Định, chính là hồi ông phụng mệnh đem quân ra tuần tiễu cụ Phan.

Về sau ông làm đến phụ chánh, hiển hách ở trong triều, được phong Quận công trước khi về hưu trí.

Ông là người hung ác và hiểm độc lắm, hay giết người. Trong lúc ông còn dùng binh, giết người ta không biết bao nhiêu mà kể. Sau về hưu trí ở làng Thu Xà bị bệnh điên cuồng mà chết. Người ta nói là bị những oan quỷ báo oán, cho nên khi đang bị bệnh, hễ chớp mắt đi lúc nào, là thấy một lũ oan quỷ đầu tóc rũ rượi, máu me đầy người, hiện lên để đòi mạng. Mỗi lúc thấy như thế, thì ông hét lên, hình như lấy làm sợ hãi hối hận lắm. Tòa nhà lộng lẫy của ông lập ngay trên một trái núi con ở Thu Xà, đàng sau là chợ và bên sông, đàng trước trông ra biển, có cái cảnh tượng bày tỏ ra là một người hùng vũ. Người ta đồn cái nhà ấy nhiều ma, cho nên khi ông chết đi rồi thì nhà bỏ hoang không có ai ở; bên cạnh có một cảnh chùa của ông lập ra, hình như muốn siêu sinh tịnh độ cho những người đã bị ông giết oan thì phải. Người viết cuốn sách này đã có dịp đến Thu Xà xem dinh thự của ông ngày trước, nhưng tuyệt nhiên không có một cái cảm giác gì cả.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #52 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2010, 07:00:04 pm »


* * *

Vậy ngày tháng năm, năm Ất Mùi (1895), ông Nguyễn Thân đem 3.000 lính, có ông Tấn sĩ Tạ Tương và mấy ông cử Nguyễn Đĩnh, Nguyễn Gia Thoại, Lê Tựu Khiết, sung làm Tán tướng quân vụ từ kinh thành kéo ra.

Quân thú ở Quảng Bình được tin ấy, phi báo về núi Đại Hàm, các tướng đều xin đón đường đánh úp, nhưng cụ Phan không cho, và truyền phải án binh để từ đồ một kế hoạch đối phó khác, vì cụ sợ quyết liệt quá thì khổ lây đến dân, mà giữa lúc đó, cụ lại đang yếu.

Quân ông Nguyễn Thân kéo thẳng đến hạt Việt Yên (thuộc huyện La Sơn) hiệp với quân Pháp đóng ở đồn Linh Cảm. Ông cũng nghe tiếng thầy Dư ở làng Dương Phổ bói giỏi, liền cho đòi đến dinh để bói xem việc hành quân có lợi không. Thầy Dư gieo quẻ rồi nói rằng: “Đại quân bất tất phải đánh, cứ đến tháng 11 là kéo về”. Ông Nguyễn Thân tin theo. Vả chăng ông cũng dư biết rằng: tuy thế lực cụ Phan lúc này suy kém mặc lòng, nhưng đường trường mà đánh nhau, thì vị tất đã có lợi. Vì một đàng ở trong rừng núi thăm thẳm, một đàng ở ngoài đồng rộng, thì đánh nhau khó bề chẳng hại. Vì thế, ông không muốn dùng cách đánh mà chỉ đóng binh ở đồn Linh Cảm, tính đánh không dùng đến võ lực. Ông biết rằng quân của cụ Phan phải cần có lương thực, mà lương thực ấy là ở dân gian cấp cho, nay nếu làm sao đoạn tuyệt con đường ấy của nghĩa binh đi thì tự nhiên không đánh cũng tan, không tan cũng chết. Ông bèn chia binh ra đóng rải rác ở hai hạt Nghệ Tĩnh, lại xin thêm 2.000 lính nữa, phân đồn đóng ở khắp các chỗ nào quan yếu, hễ ai giúp ngầm nghĩa quân cụ Phan, hay ai bị tình nghi như thế, là bắt chém ngay. Lớp ấy, nhiều người bị chết oan, khiến cho dân gian đều khiếp sợ. Nhân đó mà việc lương thực là huyết mạch của nghĩa quân, từ đây có bề nguy hiểm.

Ôi! Ta đã biết rằng cụ Phan làm việc cách mệnh là nhờ có lòng người giúp đỡ: giúp cho lương thực, giúp cho khí giới, giúp cho con em để sai hiến, giúp cho sự mật báo các tin tức v.v... Lòng người chính là một khí giới rất mạnh của cụ để chống với Pháp, cho nên cụ vẫn từng nói mình không nỡ bỏ, là vì lòng người vẫn tin theo nhiều quá. Nay Nguyễn Thân ra, dùng cái thủ đoạn tuyệt lương thật ác độc, khiến cho lòng người tuy vẫn kính mộ nghĩa quân và sẵn lòng giúp đỡ mặt lòng nhưng cũng chỉ chịu cay đắng trong lòng thôi, không dám công nhiên giúp đỡ như trước nữa.

Trong khi ấy, quân Pháp biết nội tình của nghĩa quân đã bị rung động lắm rồi, cho nên càng sai quân đi tuần tiễu riết lắm. Nguyễn Thân tiếng rằng đem quân ra đánh, nhưng chỉ nhằm một chỗ và làm oai giết được một mớ người dân quê thôi.

Nghĩa quân, trong đã không có nội trợ, ngoài lại chẳng có viện binh, làm gì mà chẳng khốn?


* * *

Đoạn này cốt nói về Nguyễn Thân, là người quan hệ lúc tàn cuộc của phong trào Văn thân Phan Đình Phùng. Vậy trước khi kết thúc, tôi muốn hiến độc giả xem một bức thư chính ông ta viết để tự kể công lao mình đánh dẹp Văn thân, phò tá Bảo hộ những gì.

Ấy là một bức thư dài, Nguyễn Thân viết đưa cho ông Toàn quyền Paul Doumer hồi năm 1902 (năm Thành Thái thứ 18), lúc ông này đã mãn hạn làm thủ hiến Đông Dương, trở về Pháp quốc.

Trước hết, Nguyễn Thân ngỏ lời cảm tạ Toàn quyền Paul Doumer và nước Pháp đã ban cho mình những cái vinh dự tuyệt phẩm rồi thì tự kể công lao như vầy:

Trong lúc ở kinh thành có cuộc biến động (1885) và lúc Tôn Thất Thuyết đem vua Hàm Nghi xuất bôn để xúi giục nhân dân nổi lên chống với nước Pháp, toàn cõi Trung Kỳ xôn xao rối loạn. Bọn Văn thân hiệu triệu dân chúng, đồng thời nổi lên phản kháng, một mặt tàn sát dân đạo, một mặt chống cự người Pháp.

Giữa lúc bấy giờ, kế vị của thân phụ tôi qua đời, tôi đang làm chức tiễu phủ sứ các miền sơn cước ba tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam và Bình Định. Tuy có chỉ dụ ở kinh thành triệu về, nhưng tôi chỉ lo việc giữ yên các miền thuộc quyền tiễu phủ của tôi để chờ thời cơ.

Hai tên tước giặc Văn thân là Cử Định và Tú Tâm lúc ấy chiếm cứ tỉnh thành Quảng Ngãi, đồ đảng đông lắm. Tôi đem hai ngàn quân lính ở miền trên kéo xuống đánh giặc Văn thân ấy. Tôi thâu phục tỉnh thành, bắt được 14 tên tướng giặc, sai chém đầu tại đó để cho dư đảng Văn thân thấy mà phải sợ. Tỉnh Quảng Ngãi dẹp yên rồi, tôi vâng mạng của đức Đồng Khánh, đem bổn bộ binh mã kéo vô Bình Định đánh dẹp đám dân khởi loạn ở trong tỉnh này. Tôi tiễu trừ được loạn đảng, khôi phục được trật tự và sắp đặt lại công việc cai trị các phủ huyện. Còn tên tướng giặc sau chót là Mai Xuân Thưởng chạy về miền An Khê, thì tôi đang sai quân lính đuổi theo đánh riết.

Cũng trong lúc đó, ông Đốc phủ Lộc đem toán quân lính ông ở Nam kỳ ra tiễu trừ bọn Văn thân do Mai xuân.Thưởng làm đầu. Lúc ấy tôi phụng mạng đức Hoàng đế sai tôi đem quân trở ra Quảng Nam đánh đám giặc Văn thân, cầm đầu là tên tướng giặc nổi tiếng, Hường Hiệu, chống cự với nhà nước Bảo hộ bấy lâu, đến đỗi quan binh Pháp phải lập ra tới 36 đồn lính ở trong miền đó đặng tuần tiễu mà vẫn dây dưa không yên. Tôi dẫn binh ra, sai người tâm phúc đi do thám, khám phá được chỗ ẩn núp của tên tướng giặc ấy tại miệt An Tâm; rồi 5 tên phó tướng của giặc bị bắt trong tay tôi, còn bao nhiêu dư đảng xin ra đầu hàng tôi hết, Hường Hiệu trốn thoát, chạy vô núi Ngũ Hành, sau tôi cũng bắt sống được, bỏ vô trong cũi mà giải về Huế.

Thưởng đền tấm lòng tận trung của tôi đối với công việc nước Pháp, Chánh chủ Cộng hòa lúc bấy giờ ban tặng Bắc đẩu bội tinh ngũ hạng cho tôi. Cách đó ít lâu, tỉnh Bình Định lại có loạn dấy lên nữa; nhà nước sai đi tuần tiễu phủ lần thứ nhì, tôi dẹp được giặc thành công, quan Toàn quyền Picquet và quan Khâm sứ Hector tự xin Chánh phủ Cộng hoa ban thưởng cho tôi Bắc đẩu bội tinh tứ hạng.

Rồi trở về chức vị cũ ở miền thượng du Quảng Ngãi, tôi vẫn làm Tiễu phủ sứ các miền sơn cước như trước.

Ít tháng về sau, tôi được chỉ triệu về Huế, lãnh chức Binh Bộ thượng thư. Quan Toàn quyền De Lanessaan thương thuyết với trào đình khâm phái tôi vô làm Tổng thống tỉnh Bình Định, là tỉnh rộng lớn mênh mông, tôi giải quyết được nhiều vấn đề quan hệ đã bỏ dở dang bao nhiêu năm rồi. Rồi đó tôi được phong chức Khâm sai đại thần đem quân ra đánh dẹp Văn thân Nghệ Tĩnh. Vì có quan Toàn quyền Rousseau và quan Khâm sứ Brière nói với triều đình, nên chi tôi được lãnh cái trọng trách ấy.

Sở dĩ tôi phụng mạng đem quân ra Nghệ Tĩnh đã 10 năm, mặc dầu nhà nước đã ra sức đánh dẹp mãi mà không được.

Thân dẫn một đạo quân 1.400 người, tôi đuổi đánh tên tướng giặc ấy hết núi này đến núi kia rồi tôi vây bọc được là nhờ có những đồn lính phòng trấn lập ra lải rải khắp các ngả đường giao thông.

Thế cùng lực kiệt, lại bị thương tích trong trận đại chiến, Phan Đình Phùng phải uống thuốc độc tự tử. Bao nhiêu bộ tướng của ông đều bị bắt hết, mấy ngàn quân giặc ra hàng. Thế là mấy tỉnh ở miền bắc xứ Trung kỳ yên hẳn giặc giã từ đó.

Nhân tôi có công lao như thế Chánh phủ Cộng hòa thưởng cho tôi Bắc đẩu bội tinh tam hạng và đức Hoàng đế mời tôi về Kinh làm Phụ chính đại thần vân, vân...

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #53 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2010, 07:00:58 pm »


Phần XVII
ANH HÙNG MẠT LỘ


Thuở xưa, thuở mà trong việc dùng binh chiến đấu gọi là khí giới chỉ có gươm giáo cung tên, gọi là giao phong chỉ cần tướng đấu võ với tướng: một người anh hùng tụ tập được năm ba ngàn kiện nhi dõng võ trong tay, có thể chiếm giữ một nơi núi rừng hiểm trở mà xưng bá xưng hùng và cầm cự với kẻ nghịch mình lâu dài được. Có khi cày cấy trồng tỉa được ngay trong thung lũng núi non thuộc về phạm vi của mình mà tự sinh tồn cung cấp đầy đủ về việc lương thực, dầu không vận chuyển lương ở ngoài vô được cũng không lo. Kẻ nghịch không có thế chi cách xa một hai chục dặm vòng ngoài mà dễ cắt đứt mạch sống và xâm phạm tới sào huyệt của mình ở trong đặng.

Cái thế lực dây dưa lừng lẫy của đám anh hùng Lương Sơn Bạc chỉ cốt có bấy nhiêu đó thôi. Vậy mà ngày qua tháng lụn, kiệt sức mòn hơi, họ cũng phải nghiêng ngã tan tành thay!

Đến cái đời chiến pháp binh khí Tây phương bắt buộc khắp cả thiên hạ phải thay đổi, phải làm theo, để hoặc tự cường lấy mình hoặc chống cự với họ, thì việc chiến đấu dụng binh đâu có phải sơ sài chật hẹp như xưa được nữa. Gọi là địa lợi cần phải rộng rãi, thuận tiện cho cả mọi sự chiến thủ tới lui, chứ quanh quẩn một khu núi rừng có hiểm trở mấy cũng không đủ dựa làm thế mạnh, làm gốc bền. Vả lại súng đạn người ta, có thứ ở ngoài mấy chục dặm có thể bắn phá tới sào huyệt mình tan tành như chơi, đến núi còn bể hai, rừng cũng cháy rụi. Nhất là đường giao thông thủy lục phải có, cuộc vận tải lương thực phải dễ, nó chính là lỗ thở, là mạch sống của mình, nếu bị người ta chận nghẹt thì tất phải chết. Không chết ngã ngửa tức thời, cũng phải chết lần mòn hoi hóp.

Cụ Phan Đình Phùng dùng binh đối địch với Pháp sự thế cực chẳng đã bao nhiêu lâu phải nhốt mình vào trong những khuôn khổ chiến đấu ngày xưa rồi, bây giờ lại bị lâm vào chỗ hiểm nghèo kiêng kỵ của binh pháp kim thời như vậy đó.

Tới đây, chúng ta càng phải nên nhớ lại mà thán phục ông thượng tướng quân Cao Thắng là người có đởm lược, có cao kiến.

Độc giả đã biết ông ta chết giữa chiến trường chính là lúc có hoài bão lớn lao, muốn tấn công chiếm thủ cả ba tỉnh Nghệ, Tĩnh, Bình để làm căn cứ nếu không thì bên đối địch (theo ông đã đoán trước) sẽ dùng cách vây bọc cho mình đến tan ổ và tuyệt lương mà chết.

Thì sự tiên liệu của Cao Thắng bây giờ xuất hiện thật rồi.

Bởi vậy, dầu ai tin hay không tin cũng mặc: “tính việc ở người, nên việc ở trời” (mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên) chính là một chân lý nhất định xưa nay. Lại cũng chứng tỏ ra cái thuyết “tri dị hành nan” (biết dễ, làm khó) của cổ nhân là đúng. Một việc Cao Thắng tính làm và biết làm là hay, nhưng mà có làm được đâu; vẫn biết nhân lực thiếu kém một phần, còn một phần hình như cũng có thiện ý, có vận số cản trở thế nào xui khiến ra sự bất thành như thế.

Lúc này cụ Phan bị vây bọc đến đỗi bôn ba cực khổ chừng nào, chắc lại chạnh nhớ Cao Thắng mà cảm thương thân thế chừng ấy. Lại càng cảm thương thân thế chừng nào, càng biết rõ chủ quyền quốc gia không sao lấy sức người thiếu thốn đủ cách mà hòng xoay đổi trở lại được nữa. Nhưng cụ đã hứa tính mệnh với quốc gia rồi, vậy thì trong khi tính mệnh còn lây lất ngày nào, dầu phải nếm mật nằm gai, tắm sương gội gió đến thế mấy đi nữa, cũng vẫn cam tâm.

Than ôi! Một người có chí khí anh hùng, đến bỏ quê hương nhà cửa, bỏ hương hỏa tổ tiên, bỏ cả thân danh tính mệnh mình, chỉ vì nhà nước, vì anh em, đem thân ra lo toan một việc; hiểm trở khó khăn, trăm cay ngàn đắng, chắc hẳn trong trí não cũng quả quyết trông mong việc ấy cho thành, khỏi phụ cái chí khí hùng tráng của mình và khỏi phụ lòng kỳ vọng của người đồng loại. Thế mà sắt son tấc dạ, lao khổ mười năm, tâm huyết mất không, thời vận chẳng có, đến lúc nhịn đói, nhịn khát, chạy ngược, chạy xuôi, gặp toàn những cảnh vạn tử nhất sinh; đường cùng nước bí, cái bước “anh hùng mạt lộ” chứa không biết bao nhiêu nông nỗi đáng cảm, đáng thương, đáng sầu, đáng tiếc, đáng thở dài một hơi cho mạnh, đáng hét lên một tiếng cho to!

Hồi này, chính là hồi cụ Phan gập ghềnh điên đảo trên những bước “anh hùng mạt lộ” đây! Bước này của cụ, khổ hơn Sở Bá vương mà chỉ thiếu có Ngu Cơ, sướng hơn Văn Tín quốc là không đến đỗi bị bắt.

* * *
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #54 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2010, 07:01:38 pm »


TƯỚNG SĨ ĐỀU TUỐT GƯƠM RA
XIN ĐÁNH MÀ CHẾT

Nghĩa quân có những cơ điên nguy thất bại phát ra từ giữa năm Ngọ (1894), vì quân lính Pháp mấy phía đã khởi thế công kích bao vây càng ngày càng chặt, sự thật không phải từ lúc có Nguyễn Thân kéo binh rần rộ ở Huế ra thì nghĩa quân mới lâm vào đường cùng cảnh khốn.

Ta nên nhớ Nguyễn Thân ở Kinh phụng mạng xuất sư, ra đến Hà Tĩnh, nhằm tháng 5 năm Mùi (1895), chính là hồi cụ Phan và tướng sĩ đang lao đao, nguy khốn sẵn rồi, mà Nguyễn Thân định kế chặt gãy vây cánh và làm tuyệt quân lương, là làm cho Phan thêm lao đao nguy khốn đó thôi. Khác nào một cây đã bị gió bão làm bưng gốc lên sẵn rồi, đến Nguyễn Thân chỉ có công xô thêm cho ngã xuống thì có, chứ lão không có công lao chiến trận gì, và cũng không phải nhờ có tài sức của lão thì họ Phan mới bại, nghĩa quân mới tan, theo như ý lão kể công với Toàn quyền Doumer ở trong bức thư độc giả vừa đọc trên kia. Sự thật, công lao chiến trận là công lao của anh em lính tập và mấy viên quan binh Pháp. Lúc sau Cao Thắng tử trận mà nội tình nghĩa binh cụ Phan suy kém lần hồi, nhưng quân lính nhà nước ra sức truy tầm chinh phạt cũng gắt, mà nghĩa binh vẫn rán đương đầu kháng cự được hoài, thành ra Bảo hộ tưởng nghĩa binh còn có thực lực vững bền mạnh mẽ lắm, mới phái Nguyễn Thân đem đại binh ra góp sức tiễu trừ cho mau. Nếu không có nguyễn Thân, chắc hẳn trong mấy tháng nữa nghĩa binh cũng phải đến lúc tàn cuộc tự nhiên.

Cũng có lẽ việc phái Nguyễn Thân ra đánh là một việc quyết thắng về mặt tâm lý. Vì Nguyễn Thân chẳng phải giao phong xuất trận gì, chỉ dùng mưu kế chặt vây cánh và tuyệt lương thực, chính là một trận đánh bằng tâm lý, nó thần hiệu hơn là đánh bằng binh lực. Huống chi là có trận binh lực trợ chiến với trận tâm lý nữa. Nếu như chỉ có bấy nhiêu cũng đủ kể là đại công, thì người ta cũng nên nhìn nhận cho Nguyễn Thân có công đó.

Quả thật, từ giữa năm Mùi trở đi, có thế trận tâm lý của Nguyễn Thân bày ra rồi, cụ Phan càng thêm lưu lạc khổ sở nhiều lắm, không như trước đó, nghĩa binh tiếng bị suy vi nguy khốn mặc lòng, nhưng vẫn nhờ được cái sức ngầm của dân nuôi lương giúp sức cho mà cầm cự với quân lính Bảo hộ một cách gắng gượng hăng hái.

Chúng ta thử xem một chuyện sau đây thì biết.

Cũng không nhớ rõ được ngày nào, chỉ biết là hồi ấy nhằm cuối năm Ngọ, quân lính Bảo hộ biết cụ Phan đóng trên núi Đại Hàm mà thủ hạ chẳng có bao nhiêu, nhắm chừng có thể tấn lên đánh phá được, bèn phân binh ra hai đội kéo tới Đại Hàm khiêu chiến.

Núi Đại Hàm thuộc về địa phận làng Tình Diệm, có một quân thứ theo cách cụ Phan bố trí ngày trước, gọi là Diệm Thứ, do ông Cao Đạn làm chủ tướng.

Lúc hay tin quân lính Bảo hộ sắp kéo tới đánh, cụ Phan tính kế lui binh trước để tránh đi thì hơn. Nhưng hai ông Cao Đạn và Nguyễn Mục hợp lại cản ngăn và xin quyết kế đối địch.

Phan làm thinh cúi mặt ngó xuống họa đồ. Ta nên biết lúc bấy giờ Phan dụng binh có họa đồ những hình thế sông núi đường sá hắn hoi, đó cũng là một sự nghiệp của Cao Thắng để lại nữa. Cao Đạn và Nguyễn Mục đứng chờ hơi lâu, không nghe trả lời, tưởng cụ không chịu cho đánh, liền rút gươm ra đồng thanh hô lớn:

- Xin nguyên soái chặt đầu hai anh em chúng tôi đi đã rồi sẽ lui binh.

Cụ Phan ngước mắt lên, trả lời một cách ung dung:

-  Lấy thế gì mà đánh với người ta bây giờ?

- Bẩm lấy thế núi.

Cao Đạn và Nguyễn Mục cùng thưa như vậy rồi tỏ bày sự thế lợi hại rõ thêm:

- “Chắc hẳn quân Pháp biết ít nhiều là nội tình ta giờ suy yếu, nhất là họ thám được binh lực ở đại đồn ta hiện nay chẳng có bao nhiêu, cho nên muốn thừa cơ đánh vào lên một trận, để đạp nghĩa binh té rụi xuống cho rồi đó. Nguyên soái rủi ro bề nào, tự nhiên toàn cuộc phải nghiêm đổ tan tành tức thời. Họ không đem sức lớn áp đánh mấy quân thứ kia, mà áp đánh trái núi này chủ ý và sở vọng của họ ra sao, không nói cũng biết. Cụ có lòng nhân, không muốn làm quá nhọc sức tướng sĩ lấy ít cự nhiều, mà định kế lui binh để tránh sức lớn kia ào ào đè tới; lấy lực mà bàn, lui binh là sự phải đã đành, nhưng lấy thế mà nói, thì quân ta chẳng phải không có thế chống cự lại được ít nhiều, là vì quân ta chiếm được địa lợi của thế núi.

“Núi này vốn có hình thế quanh co, hiểm trở, quân Pháp có kéo tới bao nhiêu đi nữa, chắc cũng chỉ vây bọc ở dưới mà thôi, quyết họ không dám mạo hiểm lên trên, họ chưa thuộc rõ đường đất tự nhiên sợ gặp mai phục thì nguy. Vả chăng, trong quân ta hiện nay còn 400 người, kể số thì ít thiệt nhưng đều là hạng tráng đinh dõng sĩ, ăn không ngồi nhàn cũng buồn, chỉ cầu có giặc tới mà đánh, có chết cũng mát ruột. Cho tới súng đạn tích trữ của ta cũng có thể đủ sức cầm cự nhau trong một đôi tháng; như thế thì sợ chi mà vội lui, không đánh lại. Không đánh lại bây giờ, tất nhiên người ta cho mình đây là khiếp nhược, rồi càng ngày đem quân xua đuổi dồn ép ta mãi. Vậy thì, bẩm cụ xét lại, ngày nay ta cứ quyết đánh nhau với họ một chuyến, chừng đến nước cùng đường túng thế lắm, bấy giờ ta sẽ lui cũng không muộn gì. Phía sau ta vẫn có sẵn đường lui kia mà!”

Cụ Phan trầm ngâm một lát, rồi kiếm lời an ủi ngợi khen hai ông Cao Đạn, Nguyễn Mục làm tướng cầm quân, mỗi khi gặp giặc quyết đánh như thế là anh hùng, là trượng phu lắm. Nhưng nay ta ở trước một cảnh như cờ bí nước, lấy ít cự nhiều, lấy yếu chống mạnh, biết rằng lòng quân ta có muốn đánh hay không? Vì, do nơi một tấc niềm nhân hậu, cụ suy nghĩ những người theo liền bên tả hữu mình bấy lâu toàn là hạng người nghĩa sĩ bỏ cả nhà cửa, vợ con, quê hương, cha mẹ, dấn mình vì việc quốc gia, vì tình thầy trò, đã mười năm nay, biết bao chiến trận công lao, mà cụ chưa làm nên một việc gì để thỏa lòng đền công họ được. Gần đây họ lại vì cụ mà chịu thêm nhiều nỗi ấm lạnh gian nan, ăn ở cực khổ, ngày nay quá đòi hỏi sức họ mà dùng, thì người nhân nghĩa không nỡ.

Hai ông Cao Đạn, Nguyễn Mục vâng lệnh rồi ra lấy ống loa kêu gọi quân sĩ tụ lại mà nói:

- Nay Pháp đem đại binh tới vây đánh sơn trại ta. Sự thế anh em ta chỉ có một đánh và một chạy, Nguyên soái muốn hỏi ý của anh em ưng đàng nào?

- Ưng đánh! Ưng đánh! Nam quốc vạn tuế.

Quân sĩ không hẹn ước nhau mà đồng thời tay múa miệng la như thế. Nhiều người tung cả gươm và súng lên trên không rồi bắt lại tung lên, tỏ ý vui mừng hớn hở. Cao Đạn và Nguyễn Mục thấy lòng quân hăng hái, bèn vô bẩm lại cụ Phan để quyết định dự bị nghênh địch.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #55 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2010, 07:02:08 pm »


ĐẤT BÙN LÀ VẬT ĐỠ ĐẠN CỦA TA

Tức thời Cao Đạn, Nguyễn Mục đi xem xét những địa thế nào có thể lập trận phục binh.

Lại sai quân lính đi chặt cây tre về chẻ ra đan những giỏ lớn thật nhiều. Quân lính vâng theo tướng lệnh bảo sao làm vậy, không hiểu dụng ý ra sao.

Công cuộc nghênh chiến sắp đặt có hơn nửa ngày là xong.

Lúc bấy giờ trên sơn trại chỉ có 400 quân, còn khí giới tân thời chỉ có 200 khẩu súng kiểu Pháp và một ít đạn được, ngoài ra, khí giới toàn thì súng trường kiểu Ta và những đại đao đoản kiếm. Hai ông Cao Đạn, Nguyễn Mục sắp đặt như vầy: 200 tay súng để làm quân chiến, 200 tay đao thì làm quân phục. Các ngả lên núi, chỗ nào xung yếu thì phục binh chỗ đó, hễ thấy quân địch thò đầu lên thì xông ra mà chặt, không kể sống thác. Nhất định ban ngày mới ứng chiến, còn ban đêm thì đặt nghi binh. Nghĩa là ban đêm, chính nơi đại binh tối tăm mù mịt, không thắp đèn đuốc gì hết: còn chỗ khác thì giả thắp đèn lửa lập lòe, khiến cho quân lính Bảo hộ tưởng là đồn trại nghĩa binh ở đó, tất nhiên phải nhắm ngay chỗ có ánh đèn mà bắn.

Nhưng còn lo chống giữ lâu ngày, mình hết thuốc đạn thì làm thế nào?

Hai ông bèn nghĩ đến kế vừa đỡ đạn, vừa lấy đạn.

Lấy đạn của ai?

Thì lấy ngay của quân lính Bảo hộ.

Hai ông sai chặt tre đan giỏ thật nhiều, chính là dụng ý đó. Phàm là đạn súng bắn ra - đạn súng nhỏ hay súng đại bác cũng vậy - hễ đụng nhằm vật gì cứng mạnh dội lại thì nó dữ. Nhưng trái lại, nếu đụng nhằm mấy vật mềm nhẹ, nhất là bông gòn ướt át và đất bùn, làm nó mất nổ. Hồi Văn thân Thanh Hóa chống cự với Bảo hộ tại Ba Đình, đóng ở một làng giữa cánh đồng chiêm xung quanh có nước mênh mông, mà cầm cự được cả tháng, quân lính nhà nước ở ngoài bắn vô như mưa, nhưng phần nhiều không nghe đạn nổ, là bởi Văn thân khéo dùng những giỏ tre đựng bùn, đắp lên thành lũy, cản trở hiệu lực của đạn phải kém bớt đi. Bây giờ, Cao Đạn và Nguyễn Mục cũng dùng mưu kế ấy để đỡ đạn của súng thường, còn đề phòng cả đạn của súng đại bác, thì mắc lưới vòng từ cây nọ qua cây kia.

Mọi việc dự bị xong xuôi, chỉ đợi quân lính Bảo hộ tới là đối chiến.

Quả nhiên, quân lính Bảo hộ đến nơi, chỉ ở dưới chĩa súng bắn lên chứ không dám mạo hiểm lên núi, bởi thấy thế núi nghiêng dốc, cây cối rậm rạp quá, sợ lên thế nào cũng bị phục binh thì nguy. Nghĩa binh có cái địa lợi là ở trên có chỗ ẩn núp trong những kẹt đá bóng cây, dòm xuống thấy rõ quân lính Bảo hộ, mà quân lính Bảo hộ dòm lên thì không thấy gì khác hơn là cây cối um tùm và khói đạn mù mịt mà thôi. Thành ra quân trên bắn xuống thường trúng hơn là quân dưới bắn lên.

Huống chi đạn của quân dưới bắn lên phần nhiều trúng vô những giỏ đựng bùn kia, không nổ. Nghĩa quân lấy những vỏ đạn ấy, nhồi vào thuốc mình bắn trả lại quân dưới.

Tối lại thì nghĩa quân chỉ ăn cơm và dưỡng sức, không đánh. Ở dưới, quân lính Bảo hộ ngó lên thấy chỗ nào có bóng đèn đuốc lập lòe thì cứ chĩa súng nhắm lên đó mà bắn. Té ra mấy chỗ có lập lòe đèn đuốc, chỉ là chỗ đặt nghi binh mà thôi,chẳng có người nào hết.

Hai bên chống giữ nhau đến nửa tháng như thế, trên không dám xuống đã đành, mà dưới cũng không dám leo lên. Chỉ nghe tiếng súng nổ hết ngày này qua ngày kia, luôn đêm này qua đêm khác, hình như một trận mưa sấm sét, vang động cả một vùng núi non. Ai cũng tưởng chắc là nghĩa binh đã cháy ra tro hết rồi, nhưng kỳ thật chưa có một ai tử trận hay là bị trọng thương gì cả.

Quân lính Bảo hộ nghĩ mình bắn phá dữ dội tới hai tuần như thế mà nghĩa binh không núng, không lui, bèn xe súng đại bác lại, định phá tan đốt cháy cả núi Đại Hàm, tất nhiên nghĩa quân phải chết rụi hết, hay là không còn cây cối rậm rạp mà ẩn núp thì sao cũng phải đầu hàng. Nhưng đạn đại bác bắn lên phần nhiều rắc vào lưới võng của nghĩa quân đã dăng tứ tung, thành ra không có mãnh lực như người ta đã tính.

Mấy ngày về sau, tuy là nghĩa binh còn đạn cũng nhiều, nhưng mà chỉ bắn một cách dè dặt, không dám bắn phóng túng như trước nữa. Mỗi ngày giao chiến, cụ Phan đều ra tận chỗ mạo hiểm để chỉ bảo khuyến khích tướng sĩ, nhờ vậy nên lòng quân càng phấn chấn bội phần. Muốn lập kế dụ quân lính Bảo hộ lên núi để cho phục binh làm thịt, cụ Phan sai mấy tên quân lanh lẹ, lén theo đường tắt xuống núi, giả làm dân quê đi cày, tới trước quân lính Bảo hộ nói mình biết đường lên núi, xin làm hướng đạo hầu được lãnh thưởng lập công. Hai viên quản cơ tưởng thiệt đã toan dẫn một toán lính tập đi liều, nhưng viên thiếu úy cầm quân, cản lại không cho, vì sợ mắc kế mai phục.

Bấy giờ, quân lính Bảo hộ phân ra làm hai, một nửa vẫn ở mặt tiền, một nửa đạp gai lội suối, bọc ra mặt hậu để đánh phía sau lưng nghĩa binh, khiến cho trước sau đều thọ địch, thế nào mà chẳng tan vỡ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #56 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2010, 07:03:33 pm »


Phần XVIII
THIẾU CHÚT NỮA CỤ PHAN BỊ BẮT SỐNG


Quân lính Bảo hộ giàn trận ở mặt trước núi Đại Hàm mà đánh ròng rã hai tuần, thiệt thòi nhân mạng và đạn dược nhiều rồi, nghĩa binh ở trên núi vẫn cố sức cầm cự dằng dai, không hề nao núng.

Nghĩa binh can đảm đã đành, nhưng cũng may là đời bấy giờ chưa phải là đời có xe tăng, có máy bay, có độc khí; nếu trái lại, thì nghĩa binh nhà mình cầm cự không được nửa tiếng đồng hồ và mấy quả núi Đại Hàm cũng chẻ hai ra rồi. Bởi vậy, người lấy gan mình, sức mình ra chọi nhau, vẫn có giá trị hơn là mượn máy chọi người; chính là ông thánh Gandhi ở Ấn Độ nói thế.

Nhất là nghĩa binh ở trên núi chỉ có 400 thầy trò với 200 khẩu súng, mà ở dưới núi vừa lính tập, lính tuần và tráng đinh mấy làng phụ cận phải ra phục dịch quan quân cả thảy có tới ngàn người; một đàng lấy bóng cây kẹt đá làm mạnh; một đàng lấy người đông, súng tốt làm mạnh, kể ra nghĩa binh cầm cự dây dưa được gần nửa tháng cũng là lâu lắm rồi.

Trong một cuộc đối chiến bất đồng về số người và sức mạnh như thế, bề nào bên ít, bên yếu cũng phải thua là lẽ tự nhiên.

Toán viện binh 150 lính ở Nghệ kéo đến tiếp chiến, làm cho nghĩa binh thêm mau bại tẩu hơn nữa. Bây giờ, quân lính Bảo hộ phân ra hai ngả mà đánh: một nửa cứ ở trước mặt núi tràn áp, một nửa kia thì chen gai lách đá, luồn ra phía sau núi, để xuất kỳ bất ý, đánh úp lên sào huyệt nghĩa binh. Trong trí nhà cầm quân dùng tới chiến lược này, nhất định bắt sống Phan Đình Phùng và trói thúc nghĩa quân hết thảy.

Nhưng trời còn bắt phải gian nan hơn nhiều nữa, chứ chưa để cho họ Phan và mấy trăm tráng sĩ phải cùng đường ngửa cổ tại đây.

Luôn mười mấy ngày làm phận sự, chủ tướng phải trông nom việc quân giữa lúc chiến đấu, lại còn một nỗi ăn ở cực khổ châm thêm vào, chẳng cần phải tả, ai cũng đoán biết cụ Phan nhọc mệt dữ lắm.

Chiều tối bữa thứ mười lăm, ăn một vài nắm cơm khô chấm muối xong rồi, cụ Phan dặn dò hai tướng Cao Đạn, Nguyễn Mục những chỗ quân cơ chiến lược nội đêm nay, để mình yên tâm nằm ngủ được vài trống canh cho khỏe. Một thanh bảo kiếm để luôn bên mình, và rút ra ngoài vỏ sẵn sàng, mỗi khi nằm ngủ, luôn mười năm nay, đêm nào cũng thế. Cụ nói với người nhà: “Để phòng khi lâm nguy bất trắc, mình đem chém đầu kẻ nghịch hay là tự đâm họng mình cho kịp”.

Đêm đó, lối vãn trống canh hai, khoảng mười giờ hơn, cụ đặt mình nằm xuống lâu rồi mà đang thao thức suy tính chứ chưa ngủ được; bỗng thấy tinh thần hồi hộp, chập chờn, con mắt thì máy lia và ruột nghe sao nóng nảy như bào như đốt. Cụ giật mình suy nghĩ chắc là có chuyện gì nguy biến xảy đến nơi, cho nên thần hồn báo trước cho thần tính đây chăng? Tức thời cụ ngồi nhổm dậy, đánh thức người cháu gọi bằng chú ruột mà nói:

- Quái kỳ! Ta đang nằm trằn trọc chưa ngủ được, chợt nghe trong mình phát ra nóng ruột và con mắt cũng máy dữ, chắc là có điềm lạ gì đây. Cháu dậy thấp cây đèn lên, để chú bói thử một quẻ xem nào!

Tự nhiên việc thắp đèn ở sơn trại, chính nhà cụ ở là việc rất quan hệ, nên cụ phải dặn trước người cháu:

- Nhớ che đậy bóng sáng cho khéo, kẻo quân Pháp ở dưới ngó lên thấy hơi sáng lập lòe, nó đãi cho một vài viên đạn thì khốn.

Vì, trên kia đã nói cho độc giả biết, đêm tối trên núi cốt làm đèn đuốc lập lòe ở chỗ khác, cách xa, để làm nghi binh, còn chính đại trại và cái chòi cụ ở thì phải cấm tuyệt đèn lửa.

Người cháu thắp đèn che kỹ rồi bưng lại, cụ Phan lấy quyển kinh “Dịch” và mấy đồng tiền trinh ra gieo quẻ bói. Giữa lúc ấy còn ngày “Dần” mà cụ bói được quẻ: Mão quỷ phát động.

Trừng mắt thở dài ra vẻ kinh ngạc, cụ nói với cháu:

- Chà chà! Sự thế nguy biến đến nơi rồi. Ngày mai chính là ngày “Mão” mà nay thần ứng ra quẻ nầy thì mai đây thế nào quân Pháp cũng úp phá đồn trại của ta, chắc chắn.

Tức thời, cụ sai lính vệ sĩ đi đòi Cao Đạn và Nguyễn Mục vô thương nghị khẩn cấp.

Hai ông này tay gươm vai súng, lật đật vô hầu. Cụ kể lại cho nghe từ điềm lạ máy mắt sốt ruột cho tới ý nghĩa quẻ bói mà thần mới ứng cho rồi nói:

- Thế nào ngày mai quân địch cũng úp phá tới sào huyệt ta, mà tất cả là chúng lén bọc ra phía sau mà lên núi, vì mặt tiền có quân ta cầm cự và mai phục, hẳn chúng không tấn lên phía trước được đâu. Sự thế trước sau cùng thọ địch như vậy mà quân ta ít, súng ta ít, lại đạn dược gần kiệt rồi, nếu ta dồn binh về mặt sau thì mặt trước hỏng mất, mà giờ cứ cấm cổ chống giữ lấy mặt trước thì mặt sau bỏ trống, để chúng thừa hư tập kích được, đố khỏi bà con ta làm tù cả đám. Ta phải tức tốc lui binh, bỏ núi này đi mới xong.

Cao Đạm, Nguyễn Mục muốn kéo binh đánh tràn xuống mặt trước núi, liều mạng phá tan vòng vây mà chạy. Vì hai ông suy tính quân Pháp đã định phân ra bọc đánh ngả sau nghĩa binh, thì tất là mặt trước để hư không. Nghĩa binh có thể liều chết phá vây được. Nhưng cụ Phan không nghe:

- Tính làm cách đó, vạn tử nhất sinh, nguy lắm. Phải biết họ dùng binh cẩn thận, cơ mưu, chứ không như các người liệu đoán đâu. Họ cốt vây bọc ta trước sau cùng thọ địch, cho nên tất nhiên họ phân binh bọc lén ngả sau, nhưng không khi nào lại để hư không mặt trước. Ta kéo tràn đánh xuống tức là đưa thịt vô miệng cọp. Bởi vậy, ta quyết định bỏ núi lui binh, nhưng phải rán bảo toàn lấy binh lực hầu dùng về sau, chứ không để tổn thương vô ích, vậy thì quân ta cứ lui đi mặt trước, có điều là đi xuyên đường rừng, không nên chường mặt cùng họ giao chiến làm gì nữa.

Tướng sĩ đều phục cái định kế ấy hoàn toàn hơn.

Liền ngay lúc đó, cụ sai đi kêu gọi hết thảy quân lính ở các chỗ đang ứng chiến và mai phục phải bỏ trận địa lục đục kéo về đại trại, lật đật nấu cơm và thu xếp khí giới vật dụng: lệnh truyền đến 2 giờ khuya ăn cơm rồi nai nịt sẵn sàng để gà gáy lần thứ nhất thì nhổ trại lui binh. Nhiều quân sĩ còn đang hăng hái, muốn đánh, nhưng tướng lệnh đã ra không ai dám trái.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #57 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2010, 07:08:45 pm »


* * *

Không dè nghĩa binh dự bị chưa kịp, thì nghe tiếng gà sơn thôn đã gáy hai dạo rồi.

Quả thiệt, quân lính Bảo hộ do ngả sau đã tấn lên đến nơi. Trời mới sáng mờ mờ, một chó Tây dùng trong việc quân, đánh hơi đưa đường, chạy sồng sộc vô tới trong sân đại trại. Nguyễn Mục ngó thấy đưa súng lên bắn con chó một phát, nhưng nó chạy khỏi. Quân binh Bảo hộ đang chen cây lách đá, nghe tiếng súng nổ, liền nhắm chừng hướng ấy và dõi theo vết chân con chó dẫn đường mà tới. Bởi đá núi lởm chởm gập ghềnh, cây cối gai góc rậm rạp, thành ra quân lính Bảo hộ tấn lên hơi khó và lâu. Tiếng súng của Nguyễn Mục bắn con chó thật là bất trí, nếu như không có tình thế hiểm trở của núi rừng làm chậm trễ sự tấn binh của quân lính Bảo hộ, thì có lẽ cụ Phan bị bắt rồi.

Trong khi quân lính Bảo hộ đang lần đường theo dấu ở phía sau, thì nghĩa binh đã phò được cụ Phan đi ra cửa trước mà xuyên theo đường lối trong rừng chạy thoát được rồi.

Một lúc, quân lính Bảo hộ tấn vô đến nơi, chỉ thấy dinh trại trống rỗng, đồ vật lại bỏ ngổn ngang, chứ không còn một người nào. Họ cướp được đồn trại của nghĩa binh rồi thôi, không rượt theo nữa. Vì sự thật, cây cối rậm rì, đường lối chẳng thấy, nên không biết nghĩa quân lui chạy đàng nào mà rượt theo cho được.


* * *

Tướng sĩ hộ vệ cụ Phan chạy đường rừng, bao nhiêu đồ vật và lương thực mất hết, không kịp đem theo một chút gì.

Chuyến này tình cảnh nghĩa binh lao đao vất vả quá, lại thêm nỗi đói khát lạnh lùng, nên quân sĩ chết ở giữa rừng rất nhiều. Lắm người đói lả đuối sức chạy theo không kịp, phải nằm phục vị ở giữa rừng, đào rể cây mà ăn, rồi đốt lá mà sưởi, vì mùa này khí hậu rừng núi càng lạnh lẽo hơn dưới đồng bằng. Chính người cháu ruột của cụ cũng nằm lả bên khe suối, may phước có mấy tên quân xúm lại vực dậy đem đi.

Trong lúc người ta ở hương thôn thành thị ăn Tết năm Mùi (1895) thì nghĩa binh lao đao đói khát ở giữa rừng sâu núi thẳm.

Đến mồng 6 tháng giêng, nghĩa binh mới kéo về tới núi Quạt, đồn trú tại đó là quân thứ ở huyện Hương Khê, kiểm điểm binh sĩ, còn lại hơn hai trăm người mà ai nấy đều xanh xao gầy ốm, vì nỗi bôn ba cơ khổ ròng rã một tháng trời; cụ Phan và hai tướng Cao Đạm và Nguyễn Mục cũng vậy.

Bấy giờ nội tình nghĩa binh đã bối rối lắm. Vì nỗi lương thực thiếu thốn. Lúc nào dân làng gánh gạo bắp heo gà lên núi cho nghĩa binh như là đi chợ, nhưng mấy tháng nay bị nhà chức trách cai trị địa phương canh phòng các ngả và hăm dọa gắt gao, thành ra họ không dám tiếp tế lương thực cho nghĩa binh như lúc trước nữa. Nhiều người sốt sắng quá, đến đỗi liều mạng vận lương cho “giặc” mà bị mất nghiệp bay đầu. Có người mười phần vô tội vô tình, cũng bị liên lụy, chỉ bởi lẽ tiểu nhân oán thù vu cáo.

Kho tàng lúa bắp trên sơn trại, càng bữa càng khô, mà sự tiếp tế mắc nghẹt. Cụ Phan phải sai quân sĩ giả làm nông dân hay thương khách đi sang tỉnh Quảng Bình mua từng năm ba chục gánh gạo, bắp, chở lén theo đường rừng, đem về cho quân sĩ ăn. Tội nghiệp quá! Có nhiều khi lúa bắp đi mua chưa vận chuyển về kịp, quân sĩ phải nhịn đói đôi ba ngày chỉ uống nước lạnh trừ cơm là sự thường. Tuy vậy, không ai kêu la, than thở một tiếng nào; trái lại, họ vẫn vui vẻ thề nguyền kháng chiến đến chết mới thôi, cực khổ đã quen, đói rét chẳng kể. Thấy lòng quân khăng khít như thế, cụ thường cảm động khóc lóc một mình. Người cháu hầu hạ bên cạnh, có lúc nửa đêm nghe cụ thở dài và nói lầm rầm:

- Vì ta mà khổ sở tướng sĩ. Có dân tâm thế ấy mà nhân lực không có, thiên mạng không giúp, thảm thiết bao nhiêu!

Người anh hùng đến bước mạt lộ, đêm trường canh lụn, nằm than khóc một mình như thế, càng thảm hơn nữa.

Lụi đụi tới tháng 5 năm ấy (năm Mùi) Nguyễn Thân kéo đại quân ở kinh thành ra đến nơi, tình hình lương thực của nghĩa binh càng thêm chật hẹp nguy khốn. Là vì bao nhiêu lối hiểm đường quanh đều có lính tráng của Nguyễn Thân bủa giăng chận nghẹt thành ra nghĩa binh trên núi tuyệt lương.

Độc giả nhớ phân biệt hai tiếng này giùm; trước kia lương thực chỉ “thiếu” cũng đủ khốn khổ, bây giờ đến “tuyệt” mới nguy!

Liệu bề ở núi Quạt thì sớm muộn thầy trò cũng chết đói đến nơi, cụ Phan hạ lệnh nhổ trại, định kéo quân về nơi sào huyệt cũ lá núi Vụ Quang. Tại đây có địa lợi hơn, vì đã có đường rừng lại có đường thủy nữa, có lẽ công cuộc vận lương cũng dễ xoay trở.

Lúc đó là tháng 7.

Nhưng nghĩa binh kéo đến mé sông Vụ Quang, cụ Phan cẩn thận, sai 4 tên vệ sĩ qua sông dò thám trước. Té ra những đồn trại của nghĩa binh trên núi Vụ Quang hồi xưa đã bị quân lính Pháp chiếm giữ lúc nào rồi, lính tập đầy nhóc.

Cụ Phan dòm xét địa thế, rồi lật đật đem quân sang đóng trên một trái núi khác, cách không bao xa và cũng thuộc vào thung lũng của núi Vụ Quang. Nghĩa binh chặt cây cắt cỏ cất lên dinh trại lụp xụp mà ở tạm đỡ.

Biết trước rằng mình đóng binh ở đây, thế nào nay mai quân lính Bảo hộ cũng áp tới đánh, cụ Phan phải tính cách chống cự sẵn sàng.

Vì đó mà nay mai có trận huyết chiến Vụ Quang, chính là một trận đánh để tháo thân, mà lại là một trận đánh dữ dội nhất. Cây đèn cạn dầu sắp tắt bao giờ cũng phựt lên một cái sáng lòa!
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #58 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2010, 07:33:03 pm »


Phần XIX
VỤ QUANG SƠN HUYẾT CHIẾN


Lúc này chính Phan tự biết rằng mình với cái ngày cuối cùng thấy càng xáp gần lại nhau lắm rồi, chẳng còn xa cách bao nhiêu nữa.

Nếu phải là người ham sống sợ chết, thì bây giờ chỉ có việc treo lên một vuông cờ trắng, rồi đem quân và khí giới ra đầu hàng, quy thuận Bảo hộ tất là được dung thứ trọng đãi ngay, mặc dầu 10 năm một tay cụ đã làm cho Bảo hộ hao tốn bộn bàng quân lính và tiền bạc. Dám chắc, nếu Phan chịu ra hàng, thế nào cũng được biệt đãi hơn những đề đốc Lê Trực và Tấn sĩ Phan Trọng Mưu rất xa. Một là vì cuộc Bảo hộ mới lập xong buổi đầu, người Pháp cần thâu phục nhân tâm hơn là ham muốn sát phạt, nghiêm khắc. Hai là - nói cho công bằng - đối với mấy tay lãnh tụ Văn thân cứng cõi, gan dạ, như bậc Phan Đình Phùng, Bảo hộ vì lẽ chính trị buộc phải đánh dẹp thì đánh dẹp, chứ trong thâm tâm của những người Pháp chuộng công lý nhân đạo vẫn quý trọng ai là người biết yêu nước quên mình như thế.

Tôi không dám đâu khoe mình được xem hết thảy những sách của chính gia võ tướng Pháp biên chép về các võ công đánh dẹp buổi đầu Bảo hộ, nhưng mà dám nói rằng ít nhiều cuốn tôi được xem, trong đó mỗi khi nói đến Phan Đình Phùng, thì họ đều viết “Le rebelle” (người không chịu phục nhà nước) hay là “Le docteur rebelle” (ông nghè phản đối), chứ không gia cho cái tiếng nặng là “pirate” hay “bandit” (quân giặc cướp), như đối với Đề Thám. Chính ngay Đề Thám, nhiều người Pháp nói đến, ví dụ như Paul Doumer nói ngay thẳng: “Đề Thám không phải là ăn cướp, mà chính là tay đầu đảng Annam phản đối chống cự và đánh nhau với ta đã 10 năm nay” (Le Dé-Thám n’était pas un bandit, mais un chef Annamite rebelle qui nous résistait et se battait contre nous depuis dix ans), xem quyển “INDOCHINE FRANÇAISE” của Paul Doumer xuất bản năm 1903, trang 397). Vậy cho biết rằng lẽ phải thì ai có bụng công bằng cũng quý chuộng nhìn nhận, không cứ là người nước nào.

Chắc độc giả còn nhớ có một đoạn trên kia tôi đã nói chính Phan đã cảm hóa Đề Thám cả quyết nổi lên phản đối ở Bắc Hà; những ngày tháng cuối cùng của Phan ở khoảng Hồng Lam tức là ngày tháng bắt đầu của Đề Thám dấy lên ở miệt Yên Thế vậy. Ta nên biết tình thế đến lúc Đề Thám, cuộc Bảo hộ đã vững vàng nền móng lắm rồi, mà Đề Thám giả hàng còn được bao dung trọng đãi đôi ba phen, huống chi là sớm hơn đó mười mấy năm, nền móng Bảo hộ mới đắp còn chông chênh vất vả, tự nhiên nếu Phan chịu ra hàng, tất được trọng đãi bao dung. Đã vậy mà nhân phẩm Phan cũng cao hơn nữa, đáng cho Bảo hộ cần thâu phục cảm hóa hơn.

Tôi muốn nói dông dài ở chỗ này cốt để tỏ ra thời cơ rất thuận tiện cho Phan quy hàng Bảo hộ chắc được yên thân. Nhưng mà cụ lâm vào đường cùng cảnh khốn đến như lúc đang nói đây, vẫn giữ vững tâm chí thẳng như tên, cứng như sắt, thà chịu đói, chịu khổ, chịu đau đớn đủ thứ, rồi chịu chết bỏ xác giữa rừng, chứ không chịu quăng súng xuống đưa tay lên, để cầu sự yên ổn phú quý; thế là biết cụ khí khai cang cường đến bực nào vậy.

Nhất là tự biết mình chết đến nơi mà cứ ung dung, cứ khẳng khái, cứ tự nhiên!
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #59 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2010, 07:33:57 pm »


* * *

Thật vậy, lúc này cụ dư biết mình đã lâm vào tuyệt lộ rồi, việc cứu quốc cần vương đến lúc hư hỏng tan tành, nhân lực không làm sao cãi lại được nữa. Vốn là nhà nho, cụ tin nơi thiên mệnh có lạ gì. Nhưng cụ cũng tự biết nhân lực không đủ. Ta nhớ trong bức thư trả lời Hoàng Cao Khải, cụ chẳng tự sánh việc mình làm như kiểu con bọ ngựa nhỏ nhoi muốn giơ tay lên cản chiếc xe to lớn đó sao!

Có điều là vì khí tiết, vì danh nghĩa, vì phận sự làm tôi đối với vua, làm dân đối với nước, đã trót ra tay làm thì phải làm tới chết.

Vậy thì nay còn có đôi chút sức thừa nào, cũng đem ra cho hết, để chết một cách oanh liệt, không cần phải dè dặt sức mình hầu dùng mai sau như mấy năm trước. Thì đóng quân ở trên một trái núi thuộc về thung lũng Vụ Quang, gần bên quân lính Bảo hộ, nghĩa là cụ Phan không trốn sự đánh chút nào.

Không ngờ trận đánh ở Vụ Quang, cốt đánh để tháo đường và liều thân, lại là trận đánh dữ tợn nhất, thống khoái nhất cho nghĩa binh từ 10 năm nay. Đã nói cây đèn hết dầu bao giờ cũng phựt lên một cái sáng lòa rồi mới tắt.

Hồi này cụ có ý buồn bực lắm. Phần thì buồn về công việc hư hỏng, phần thì mấy tháng nay khổ sở bôn tẩu mãi, thành ra tuổi chưa mấy già mà người đã suy yếu nhiều lắm.

Có bữa, cùng mấy viên tùy tướng đi dạo chơi trong rừng, phía trước thảo trại, cụ Phan ngó lên thấy đám mây bạc ở xa xa, chạnh nhớ đến nơi phần tử đang bị tan hoang phiêu dạt vì mình; hương khói và xương cốt tổ tiên mình bị lạnh lùng bới móc lên cũng vì mình, cụ lấy làm cảm động đau đớn hết sức. Trông về phía bắc mịt mù, nhớ đến vua chúa cũng đau lòng; cho tới nghe tiếng chim kêu vượn hú, lá rụng cây reo mỗi mỗi đều gợi mối quan hoài tương cảm ở trong cõi lòng sâu xa, khiến cho cụ bùi ngùi vô hạn.

Một lúc cụ phải bật tiếng thở dài, nói với mấy viên tùy tùng tướng sĩ:

- Trước kia ta nghe những tiếng này, trông thấy những cảnh này, lòng ta phấn khởi biết bao, tưởng chừng gặp kẻ đối địch chỗ nào ta cũng nhảy tới bóp cổ moi gan ra ăn được mới khoái. Nhưng bây giờ cũng trông thấy cảnh này, nghe những tiếng này, lòng ta tê tái rầu buồn hết sức. Người có chí làm việc lớn mà trời không cho làm được, ở đời còn có nỗi gì đau đớn hơn nữa!

Rồi cụ chỉ tay ra phía xa và nói:

- Ngó non sông tết đẹp thế kia mà không phải của mình làm chủ nữa, thảm chưa?

Những người đi theo nghe mấy lời ấy đều ứa nước mắt; chừng ngó lại chủ tướng, té ra thấy hai gò má cũng điểm nhiều giọt lốm đốm như giọt sương mài, từ cặp mắt đỏ hoe kia vừa mới nhỏ xuống. Thầy trò khóc với nhau giữa rừng!

Than ôi! Một người anh hùng có chí vẫy vùng bốn biển, cứu hộ muôn dân, muốn xoay lại non sông, chọi với thời thế, mà nay bị xô, bị nhốt vô trong vòng cùng đường bí nước như vầy, không phải bi thương thống khốc sao được. Có lẽ cây kia đá nọ cũng phải nhỏ mồ hôi đừng nói chi là chính người đang có thân thế, cảnh ngộ ấy!

Nhưng đã nói Phan có cái quyết tâm rằng mình còn chút hơi nào cũng gói ghém lại để đem ra chống chọi với thời cuộc cho hết, tới lúc xuôi tay nhắm mắt mới thôi. Bởi vậy không thể nào đối cảnh mà ngậm ngùi bi thương mãi được, cụ phải nghĩ cách chống cự với giặc, kẻo nghĩa binh tạm đóng trên núi này, thế nào sớm muộn nay mai quân lính Bảo hộ cũng tới vây đánh, không sao tránh khỏi. Điều ấy chính cụ đã dự liệu trước rồi.

Ngó xuống sông Vụ Quang thấy quanh co một giải trắng phau, nước cuồn cuộn, cụ Phan đổi ngay sắc buồn làm ra vẻ vui mừng:

- Nếu quân Pháp kéo tới đánh ta, thì con sông kia có thể cự địch được lắm.

Tướng sĩ ngẩn ngơ, không ai hiểu được là ý gì, trừ ra một mình Nguyễn Mục hình như hiểu thấu quân cơ này, cho nên sau khi cụ Phan nói rồi, nghe ông ta ứng thanh mà tiếp:

- Chắc họ được uống nước sông đó một bữa no nê.

Rồi đó thầy trò lững thững trở về thảo trại thương lượng việc quân.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM