Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 10:41:02 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Phan Đình Phùng  (Đọc 40499 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #10 vào lúc: 31 Tháng Năm, 2010, 05:00:33 pm »


* * *

Cụ phụng mệnh trở về, liền phát tờ hịch đi khắp các nơi, kéo cờ khởi nghĩa ngay ở làng cụ là làng Đông Thái.

Trong hịch văn, đại ý nói cụ phụng mệnh vua cử nghĩa binh để chống với cường địch, cứu lại quốc gia, song việc đó là việc chung của mọi người làm dân, tự mình cụ không gánh vác nổi, vậy xin những bậc anh hùng chí sĩ, ở trong bốn biển chín châu, cùng ra tài ra sức cứu nước mới được v.v...

Lời hịch văn đơn sơ mà thống thiết, khiến cho ai xem cũng phải động mối thương tâm, coi hình như là tờ hịch của ông Lạc Tân Vương ở đời nhà Đường ngày xưa đánh bà Võ Hậu vậy. Nhân thế mà chỉ trong có một tuần, nghĩa sĩ ở các nơi hưởng ứng theo cụ có đến năm sáu ngàn người, đều thề hết sức theo cụ chỉ huy, liều mình vì vua vì nước.

Cụ bèn lấy ngay nhà cụ ở làm “nghĩa sĩ đường” tụ họp nghĩa quân, làm lễ tuyên thệ, rồi chia binh ra từng đồn trại đóng khắp trong tổng Việt Yên. Đồ trại nào cũng đều có kỷ luật, và có quân thám tử hẳn hoi, cách sắp đặt điều khiển rất là nghiêm minh. Nơi địa đầu làng Đông Thái lập ra một cái xưởng lớn để đúc súng và chế thuốc đạn - theo lối của ta - và rèn gươm đao nữa. Trong xưởng này bao giờ cũng một trăm người thợ làm việc suốt đêm ngày, để mau có đủ khí giới cho quân dùng.

Một vùng chỗ đó, trước kia có cái quang cảnh cũng như mọi chỗ khác, nghĩa là ban ngày trông thì làng xóm bao la, ruộng lúa, bờ tre man mác kẻ đi chợ búa, người việc cày cấy; đến đêm thì bốn bề đen tối, tịch mịch một màu, bất quá thỉnh thoảng nghe có tiếng chó sủa cầm canh, gà đua gáy sáng mà thôi. Thế mà nay đổi ra hẳn một cái cảnh khác: cờ quạt rợp trời, chiêng trống dậy đất, gươm đao sáng quắc, đèn đuốc thâu đêm; người ta trông thấy hình như ai cũng nô nức tấm lòng, cho đến ngọn cỏ cành cây, hình như cũng nhấp nháy muốn động cả. Nhiều ông già, bà cả được mục kích hồi ấy, thuật lại rằng: Vui nhất là trông thấy cái quang cảnh những người nghe cụ khởi nghĩa binh mừng rỡ múa hát, nào kẻ thì nánh thước tay đao đến để vào ngũ, làm cho đường sá đi lại tấp nập ngày đêm, biến hẳn quan cảnh nhà quê ủ rũ vắng vẻ kia, trở nên một nơi hùng tráng vô cùng, khí phách vô cùng!...

Lúc bấy giờ, anh hùng chí sĩ ở bốn phương về theo cụ rất đông; người trong làng thì như ông Tiến sĩ Phan Trọng Mưu1, ông Cử Phan Cát Su, Phan Quang Cư, còn Văn thân ở hai tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An thì có Thám hoa Nguyễn Đức Đạt, Hoàng giáp Nguyễn Quý, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn, Đinh Văn Chất, Cử nhân Nguyễn Hanh, hai anh em ông ấm Lê Ninh, ông Phó bảng Võ Nguyễn Hạnh, ông Cử nhân Thái Vĩnh Chính, Cao Đạt v.v... nhân vậy mà thanh thế của cụ thành ra to. Chính phủ Bảo hộ và triều đình phải chú ý đến.
_______________________________________
1. Ông Phan Trọng Mưu (cùng đồng thời với cụ Phan đều phụng mệnh khởi nghĩa binh, nhưng sau ông thất bại trước, chạy trốn ra Nam Định, rồi anh Hoàng Cao Khải đem ra thú với Bảo hộ, được Bảo hộ trọng đãi.
    Ông hay chữ lắm, sau khi thất bại có bài thơ tự thuật như vầy:
        Đồ báo khu khu dĩ thập niên
        Sự chung vô nại nại hà thiên
        Hoàng hà khổn khổn thanh nan sĩ
        Thương hải mang mang hận vị điền
        Kỳ đắc hoàng quan quy Tín quốc
        Khẳng giao trạo mạo lão Triều tiên,
        Khổ tâm lưu hướng đồng tâm thoại
        Hồi thủ gia sơn lệ vạn thiên.
   
    Dịch nôm:
        Mười năm hăng khắng chí đền bồi,
        Rốt cuộc không sao cản được trời,
        Bể bạc mênh mang còn giận mãi
        Sông vàng cuồn cuộn khốn trong rồi.
        Chỉ mong thân lại về đô cũ
        Không để già luôn ở nước ngoài
        Câu chuyện đồng tâm đau đớn nhỉ
        Quay đầu cảnh cũ lệ tuôn rơi.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #11 vào lúc: 31 Tháng Năm, 2010, 05:01:55 pm »


* * *

Hồi đó trong triều đã lập vua khác rồi, là vua Đồng Khánh (lên ngôi ngày 6 tháng 8 năm Dậu, sau thất thủ kinh thành ba tháng) em ruột vua Hàm Nghi. Cuộc bảo hộ đã xếp đặt đâu đó xong rồi.

Nhất thiết mọi việc quốc gia, triều đình phải theo chính phủ Bảo hộ chỉ bảo.

Các tỉnh một dãy Trung Kỳ, tỉnh nào cũng tùng phục, duy có tỉnh Quảng Bình là còn độc lập, vì vua Hàm Nghi còn trốn tránh ở đó, nên bọn Văn thân còn dựa vào chủ nghĩa cần vương mà làm kịch liệt. Lúc này Hoàng Phúc làm dữ nhất, Hoàng Phúc tức là gia thần của ông Thuyết, có võ nghệ giỏi, lại có hai đứa thủ hạ là Chít và Én cũng giỏi lắm. Triều đình phái ông Phan Đình Bính (tức là ông ngoại vua Duy Tân) ra tiểu trừ không xong. Chính phủ Bảo hộ muốn trấn phục nhân tâm, bèn phiền vua Đồng Khánh ngự giá ra tỉnh Quảng Bình để chiêu phủ dân tâm, và dụ vua Hàm Nghi ra đầu thú luôn thể. Vua Đồng Khánh đem 200 lính Pháp và 800 lính ta, có cơ nghi oai vệ lắm, từ kinh khởi giá đi cũng chẳng được gì, nên đến tháng 8 thì về. Sau đến ông Hoàng Kế Viêm ra làm Khâm Sai, hết sức chiêu phủ làm cho đảng vũ của Hoàng Phúc lìa tan. Hoàng Phúc buồn mà chết, bấy giờ mới yên.

Tiếng rằng yên, nhưng mà tỉnh Quảng Bình, chỗ này còn kẻ xưng hùng, chỗ kia còn người khởi nghĩa, đều làm thanh thế cho cụ Phan Đình Phùng, thành ra cái gốc phản đối người Pháp ở Quảng Bình lại chuyển sang Hà Tĩnh. Triều đình bèn phái ông Thương tá Hà Tĩnh là Lê Kính Hạp làm Tiễu phủ sứ hội với quân Pháp để đi tuần tiễu.

* * *

Trận đầu tiên của cụ Phan Đình Phùng ra binh là đánh phá mấy làng có đạo. Cái cớ cũng là tự mấy ông cố đạo gây nên trước.

Nói cho phải, thuở nước có lắm ông cố đạo tuy miệng nói là chỉ chuyên tâm có việc tôn giáo mà thôi nhưng cũng lôi thôi xen lộn vào việc chính trị, hoặc ỷ sức mạnh hiếp bức người ta. Nếu không vậy thì ngày xưa chẳng làm gì có việc lương giáo đánh giết nhau mà cũng không đến nỗi có điều gì ác cảm nhau. Thật thế, các ông ấy giảng đạo, song nếu “con chiên” có việc gì kiện cáo với lương dân, tức thời các ông mang “bộ áo dài thâm” vào, rồi thân hành lên quan phủ kêu nài và dọa nạt quan phủ huyện phải xử cho con chiên được kiện. Nếu quan không bênh vực theo ý muốn của các ông thì các ông hăm dọa lên nói với quan Công sứ để tìm cách ám hại. Các nhà truyền giáo, không ở trong bờ cõi tôn giáo của mình, lại lấn sang vòng chính trị, dầu ở xã hội nào cũng là chuyện lôi thôi bất bình.

Trong hồi Pháp-Việt đang giao thiệp với nhau, các ông ấy ỷ thế người Pháp bênh vực mà làm nhiều cử động cho người mình sinh thù, sinh ghét, làm cho nước Pháp bận lòng quá. Có khi chính các ông làm đà cho giáo dân làm bậy, rồi mỗi chuyện gì cũng đổ cho bọn Văn thân; cái tình tệ ấy nói sao cho hết. Công sứ tỉnh Nghệ An hồi đó là ông Duranton đã thuật lại việc lương giáo xung đột ở Huế như sau này, đủ làm chứng cớ.

“Các ông cố đạo gọi dân đến dụ dỗ, hễ đứa nào chịu theo đạo thì lĩnh sáu đồng bạc. Những đứa đã phải ngửa tay lấy tiền dụ dỗ đút lót cho nó đi đạo như thế, thì có phải là hạng người ra hồn gì đâu. Chúng nó lĩnh tiền xong, rồi về làng dọa nạt anh em đồng bào mình rằng: “Bây liệu hồn! Chúng tao đây đã có người Pháp đỡ đầu, hễ bây dám há miệng chửi tao một câu, hay là gây gổ với chúng tao một chút, là chúng tao nướng xác bây cháy ra tro và lấy hết của cải bây”.

Trời ơi! Hăm dọa người ta như thế rồi chúng nó làm thật. Vả chăng, sự thật chúng nó vì nghèo đói quá nên phải tìm một cách để kiếm ăn. Đêm tối chúng nó chụm lửa tự đốt tiêu cơ nghiệp nhà tranh vách nát khốn nạn của chúng đi, rồi la làng chói lói rằng bọn Văn thân - hay là dân lương - đã đốt nhà và lấy hết cả của cải chúng nó. Thế là chúng lấy được tiền của nhà nước bồi thường cho mà dám dân lương bị giá họa vu oan kia thì bị tội.

Đại khái, cái tình tệ giữa dân lương giáo nước ta hồi trước như thế. Cụ Phan Đình Phùng mà đánh phá hai làng giáo dân cũng vì mấy ông cố đạo ở hai làng đó xui giục giáo dân, định đến ám hại cụ. Rồi độc giả sẽ xem việc này ra sao?

Chúng tôi đã nói, cụ Phan xuất binh trước hết là đánh phá hai làng có đạo, nguyên nhân bởi mấy ông cố đạo ở đấy ám hại Văn thân.

Nguyên một đêm kia, vào khoảng canh ba, quân thám tử của cụ đi tuần phòng các dinh trại bắt được ba tên dân đạo là người ở hai làng ĐịnhTrường và Thọ Minh (cùng thuộc trong một tổng với cụ) đang núp lén trong bụi tre, gần bên trường đúc khí giới. Nghĩa quân bắt được và khám xét chúng nó, thấy đứa nào cũng có giắt hỏa hổ ở trong mình, họ liền giải ba đứa về đồn nộp. Cụ Phan hội chúng tướng lại tra xét thì chúng xưng rằng: cố của chúng nó xui biểu chúng nó tới lén đốt hết cả đồn trạo nghĩa binh ở Đông Thái đi. Tức thời cụ sai chém ba thằng ấy rồi hạ lệnh cho mấy toán nghĩa binh đang đêm kéo đến bao vây đánh phá hai làng Định Trường và Thọ Minh. Lệnh truyền nghiêm lắm; chỉ đánh phá nhà thờ, nhà cố, đừng xâm phạm nhà dân.

Nghĩa quân đánh riết lắm, mấy ông cố đạo phải sai người liều chết trốn ra khỏi trùng vây mà đi báo, để quân Pháp đóng đồn gần đó về cứu viện. Quận Pháp về tới. Nghĩa quân đón đầu giao chiến được hai giờ đồng hồ rất là hăng hái. Nhưng vì hầu hết nghĩa binh chỉ là hạng tráng đinh nhiệt huyết, vừa mới triệu tập, chưa được huấn luyện gì, cũng chưa quen việc đánh nhau, lại thêm súng đạn lúc này còn là kiểu súng của ta, cách bắn chậm chạp lôi thôi, tự nhiên không sao địch lại súng Pháp, thành ra ứng chiến được hai giờ là nhiều rồi, nghĩa binh phải thua chạy. Quân Pháp thừa thắng đánh rốc tới đại đồn Đông Thái, đốt phá tan tành. Dân cư làng này bị tàn phá tử thương và trốn làng bỏ đi nhiều lắm.

Cụ Phan thu nhập tàn quân lại, an ủi tướng sĩ rằng: “Được thua là sự thường của binh gia, tướng sĩ ta đừng nên vì thế mà ngã lòng thối chí”. Rồi cụ kéo quân tới đóng ở hai đất huyện Hương Sơn và Hương Khê, nay ở chỗ này mai dời chỗ khác, không thể nhất định là chỗ nào, làm cho quân Pháp phải đi tuần tiễu lắm nỗi khó nhọc, tốn hao. Chẳng những chưa dẹp được cánh quân cụ Phan, mà thanh thế cụ lại càng to, và phong trào Văn thân lại càng ùn ùn nổi lên tứ phía.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #12 vào lúc: 31 Tháng Năm, 2010, 05:06:19 pm »


Sang đầu năm Tuất (1886), Phan đóng quân ở làng Phụng Công về huyện Hương Sơn. Còn anh là ông Phan Đình Thông thì đóng ở Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Không ngờ Phan Đình Thông bị tên thủ hạ là Nguyễn Sử làm phản; nó làm nội ứng, nửa đêm, thừa lúc ông Phan Đình Thông đang ngủ, dẫn quân lính Bảo hộ đến vây đồn, trong lúc thảng thốt ông bị bắt sống giải về tỉnh Nghệ An. Tổng đốc tỉnh Nghệ An hồi ấy là Nguyễn Chính, vẫn còn ghi nhớ chuyện cũ, thù hiềm cụ Phan, hồi làm Ngự sử, đã dâng sớ hạch tội y làm Kinh lược Bắc Kỳ, chỉ hư trương nghi vệ và tác oai tác phúc rằng, không chăm lo việc dân việc nước giữa lúc gian nan. Câu chuyện cũ này, một đoạn trên xa, chúng tôi đã nói. Vì sự hạch tội ấy vua Tự Đức bãi chức Kinh lược của Nguyễn Chính. Sau nhờ Bảo hộ phục chức, cho làm Tổng đốc Nghệ An.

Nay bắt được anh cụ Phan, Nguyễn Chính toan chém tức thời cho đã cơn giận và trả thù xưa. Nhưng rồi tấm lòng mưu tập đại công biểu ông ngừng tay lại, trong trí suy tính làm sao chiêu dụ được Phan Đình Phùng ra hàng, thì mình lập công lao với Bảo hộ to lớn, tự nhiên cái ngôi cực phẩm triều đình ở trong túi áo. Chừng nào chiêu dụ mà Phan Đình Phùng không chịu ra hàng thì bấy giờ sẽ giết Phan Đình Thông cũng chưa muộn. Nghĩ vậy rồi, Nguyễn Chính một mặt sai kẻ tâm phúc đi dò tung tích cụ Phan ở miền Hương Sơn, Hương Khê để dỗ cụ ra quy thuận.

Hồi đó, ông Tiễu phủ sứ Lê Kính Hạp, nguyên trước là anh em bạn thân với cụ, nhưng sau Bảo hộ sai đem quân đi đánh cụ, cảnh ngộ hai người gần giống như Ngũ Tử Tư và Thân Bao Tự ở đời Đông Châu. Nhân dịp anh cụ bị bắt, Lê Kính Hạp muốn lấy lẽ cốt nhục tình thâm, bèn viết gởi cụ một bức thư chữ Hán cứng cáp gọn gàng mà hay, xin dịch ra quốc văn như vầy:

“Bác Phan,

Tôi với bác xa cách bấy lâu nay, tấm tình thương nhớ, chắc cũng bồi hồi như nhau, điều đó không cần phải nói.

Duy có điều phải nói là mấy lúc gần đây tôi đi qua làng Đông Thái ngó thấy đền thờ cùng là phần mộ các đức tiên quân bác nghiêng ngả điêu tàn không ngờ tôi sụt sùi nước mắt mà khóc.

Này bác Phan ơi! Ngày nay trong họ hàng làng xóm được an hay nguy chỉ can hệ ở nơi bác, tính mạng ông anh bác mất hay còn, cũng chỉ can hệ ở nơi bác. Thôi thì tấc lòng trung của bầy tôi đối với vua, tới đó bác cũng đủ chứng tỏ với quỷ thần rồi, không lo ai chê mình vào đâu được nữa.
1

Còn hiếuđễ cũng là cái gốc lớn của đời người ta, có lẽ nào bậc người khoa giáp như bác mà học chưa tới nơi hay sao?

Huống chi là ong nuôi tay áo, nọc ở trong mình
2 tấm gương ấy không phải đâu xa, kỳ thật nó sờ sờ ở con mắt bác rồi đó.

Núi Hồng sông Lam
3 có vô số là cảnh non nước tốt đẹp có thể làm nơi vắng vẻ thanh cao cho bác ở để tu dưỡng chí tiết của bác được4.

“Thôi nên về đi thôi! Tôi xin nói thật.”.

Cụ Phan tiếp được thư này, cười mà nói rằng:

- Mấy anh đồ nho hèn nhát, động một chút là đem cửa nhà mồ mả ra để dọa nạt người ta.

Nhân dịp cụ nói với chúng tướng rằng:

- Tôi từ khi cùng chư tướng khởi binh cần vương đã có chủ tâm là bỏ cả việc gia đình quê quán ra ngoài, không nghĩ gì đến nữa. Nay tôi chỉ có một ngôi mộ rất to, nên giữ, là đất Việt Nam; tôi chỉ có một ông anh rất to, đang bị nguy vong, là cả mấy mươi triệu đồng bào. Nếu về mà sửa sang phần mộ của mình, thì ngôi mộ cả nước kia ai giữ? Về để cứu vớt ông anh của mình, thì bao nhiêu anh em trong nước ai cứu? Tôi bây giờ thề chỉ có một cái chết mà thôi...

Nói vậy rồi cụ không thèm viết thư trả lời, chỉ nhắn kẻ đưa thư về nói lại với Lê Kính Hạp rằng: “Nếu ai có làm thịt anh ta, thì nhớ gửi cho ta bát nước canh!”

Chúng tướng nghe đều ứa nước mắt. Cụ không chịu bãi binh quy hàng, tức là ông Phan Đình Thông bị hại, không cần phải nói.

Từ đấy cụ cùng tướng sĩ đóng đồn trong rừng, trên núi, thường dùng cách đánh du kích, vì chưa đủ sức đương trường đối chiến.

Bảo hộ phái quân lính đi tập nã hoài. Nghĩa binh cũng giao chiến nhiều trận, có trận được, trận thua, nhưng kể ra thì cái bước lui nhiều, mà bước tới rất ít. Vì quân lính Bảo hộ tới đâu cũng có kẻ truyền báo và trợ lực rất là nhanh nhẹn. Còn nghĩa quân thì đánh nhau không quen, khí giới lại xấu, chỉ trông cậy được là ở lòng người mà thôi, nên chi không định được với quân Bảo hộ là phải.

Qua năm Hợi (1887), Phan nghĩ mình cô lập không xong, bèn quyết kế ra Bắc kỳ để hiệu triệu đám Văn thân chí sĩ ở ngoài ấy cùng nổi lên làm thanh viện. Khi đi, cụ dặn dò chúng tướng hãy khoan đừng nên bạo động để đợi cụ về sẽ hay.
______________________________________
1. Đoạn này ý nói cụ Phan phụng mạng vua Hàm Nghi khởi binh Cần Vương, nay nhà thờ và phần mộ đến nỗi điêu tàn nghiêng ngã hương khói vắng tanh, mà ông anh ruột đang bị nạn lâm nguy, thôi thì cụ nên bãi binh về đi để cho yên mọi việc trong họ hàng làng xóm, khỏi mang tội với tổ tiên quê quán. Cụ đã từng khởi nghĩa rồi, nhưng mà thời thế khó khăn, gia hương quạnh quẽ, thì nên về là với quỷ thần cũng không thẹn, mà chẳng ai còn chê được mình, vì tấm lòng trung quân của cụ đến thế là cũng đủ rồi.
2. Đoạn này nói ý là ông anh cụ bị người nhà làm phản mà bị bắt, vậy cụ cũng sớm liệu đi, kẻo sau lại bị thủ hạ phản phúc đem cụ ra nộp cho Pháp nữa thì khốn.
3. Núi Hồng sông Lam là hai phong cảnh hùng tráng nhất Hà Tĩnh và Nghệ An.
4. Đoạn này nói ý rằng cụ cứ việc bãi binh mà về, không chịu ra làm quan với người Pháp thì thôi, nhưng mà núi Hồng sông Lam, không thiếu chi chỗ non xanh nước biếc, vắng vẻ tốt tươi, cụ có thể ẩn cư để giữ nguyên vẹn trong sạch cái danh tiết quý báu của mình, không ai làm  hại hay ép uổng gì đâu mà lo.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #13 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2010, 01:40:31 am »


Phần VII
MẠT LỘ CỦA THIÊN TỬ


Trên đời, có ai sung sướng bằng ông vua đắc chí! Trên đời có ai khổ sở bằng ông vua mất ngôi! Khi đắc chí, nào cung, nào điện, nào quan, nào quân, nào vàng bạc châu báu, quấn quít quanh mình, nói một tiếng là lệnh dậy cả muôn dân, thét một tiếng là oai vang trong bốn bể; vẻ vang biết chừng nào!

Tình cảnh của vua Hàm Nghi như thế.

Ái ngại thay, ngài là ông vua còn nhỏ tuổi, gặp phải lúc việc nước khó khăn, đến nỗi thành mất nhà tan, đem thân đi trốn, vất vả cực khổ trăm bề! Nhiều khi dọc đường vua tôi khóc lóc với nhau, nông nỗi lưu ly, không biết thế nào mà nói cho hết. Thoạt tiên ra đi, thì còn có ít nhiều văn võ hỗ tòng, quân gia hầu hạ, rồi chẳng may giữa đường tan tác, chia lìa: nào Phạm Thận Duật bỏ về, nào Hữu quân Hồ Hiển bị bệnh chết; đếm số quân lính thì lúc trước đi theo còn được một trăm mười người, nhưng sau thấy khổ sở quá, nên bỏ đi hầu hết. Sau rốt lại, chỉ trơ trọi có cha con Tôn Thất Thuyết, và chưởng vệ Trần Xuân Soạn, cùng mười mấy tên lính đi theo mà thôi. Thôi thì sớm no, chiều đói, ăn uống không bữa nào toàn, nay đó mai đây, ở đâu không dám định hẳn, vì quân Pháp đuổi riết đằng sau lưng, làm cho nhà vua cứ chạy dài mãi...

Ta đã biết hồi tháng 10 năm Dậu (1885, tức là giữa năm mất kinh thành) ngài tới miền thượng du Hà Tĩnh triệu cụ Phan Đình Phùng ra khởi binh cần vương, đến ngày 16 tháng ấy quân Bảo hộ đuổi gấp quá, ông Thuyết phải đưa ngài chạy miết lên Voi Tấn, chính là miền trên tỉnh Quảng Bình, giáp với xứ Lào. Chỗ biên cương này là một xứ Mọi. Trương Quang Ngọc làm thổ tù. Rồi ngài tạm trú ở đó.

Được ít lâu, Thuyết ngó thấy ở đấy cũng tạm được yên thân nhà vua rồi, còn sự cứu vong thì Thuyết tự liệu sức mình không thể làm gì được, tất họa là phải cầu ngoại viện. Nhưng Thuyết không sang cầu viện Xiêm theo như kế sách của cụ Phan đã tỏ hồi trước; Thuyết đi sang Tàu, vì ông còn tin nơi thế lực nước Tàu nhiều lắm. Thuyết để vua Hàm Nghi trốn ở đất Mọi, và để hai người con ở lại hộ vệ, còn mình thì cùng chưởng vệ Trần Xuân Soạn dắt nhau sang Tàu để cầu viện binh.

Vua Hàm Nghi nương náu ở đất Mọi được hơn một năm, tuy ăn uống khổ sở, nhưng mà được điều yên ổn. Chính phủ Bảo hộ cố tâm bắt cho được ngài, nhưng vẫn chưa tìm được ra tông tích, đã hơi có ý chán nản, không biết rồi ra có bắt được hay không và đến bao giờ? Hữu chí cánh thành, việc gì cũng thế: lần hồi Bảo hộ cũng dò ra tông tích mà bắt sống được vua Hàm Nghi, vì có bộ hạ và lũ Mọi phản ngài để lập công với người Pháp.

Lối sau này, nghĩa là sau khi Thuyết đã sang Tàu rồi, tình cảnh ngài lại càng khổ sở bội phần. Còn sót lại ít nhiều tả hữu tòng vong cũng bỏ ngài lần lần mà đi, bởi thấy vua bây giờ nông nỗi chìm đắm như thế, chắc cũng không còn trông có ngày nào lại trở về làm vua nữa được, vậy thì còn theo làm chi cho mệt xác? Cho nên những người này rủ nhau đi lần hồi, bỏ ngài chơ vơ, duy còn người con ông Thuyết là Tôn Thất Thiếp theo hầu ngài một cách trung thành cung kính như trước. Khổ sở lâu ngày quá không chịu nổi, ngài đâm ra bệnh thương hàn, làm cho thân thể gầy còm ốm yếu. Tội nghiệp! Mỗi khi hơi có tin báo động, thì có một thằng mọi trung thành phải lật đật cõng ngài chạy, vì tự ngài không đi được nữa.

Nhưng cái mồi vinh hoa phú quý nó xui khiến người dễ dàng làm việc phản trắc, đến quân Mọi cũng không khác gì ai!

Lúc bấy giờ ngài trốn ở một làng Mọi là Khê Ta Bao, ở miền trên châu Tuyên Hóa tỉnh Quảng Bình. Chính phủ Bảo hộ phái Đại tá Boulangier chuyên việc đem quân đi tầm nã, nhưng đã sáu tháng trời không tìm thấy tung tích đâu cả.

Trương Quang Ngọc, là Thổ tù ở miệt Khê Ta Bao và chính hồi ấy vua Hàm Nghi đang nương náu trong nhà hắn. Mồi phú quý động tâm, Ngọc cùng một tên đồng đảng là Nguyễn Đình Thanh lặn lội đi báo tin cho quân lính Bảo hộ biết, rồi dẫn Boulangier về bắt vua Hàm Nghi.

Đại tá Boulangier lén dẫn quân tới vây bọc túp nhà ngài ở, lúc ấy mới độ bảy giờ tối. Ngài và hai người tùy tùng đang gối đầu vào thanh gươm mà ngủ say lắm, vì bụng đói, sức mệt. Chợt thấy quân Pháp tới, thầy trò vùng tỉnh dậy, thì quân Pháp đã nhảy vào trong, nắm chặt lấy tay ngài, ngài biết là thằng Ngọc phản, giận lắm mắng nó rằng:

- Thằng Ngọc, mầy giết tao di, còn hơn đem tao nộp cho Pháp.

Ông Tôn Thất Thiếp thấy sự thế hỏng mất rồi, bèn tuốt gươm ra, định bụng một là giết viên quan võ Pháp để giải cứu cho vua, một là giết vua đi để cho ngài được trọn danh tiết, chứ không muốn cho ngài bị bắt. Song viên quan Pháp lanh mắt, ngó thấy cử chỉ ấy, chĩa súng ra bắn ông Thiếp chết ngay.

Vua Hàm Nghi bị bắt giữa hôm 26 tháng 6 năm Mậu Tý (1888). Bấy giờ ngài đã 18 tuổi.

Quân Pháp dẫn ngài về tỉnh lỵ Quảng Bình, rồi cho 80 tên lính Pháp hộ vệ ra chợ Huyện. Trong lúc đi đường, ngài thở than chửi mắng nọ kia luôn miệng. Tới chợ Huyện, quân Pháp đem xuống đò, để đưa về Huế, định cho ngài giáp mặt vua Đồng Khánh. Nhưng ông Khâm sứ Rheinart nghĩ là sự gặp mặt này vô ích, nên khi đưa về tới cửa Thuận An, thì chính phủ Bảo hộ sai dẫn ngài xuống ngay pháo thuyền “Comète” chạy thẳng vào Saigon. Rồi từ Saigon có tàu khác, đem sang an trí ở Algérie. Sang đấy ít lâu, ngài kết hôn với một thiếu nữ Pháp, sinh hạ ba người con. Công chúa Như Mai học trường Canh Nông ở Paris ít lâu rồi qua đời.

Việc bắt được vua Hàm Nghi phát sinh vào hồi tháng 10 tây năm 1888 (Mậu Tý) nghĩa là sau khi thất thủ kinh thành 3 năm và sau khi Phan Đình Phùng ra Bắc một năm.

Còn Tôn Thất Thuyết đi cầu viện, nhưng mới sang Tàu ít lâu, nghe được tin vua Hàm Nghi bị bắt, thì đành ở lại nương náu tại Long Châu (thuộc tỉnh Quảng Tây, giáp giới nước ta) rồi sau chết già ở đó.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #14 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2010, 01:42:30 am »


Phần VIII
CAO THẮNG


Trong lịch sử họ Phan hoạt động cách mệnh, Cao Thắng ở một địa vị rất quan hệ, cho nên muốn biết rõ Phan, không thể không biết Cao Thắng.

Khi cụ Phan khởi nghĩa, hào kiệt bốn phương về theo, phần nhiều là người có võ nghệ và có tài năng, nhưng mà cầu lấy một người có trí, có dũng, có ân, có oai, có cơ mưu, có thao lược, nói tóm lại đủ tài làm tướng thì không ai bằng Cao Thắng.

Cao Thắng là chân tay của cụ; Cao Thắng là hình ảnh của cụ.

Ban đầu thất bại, cụ chạy ra Bắc để khuyến khích anh em đàng ngoài nổi lên làm thanh ứng, khi ấy các tướng chán nản, ba quân lìa tan, việc cách mệnh thành ra một đám cửa nguội tro tàn, cơ hồ đến tắt. Thế mà có người thổi được đống lửa nguội tro tàn ấy lại chạy bùng lên, ấy là Cao Thắng. Lúc cụ trở về, mà thanh thế lại mạnh, tướng sĩ lại đông, lương thực lại nhiều, súng đạn lại sẵn, nhờ đó mà chống cự được với quân Pháp trong mấy năm trời nữa, là vì có Cao Thắng. Bởi thế cho nên người ta có thể nói được rằng: thí dụ như xây một bức tường, cụ Phan đắp nền móng, mà Cao Thắng chồng chất mãi gạch đá cho cao chót vót lên; thí dụ như ta làm một ngôi nhà, cụ Phan dựng cột, nhưng mà Cao Thắng lợp ngói quét vôi, ông treo tranh, bài cảnh ở trong cho được lịch sự. Thế nghĩa là trong việc cần vương cách mệnh lúc bấy giờ cụ Phan vẽ kiểu, mà Cao Thắng là thợ làm vậy.

Quả thế.

Sau khi cụ đã thất bại ra Bắc rồi, các tướng võ và quân sĩ tản lạc, việc cần vương đến đó hầu như lá rụng hoa rơi, không mong gì có cơ quật khởi. Chính cụ Phan ra Bắc cũng nằm hơn một năm trời như là người đã té nhào xuống, muốn dậy mà chưa biết đến bao giờ dậy nổi. Ấy thế nà Cao Thắng nâng cụ dậy được, lại huyết chiến được bẩy tám năm nữa, đến chết mới thôi, như vậy Cao Thắng thật là người có trí, có tài. Việc quật cường đó, ông làm ra thế nào, ta cần nên biết.

* * *

Cao Thắng là người ở xóm Nhà Nàng, làng Lê Đông, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.

Ông là con một nhà bình dân tầm thường, dáng người thấp nhỏ, ngón chân ngón tay đều ngắn, cho nên người ta bảo ông có tướng ngũ đoản (năm cái ngắn), sau tất làm người huyết chiến sa trường, bất đắc kỳ tử.

Người rất thông minh lanh lẹ, thuở nhỏ có đi học chữ, nhưng tính không ưa khua bút múa văn, để làm một nhà danh sĩ; chỉ muốn học võ nghệ và binh thư để sau làm một tay chiến tướng, cho nên cả ngày chỉ tập võ và thích đi săn bắn, lấy thế làm vui; có người em tên là Cao Nữu cũng vậy.

Hồi năm Giáp Tuất (1874) là năm Tự Đức thứ 27 tỉnh Hà Tĩnh có giặc Cờ Vàng, tức là giặc Đội Lựu nổi lên, định tranh cướp thiên hạ với nhà Nguyễn. Cao Thắng lúc bấy giờ còn nhỏ tuổi quá, nhưng đã tình nguyện đi theo. Chưa đầy một năm, Đội Lựa chết, giặc Cờ Vàng tan, triều đình sai quân đi nã bắt những dư đảng rất ngặt, Cao Thắng sợ, phải trốn tránh lẩn lút khốn khổ.

Lúc đó, anh thứ hai cụ Phan là ông Phan Đình Thuật, mới đậu Cử nhân, ngó thấy Cao Thắng mới 13 hay 14 tuổi, đã đi theo giặc, chắc vì có cảnh ngộ sao đó, không phải chủ tâm phản bạn triều đình gì. Nay giặc bị đánh tan, dư đảng tới một thằng nhỏ như thế cũng sợ bị quan làng tróc nã, đến nỗi đào tẩu trốn tránh cực khổ, làm cho ông Thuật động lòng thương hại, ông bèn tìm cách che chở cho Cao Thắng khỏi bị bắt, và đem về nhà nuôi. Được 8 năm, ông Phan Đình Thuật mất thì Cao Thắng lại về làng ở.

Về làng, nhưng cũng không lo đường sinh nghiệp gì cả, sẵn trong mình có nghề võ, nên cùng với em và một người bạn tâm huyết là Nguyễn Kiểu, tối ngày chỉ ham tập quyền múa kiếm làm vui. Nguyễn Kiểu tụ họp mấy chục tên thủ hạ đi ăn cướp, nay làng này mai làng khác những nhà giàu có nội vùng, khổ sở với bọn ông, muốn bắt ông, nhưng sợ ông giỏi quá không sao bắt được. Tuy chính Cao Thắng không ăn cướp của ai, nhưng cũng mang tiếng là đầu đảng ăn cướp.

Kỳ thực, Cao Thắng vốn là người có chí lớn, chẳng qua thác tích vào đám lục lâm, để chờ có thời cơ sẽ ra giúp nước, không phải có ý muốn chung thân mai một ở giữa khoảng cỏ xanh nước biếc đâu.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #15 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2010, 01:43:29 am »


Cuối năm Ất Dậu (1885) cụ Phan khởi nghĩa, anh em ông cùng với Nguyễn Kiểu đem 60 tên thủ hạ ra xin theo. Cụ phong cho làm chức Quản Cơ và bảo sau sẽ trọng dụng, vì biết ông là người có tài. Quả nhiên, ông giúp cụ trong việc quân, mới đầu đã tỏ ra người chí tài giỏi. Cụ Phan rất yêu mến. Năm ấy ông mới có 20 tuổi.

Sau khi cụ Phan đã chạy ra Bắc rồi, các tướng sĩ đều giải tán hết, duy còn ông cùng với mấy người anh em đồng chí là Cao Nữu, Cao Đạt và Nguyễn Niên, thu nhặt lấy ít nhiều tàn quân về ẩn phục ở trong những rừng núi thuộc làng Lệ Động, là làng của ông để mưu cách khôi phục. Lúc này bạn thân của ông là Nguyễn Kiểu đã chết rồi.

Ông nghĩ rằng dùng binh mà không có tiền nhiều thì làm trò gì được, cho nên trước hết ông nghĩ cách lấy tiền cho nhiều.

Thủ đoạn ông lấy tiền khi ấy có khó gì đâu? Chỉ đem một vài chục tên lâu la xuống núi, xem làng xóm nào có nhà giàu xông vào đốt phá, cướp là lấy được tiền ngay, rồi lại đem quân vào rừng ẩn phục, ai làm gì nổi. Nhưng ông không làm. Một là biết rằng: đóng ở rừng núi như vậy là trốn tránh qua thời mà thôi, chứ không phải là nơi dụng võ. Hai là, nếu dùng lối cướp bóc thì làm náo động dân gian, lỡ ra đến phải đốt nhà giết người thì mang tiếng cho đạo quân nhân nghĩa. Ba là, thời bấy giờ là thời loạn lạc, nhà nào có tiền cũng bỏ làng trôi giạt đi xa để trốn tránh hoặc là chôn cất đi, mà chính ở vùng đó cũng không có mấy nhà giàu, thì lấy tiền vào đâu. Bởi thế ông dùng thủ đoạn “làm tiền” bằng một cách khác, là cách bắt cóc.

Trong nghề lục lâm có cái lối bắt sống những người nhà giàu về giam, rồi bắt đem tiền lại chuộc cho về gọi là cách bắt cóc, từ xưa ở xứ mình đã có rồi.

Ông cho thủ hạ đi dò la mãi, biết rằng hôm ấy có một chiếc thuyền chở mấy chục người hàng vải đi chợ Tràng (tức là chợ tỉnh Nghệ bây giờ) bèn đem 20 tên kiện nhi ra đón ở địa phận làng Triều Khẩu (thuộc phủ Hưng Nguyên, là phủ sở tại tỉnh Nghệ ) để bắt.

Khi thuyền đi ngang, ông chèo xuồng con ra đánh chìm và bắt sống cả bọn lái buôn đem về giam ở làng Nam Kim (thuộc huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An), chính là làng của vợ ông.

Dẫn họ về, ông hiểu dụ rằng: “Ta bắt các ngươi cũng là một việc cực chẳng đã, vì hiện nay nghĩa binh thiếu tiền hoạt động, cần có các ngươi giúp đỡ nhiều ít. Vậy các người viết thư về cho gia nhân, hạn trong một tháng đem tiền lại chuộc thì ta tha về”.

Trong một tháng, người nhà bọn kia đem tiền đến chuộc, ông tha về cả. Ông thu được 6.000 đồng bạc.

Ông bắt cóc bọn hàng vải lấy được 6.000 đồng bạc, có một chỗ dụng tâm sâu lắm, khổ lắm, là cốt lấy tiền để đúc súng. Vì thế, sau khi đã lấy được món tiền rồi thì ông đi tìm thợ. Tìm được bọn thợ, nhưng bảo họ lên núi làm việc cho mình, là kẻ cướp thì cũng là việc khó khăn, cho nên ông lại phải giở lối cũ ra, là cách bắt cóc. Ông tự đem mấy chục tên kiện nhi, về hai làng Trung Lương và Vân Trung (thuộc huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh), là hai làng làm nghề thợ rèn, bắt hết bao nhiêu thợ rèn trong làng ấy dẫn về Lệ Động, ở trong một khu rừng sâu để đúc súng. Đúc trong một tháng trời, được 200 khẩu súng hạt nổ của ta, thứ súng phải nhồi thuốc ở ống súng, rồi chỗ cò máy để hạt nổ, hễ nhận con cò máy có lửa bật ra thì đạn mới chạy. Cái mục đích của ông đến đó đã đạt được một ít.

Lúc bấy giờ, quân giới thì ông đã có 200 khẩu súng mời đúc, tướng thì có như các ông Cao Nữu, Cao Đạt, Nguyễn Niên, quân lính thì mới mộ thêm được 400 người. Trong 400 lính ấy, ông chia làm hai đoàn: một đoàn là lính súng; súng bao giờ giờ cũng nạp đạn sẵn; nhưng hễ lúc lâm trận, thì 100 khẩu súng bắn một hiệp trước, xong rồi nạp đạn thì lại đến 100 khẩu khác bắn một hiệp sau, cứ luân phiên như thế, thành ra khi đánh trận, lúc nào cũng có tiếng súng nổ liên thanh, khiến cho địch quân không biết nghĩa binh nhiều súng hay ít. Ấy, Cao Thắng dùng binh có cơ mưu đại khái như thế.

Súng có, quân có, tướng có, là lúc thanh thế của ông đã hơi to, đi đến đâu cũng có ít người địch lại. Giá ông phải là người tầm thường, chỉ lo khiết thân ẩn độn không chịu thần phục người Pháp, như bọn Điền Hoành ngày xưa cùng 3.000 tử sĩ ở chốn Hải Tần không chịu thần phục nhà Hán, thì khí giới ấy, binh lực ấy, nay đóng núi này; mai qua rừng khác, nay cướp làng nọ, mai cướp làng kia, để lấy lương ăn, cứ như thế mãi cũng có thể tung hoành ở trong chốn núi Hồng sông Lam được trọn đời mãn kiếp, làm một người lục lâm anh hùng, ai đánh dẹp cũng khó.

Nhưng mà cái chí khí của ông to. Ông còn nghĩ đến vua, đến nước, đến anh em đồng loại, đến chủ tướng cũ là cụ Phan; nói tóm lại, chí khí của ông là làm thế nào cho “nước Nam người Nam”, cho nên ông không lấy khí giới đó, tướng sĩ đó, làm tự túc mà muốn cho khí giời còn mạnh hơn, tướng sĩ còn đông hơn nữa.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #16 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2010, 01:45:55 am »


Ông là một người biết lượng sức mình, lại có tính quả quyết. Ông tự biết rằng sức quân của mình, sức súng của mình còn yếu quá chừng, ăn cướp thì được, đánh với quân Pháp chưa được, cho nên đêm ngày thường lo gây dựng thế nào cho thực lực của mình to lên. Bây giờ, vấn đề lương thực chẳng phải lo nữa, là vì oai danh ông lúc ấy to, dân gian quanh miền đã sợ, ông muốn bao nhiêu gạo, bao nhiêu tiền, chỉ viết giấy đi các chủ nhà giàu, khiến họ tự phải đem tiền gạo lại nộp, không mấy khi phải dùng võ lực.

Song còn một việc khiến cho ông phải lo nghĩ nhất, là vấn đề khí giới kiểu Pháp.

Ông đã từng bỏ ăn quên ngủ, nằm nghĩ đến một tháng trời, băn khoăn về vấn đề khó khăn này: “Đã làm thì tất phải làm to, mà những kiểu súng của ta, là kiểu súng ăn mày thế này, nào chùi súng, nào nạp thuốc mất công phu và thời giờ nhiều lắm, làm sao địch lại được với quân Pháp. Có muốn đánh với họ, tất phải có khí giới như họ mới được”.

Ông nghĩ rằng làm theo như kiểu súng Pháp cũng chẳng khó khăn gì, tuy mình không có tài sáng tạo nhưng có tài bắt chước được thừa, vì thế ông nghĩ mưu kế làm sao cho có một khẩu súng Pháp để ăn cắp kiểu.

Làm thế nào lấy được một khẩu súng Pháp để ăn cắp kiểu? Khó quá! Bảo rằng mua được, nhưng đường sá phần thì mắc nghẽn, phần thì xa xôi, đi đâu là mua. Bảo rằng đánh một đồn nào gần đó để cướp lấy một khẩu về, nhưng đồn nào cũng giữ gìn nghiêm nhặt, đánh đã chắc gì lấy nổi. Chỗ này, ông suy nghĩ gần muốn héo gan nát ruột, mà không biết làm thế nào. Ông vẫn nói rằng: “Hễ ai tìm được cho ta một khẩu súng kiểu Pháp, thì ta thưởng cho 1.000 đồng bạc”. Ai lấy được? Nhưng mà người có chí khí thường được trời giúp đỡ.

Thật thế, trong khi ông đang nghĩ quẩn nghĩ quanh nghĩ đến cách mua, nghĩ đến cách cướp, nghĩ mãi chưa biết làm thế nào, thì chợt có tên lính vào bẩm rằng: có một người lạ mặt, xin vào yết kiến để bẩm có việc cơ mật.

Ông cho vào. Ấy là người đem kiểu súng Pháp lại cho ông.

Binh gia nói: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” (tính việc ở người, thành việc ở trời), e có lẽ phải.

Cao Thắng muốn kiếm một khẩu súng của Pháp để bắt chước chế tạo, nhưng đang lo nghĩ ao ước không biết lấy ở đâu có một khẩu súng Pháp để làm kiểu bây giờ, bỗng dưng trời xui khiến một người khách lạ mặt tới ngay giữa quân môn giúp cho ông được như nguyện.

Người lạ mặt vô bẩm rằng:

- Nghe nói có lệnh của tướng quân truyền ra: hễ ai lấy được một khẩu súng Pháp đem nộp, thì sẽ được trọng thưởng 1.000 đồng bạc. Nếu bây giờ tôi lấy dâng cho tướng quân, không những một khẩu súng Pháp, mà tới 15 khẩu lận, thì tướng quân thưởng cho bao nhiêu?

Cao Thắng mừng lắm:

- Thôi, thế thì trong trại ta bao nhiêu tiền bạc, ta cho nhà ngươi lấy hết.

Thật ra lúc bấy giờ, ông cũng đã có một vài vạn bạc ở trong quân.

Người lạ mặt xin truyền cho tả hữu lui ra ngoài, rồi mật bẩm diệu kế. Té ra y có một người bà con đi lính tập ở tỉnh Nghệ An mới viết thư về nhà nói rằng: tới ngày mai đây có hai viên quan binh ở tỉnh thành Nghệ An dẫn 14 tên lính tập chở mấy hòm bạc lên đồn Phố (thuộc hạt Hương Sơn) để phát lương cho binh lính. Lẽ tự nhiên toán lính ấy có súng. Đó là một cơ hội trời giúp tướng quân. Vậy tướng quân nên sắp đặt cho nghĩa binh mai phục ở giữa đường, đánh toán lính tập mà cướp lấy súng của họ là được ngay, nào có khó gì?

Cao Thắng được tin cơ mật này, hết sức mừng rỡ, đưa tay lên trán và nói:

- Thật là trời giúp la phen này!

Tức thời, một mặt Cao Thắng cầm giữ người khách lạ mặt hảo tâm đó ở lại trong dinh chơi, một mặt hội chư tướng lại để thương nghị cách cướp súng.

Ông thì quyết kế là kéo hết quân mình ra đón đường liều đánh một trận tử chiến. Nhưng ông Cao Đạt vừa khoát tay vừa nói:

- Không nên! Anh tính kế làm như vậy là đem cả nghĩa binh và bản thân anh vào chỗ hiểm nguy tổn hại mà chắc là không xong việc. Quân ta chưa phải là quân thiện chiến, vả lại thứ súng cũ kỹ của mình bây giờ còn lôi thôi quá, đạn bắn ra nổ không mạnh, với không xa, tôi tưởng ngày nay nếu quân ta đem toàn lực ra đánh nhau đường trường cũng sợ không địch lại với 15 khẩu súng kia. Vậy thì không những ta làm đã chẳng thành công mà lại còn mang hại đến thanh thế của quân ta lúc ban đầu nữa. Theo ngu ý của em, việc này ta phải dùng mưu thì hơn, quyết không nên dùng lực. Em xin dâng kế “Xuất kỳ bất ý công kỳ vô bị”1 anh nghĩ sao?

Cao Thắng suy nghĩ một lát gật đầu khen phải.
______________________________________
1. Là nhè lúc người ta không phòng bị gì, mình nhảy ra đánh.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #17 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2010, 01:47:52 am »


Nguyên là con đường từ tỉnh Nghệ An đi lên đồn Phố (chỗ đó là làng Phố Châu, chính là huyện lỵ Hương Sơn đóng bây giờ, thuộc về tỉnh Hà Tĩnh) có nhiều chặng phải đi xuyên qua núi rừng rậm rì, hiểm trở. Giữa đường có một hòn núi trọc chận ngang, không có cây cối nào rậm và to, chỉ mọc toàn là lau sậy rất cao, chính giữa có một con đường độc đạo. Ông Cao Đạt hiến kế rằng chỉ nên lựa chọn mấy chục tráng sĩ, cầm đoản đao mai phục ở hai bên rừng lau sậy, chờ khi nào toán lính tập kia nghễu nghện đi qua, thì ta nổ một tiếng pháo làm hiệu, rồi hai bên tráng sĩ nhảy bổ ra, xuất kỳ bất ý mà đánh, tất được toàn thắng.

Cao Thắng y kế, và muốn bản thân làm việc khó khăn này, cho nên tức khắc xếp đặt công việc để ngày mai chính ông thân dẫn cả bọn Cao Đạt, Cao Nữu, Nguyễn Niên cùng hai mươi tên quân cảm tử, nai nịt gọn gàng, cầm đoản đao ra mai phục tại đó.

Quả nhiên, xế chiều hôm ấy, một toán gồm hai viên quan Pháp và 15 tên lính tập mang súng và khiêng hòm bạc, kéo nhau đi ngang qua rừng sậy đã nói trên. Bởi con đường độc đạo nhỏ hẹp, họ phải đi hàng một, lẻ tẻ từng người, trong trí không ngờ đâu giữa bãi lau sậy này mà có sự bất trắc.

Tiếng giày đi cồm cộp đàng xa, đủ làm dấu hiệu để báo tin cho phục binh hay trước. Tới chừng họ đi vào giữa khoảng nghĩa binh mai phục Cao Thắng nổi pháo lên làm hiệu, tráng sĩ mai phục hai bên nhảy ra, miệng vừa hò hét, tay vừa khoa đao, cứ mỗi người nhắm ngay một kẻ bên nghịch mà chém tung hoành loạn đả. Tội nghiệp cho hai viên tiểu tướng Pháp và 15 chú lính tập đều bị chém ngã hết, không sót một người nào, không ai kịp trở tay. Vì họ đang đi đường mệt nhọc, lẻ loi, bỗng dưng bị chém một cách thình lình như thế, làm sao không chết.

Thế là Cao Thắng lấy được 17 khẩu súng, trong đó có hai khẩu súng kiểu hai nòng, và 600 viên đạn, mấy ngàn đồng bạc nữa, mà phía mình không nhỏ một giọt máu, cũng không nhọc nhằn sức khỏe bao nhiêu.

Trở về sơn trại, ông mời người khách lạ mặt kia để trọng thưởng. Nhưng khách nói rằng:

- Thấy Tướng quân làm việc nghĩa hiệp, tôi vẫn hâm mộ, trời bèn xui khiến tôi đem lại cơ hội giúp cho tướng quân được thành công đó thôi. Tôi nào có công cán gì mà thưởng, vả lại tôi có phải vì ham số tiền thưởng mà tới đây bao giờ; hôm qua tôi hỏi thưởng bao nhiêu là nói chơi vậy mà. Số tiền thưởng này tôi xin để lại tướng quân nuôi binh sĩ, đúc khí giới, thế là tôi mừng. Trước khi từ biệt tôi xin hiến tướng quân bốn chữ “tiền đồ bảo trọng”1 xin ghi nhớ cho. Luôn dịp, có một bức thư kín đây, hễ ngày nào cụ Phan về, thì phiền tướng quân trình cụ giúp tôi, ngày nay hãy khoan mở ra.

Cao Thắng muốn hỏi tên họ, nhưng khách cũng không chịu nói, chỉ cười nhạt rồi đứng dậy vái, ra đi. Người này là thần tiên chăng? Là ẩn sĩ chăng? Là hiệp khách chăng? Là gì không ai biết.
____________________________________
1. Nghĩa là: bước đường sau này phải giữ gìn. Có lẽ người khách xem tướng mạo mà biết trước Cao Thắng, mai sau bạo chiến quá mà tử trận chăng?
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #18 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2010, 01:48:22 am »


Thuở giờ Cao Thắng chỉ ước mong có một khẩu súng Pháp để làm kiểu, nay đã được thỏa mãn sự mình mong ước rồi vậy. Cao Thắng gọi thêm rất nhiều thợ rèn, rồi kéo lên núi sâu, bắt đầu công việc chế tạo. Ông tự tháo một khẩu ra từng mảnh, để xem từ cơ quan thước tấc cho đến công dụng như thế nào, rồi đêm ngày ông ngồi một bên, đốc thúc bọn thợ rèn, cứ lấy từng mảnh ở súng Pháp, theo đúng hình thức dài ngắn rộng hẹp như thế nào mà rèn đúc. Mấy lần đầu còn hư hỏng lôi thôi. Nhưng hư hỏng thì ông lại bắt phá hết ra mà rèn đúc lại. Rèn đi đúc lại mãi mới được.

Công việc đúc súng này làm luôn trong mấy tháng ròng rã, được cả thảy 350 khẩu súng giống y súng Pháp. Duy có thuốc đạn thì còn phải dùng thuốc ta.

Ta nên biết Cao Thắng rèn đúc được 350 khẩu kiểu Pháp, thật có công phu khó khăn to lớn bằng rèn đúc mấy mươi vạn khẩu. Thật thế, lúc bấy giờ ông ta chỉ là một đám giặc cỏ, phải lẩn lút ở trong núi biếc rừng xanh, nào đã dám ra mặt chán chường, vậy thì lấy đâu được sắt, lấy đâu được đồng, lại lấy đâu được máy mà đúc, lấy đâu được thuốc nổ để mà chế ra đạn. Thế mà ông làm được đủ cả, là nhờ ông có trí xảo cơ mưu và có nghị lực nhẫn nại lắm. Ruột gà trong súng, thì ông dùng cây gọng dù uốn lại mà làm; sắt, thì ông cho người đi khắp các chợ và các miền nhà quê, mua những móng lừa, móng ngựa, các thứ sắt vụn, và những cày hư cuốc bể, của các nhà nông, đem về đập ra mà rèn; còn bì đạn thì ông góp nhặt những mâm đồng, nồi đồng, đập dẹp ra thật mỏng rồi cuốn lại. Sợ thiếu những nguyên liệu cần dùng, nên ông hạ lệnh cho các dân làng chung quanh, chia bớt những đồ đồng trong nhà mình cho nghĩa binh và đem lên sơn trại nộp để làm quân giới.

Ấy đó, Cao Thắng chỉ nhờ có những tài liệu góp nhặt như thế, mà rèn đúc được súng đạn hẳn hoi, thỉ chung chỉ dùng sức người, không có máy móc gì hết.

Tới đây, không những súng cũ và súng mới đã được hơn 500 khẩu, mà lương tiền cũng dồi dào, và số quân lính mộ thêm cũng tăng lên đến gần 1.000 người. Cao Thắng tự biết lúc này mình đã có gốc hơi vững, tức là có các cơ sở để tấn phát mãi lên và có thể bắt đầu mưu tính việc lớn. Nhưng phải có người danh vọng oai quyền để làm, cầm quân mới được.

Người đó đương thời, còn ai hơn là ông chủ tướng cũ hiện đang lưu lạc ẩn cư ngoài Bắc: ấy là Phan Đình Phùng.

Cao Thắng bèn sai người tâm phúc ra Bắc Hà rước cụ Phan về.

Phong trào võ lực phản đối ở ba tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, đã tịch mịch ít lâu, giờ lại nổi lên đùng đùng, và kéo dài ra được mấy năm nữa. Lần này có tổ chức, có khí giới, có kỷ luật, có oai danh, chính có người Pháp thẳng ngay đã nhìn nhận sự thật như thế.

Một võ quan Pháp dự cuộc đánh dẹp ở Nghệ Tĩnh hồi bấy giờ là Đại úy Gosselin, về sau viết ra cuốn sách có giá trị tựa là “Nước Nam “ (Empire d’Annam) trang 313, có đoạn nói về Phan Đình Phùng đại khái như vầy:

“Cuộc biến loạn của Phan Đình Phùng cầm đầu tràn lan rất mau và có thanh thế lớn. Sánh lại những đám phản đối nổi lên về trước không thấm vào đâu.

Nhưng vì phương lược cai trị, vả lại cũng không muốn làm xôn xao kinh hãi dư luận bên Pháp, cho nên ở đây người ta ráng giấu nhẹm được chừng nào càng hay, không nói rõ cho bên Pháp biết.

Lúc đó, người chủ tướng cầm đầu cả 4 tỉnh miền Bắc Trung nổi lên đánh lại binh ta, chứng tỏ ra một người có tài năng tổ chức lạ lùng: lại thêm ông ta có cái địa vị đậu Đình Nguyên, thành ra nhân dân quy phục hết thảy, vì dân này vốn trọng học vấn và kính mộ danh nho.

Té ra từ trước tới đây chúng ta không hay Phan Đình Phùng biết sắp đặt tập rèn quân lính theo như kỷ luật và binh pháp Âu châu; cho nên quân lính mặc y phục giống hệt một thứ với lính tập bản xứ của ta, lại mang khí giới là súng kiểu 1874 do ông bí mật chế tạo lấy rất nhiều, nhưng chế tạo ở chỗ nào không ai biết, tới nay chúng ta chẳng hề tìm ra.

Tôi có đem nhiều khẩu súng đó về tận bên Pháp; xem nó giống đủ mọi vẻ như súng của các xưởng binh khí nước ta chế tạo, đến nỗi tôi đưa cho các quan binh pháo thủ ta xem, các ông phải sửng sốt lạ lùng, chỉ hiềm vì nó khác với kiểu súng ta có hai chỗ này thôi: ruột gà không đủ sức mạnh và trong lòng súng không có vẻ rãnh (rayures), vì đó mà đạn bắn ra không xa, không mạnh. Tuy vậy, những súng đó đã từng bắn chết ít nhiều lính khố xanh, cai đội Pháp và lính tập, vì thật ra lúc bấy giờ chỉ có lính khố xanh ra xông pha đánh dẹp đám loạn này, ta phải nói rằng lính ấy đã xuất lực và thành công một cách vẻ vang”.


Ta xem Đại úy Gosselin đã từng mục kích và phải nhìn nhận sự thật như thế, đủ biết đương thời nghĩa binh cụ Phan cầm đầu không phải giặc cỏ, hay cuộc phản đối tầm thường. Kỳ thật có tổ chức, có khí giới, có lực lượng ít nhiều, ta nên biết những thành tích ấy do một tay lược thao kỳ xảo của thượng tướng quân Cao Thắng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #19 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2010, 01:50:43 am »


Phần IX
Ở BẮC VỀ


Sau lúc làng Đông Thái bị phá, Phan phải kéo tàn quân lên đóng ở hai hạt Hương Sơn, Hương Khê; lại sau lúc ở Hương Sơn, Hương Khê thất bại nữa, cụ chạy ra ngoài Bắc, có nhiều người cho thế là việc lớn hư hỏng tan tành mất rồi. Cụ chạy, thế là cuộc phản đối tiêu hết!...

Nhưng mà nó chưa tiêu hết đâu.

Sự thật, trước khi bước chân lên đường ra đi Bắc Hà, Phan có định sẵn hai cái chủ kiến, hai cái cơ mưu, thế nào rồi cũng thực hành được một. Hoặc là hiệu triệu anh em kiện nhi chí sĩ ở Bắc Hà nổi lên để gây nên thinh thế tương ứng với cụ ở đàng trong và chia bớt cái mãnh lực của binh lính Bảo hộ đi; hoặc là trông mong tin cậy một người anh tài được cụ thanh nhãn là Cao Thắng tướng quân, ở nhà có thể tom góp sức tàn, rồi lại đánh trống mở cờ, quật cường phen nữa. Vả chăng, có xét kỹ cái tình thế của cụ hồi bấy giờ, mới biết là không thể không thua, đã thua không thể không chạy, đã chạy không thể không ra Bắc.

Song, trước khi muốn xét ra những cái nguyên do này vì đâu, tôi tưởng chúng ta hãy nên nhìn biết cái tâm tích của cụ Phan một chút đã, vì cụ trước kia vốn là người chủ hòa kia, thế sao về sau lại trở ra một người khác hẳn: liều gan ra mặt chống cự với người Pháp tới cùng?

Thật vậy, cụ là người hiểu biết thời thế, không phải như hạng nhà nho hủ lậu cố chấp ở đồng thời, đại khái như Võ Phạm Khải là tác giả bài luận “Biện Di” chẳng hạn.

Ta xem hồi năm 1877, cụ là một thầy cử nhân vô kinh thi Đình, chính vua Tự Đức ra đầu bài thi Đình đối, có đoạn hỏi về thiên hạ đại thế như vầy: “Các nước Thái Tây họ làm thế nào mà nước họ mỗi ngày một thêm hưng vượng phú cường?”. Tới một đoạn khác, ngài hỏi về quốc gia đại sự lúc bấy giờ: “Nước Phú Lãng Sa vốn là một nước trọng tín nghĩa, cho nên đem trả lại ta bốn tỉnh Bắc Kỳ mà An nghiệp (Francis Garnier) đã lấy hồi năm 1873, còn sáu tỉnh trong Nam kỳ, phải chi Phú Lãng Sa cũng đem trả nốt cho ta, rồi hai nước lại giao hảo buôn bán với nhau không hay hơn ư? Nhưng vì lẽ gì nước Phú Lãng Sa vẫn lần khân chưa chịu trả lại, và nay nếu như nước ta muốn thâu phục 6 tỉnh Nam kỳ lại thì nên làm thế nào?

Trong bài Đình đối của Phan viết hồi đó, đã bàn xa xét rộng về nguyên nhân cường thịnh của các nước Thái Tây, vì họ vốn có thông minh vụ thực, lại biết trọng khoa học thực tế, cho nên nhất thiết việc gì cũng xét cho cạn lẽ, làm cho tới nơi, không chịu hồ đồ biếng nhác như mình. Cụ lại đem nước Nhật Bản ở phương Đông mình ra làm chứng; vì Nhật sớm biết duy tân tự cường, thành ra họ có cơ chắc chắn một mai sánh vai nối gót được với các nước Âu châu.

Ta nên biết hồi cụ Phan nói đây, Nhật Bản đã bắt đầu công cuộc duy tân được mười năm rồi.

Xem vậy, thì ra đang lúc sĩ phu nước nhà còn đang say mê chìm đắm ở giữa cái nguồn học vấn từ chương hủ lậu cố chấp, mà cụ Phan đã hiểu biết đại khái về tình thế thiên hạ như thế, đâu phải là người không thức thời?

Còn câu hỏi thứ hai thì cụ trả lời rằng: “Sự thế Bắc kỳ và Nam kỳ khác nhau. Người Phú Lãng Sa phải trả bốn tỉnh Bắc kỳ, vì tự họ đã trái với điều ước mà lấy bướng của ta. Còn như sáu tỉnh Nam kỳ thì đã có điều ước triều đình ký nhường cho họ, cho nên họ còn lần khân kiếm cớ mà không chịu trả. Vả chăng họ giữ lấy sáu tỉnh ấy mà không trả, là vì có hai lẽ: một là để cho vững vàng hòa ước ở giữa hai quốc gia, vì nước Phú Lãng Sa cùng ta, tuy có tình cũ nghĩa xưa mặc lòng, nhưng mà ngày nay họ băng qua muôn ngàn dặm tới đây, buổi đầu chưa tin được tấm lòng ta chân giả thế nào, thành ra họ còn phải giữ lấy đất đai đã nhường, để cho mạnh cái thế lực địa vị của họ, và để làm căn cứ cho cuộc hòa với ta. Hai là sáu tỉnh đàng trong vốn là nơi đất ruộng tốt, thóc lúa nhiều, hèn chi họ có lòng ham tiếc không trả. Nay muốn thâu phục lại, thì điều cần trước hết xin triều đình bỏ hẳn tấm lòng ngờ vực đi. Ngày xưa Khổng Tử làm tướng nước Lỗ, mà nước Tề đem những đất ruộng đã xâm chiếm trả lại cho nước Lỗ, chỉ vì ngài lấy lòng chí thành đối đãi, khiến cho cảm động được nước Tề vậy. Thế thì sự thế nước nhà ngày nay, triều đình cũng nên lấy lòng chí thành mà đối với nước Phú Lãng Sa thử coi. Vả lại, muốn làm việc lớn, đừng thèm kể gì những sự tốn hao nho nhỏ, có vậy mới nên việc lớn được. Nếu xem trong ý người Phú Lãng Sa thiệt lòng ham lợi không buông, thì ta có cách lấy món lợi khác cho tương đương, xấp xỉ, mà xin đổi chác với họ, ví dụ như lấy thuế cửa biển trao quyền cho họ mà đổi lấy Nam kỳ, có lẽ họ chịu, hoặc là xin bồi khoản thêm nhiều cho họ, rồi trả lần hồi, cũng là một cách,...”

Trong lúc ai nấy cũng xui vua Tự Đức lấy binh lực để thâu phục sáu tỉnh Nam kỳ, mà trái lại, cụ Phan thì hiến kế ôn hòa và có phương lược như thế, chứng tỏ ra cụ là người chịu hòa ngay từ ban đầu, vốn không có ý gì sinh sự hay là dùng binh đối với người Pháp vậy.

Đến lúc cụ làm quan ở trong trào, ông Tôn Thất Thuyết sinh sự nghịch thù chống chọi người Pháp luôn, cụ Phan cũng không phụ họa cản ngăn hay nói gì tới, nghĩa là cụ không muốn đứng vào phương diện ấy. Lại như sau khi đã bị cách chức về làng ở, định lấy cái thú điền viên làm nơi chung lão, không muốn quan tâm gì đến việc đời nữa. Vì cụ: biết rằng: sự mất nước là tại vua quan mình dở, dân chúng mình hèn, vận số nước mình đến lúc phải bị hành phạt, vậy thì cuộc Bảo hộ là do lịch sử đã xếp đặt xong quách đi rồi, mà cũng có thiên ý khiến vậy, còn cưỡng làm gì nữa. Cưỡng, làm gì có người; cưỡng, làm gì có sức?

Cụ vẫn nói với các bạn đồng tâm rằng: “Phải chi hồi trước mà vua mình cũng biết thời thế, biết lo lắng về việc duy tân như vua Minh Trị nước Nhật Bản kia; bọn quan lại mình đừng có ươn hèn khốn nạn quá, và lại có một số đông người thức thời chí sĩ như hạng Nguyễn Trường Tộ, cố sức duy tân biến pháp, thì làm gì đến nỗi mất nước”. Nay nước đã mất rồi, người ta trở lại đổ tội cho Nho giáo, nhưng cụ Phan nói không phải tội ở Nho giáo, mà tại nơi ta học Nho giáo không phải đường. Nho giáo gốc ở nước Tàu, mà chính nước Tàu cũng khốn đốn, ta theo nước Tàu cũng đắm đuối theo, là vì mình và Tàu chỉ ôm riết lấy Nho giáo theo phái Châu Tử, cố chấp, bảo thủ quá, thành ra trì trệ mà không tiến hóa được. Đến lúc người Pháp qua lấy đất nọ phá thành kia lung tung, mà sĩ phu mình còn chưa tỉnh ngộ. Xem Nhật Bản kia, họ cũng theo Nho giáo đó chứ gì, nhưng họ được lợi hơn, vì họ biết cái học thuyết Vương Dương Minh phải tùy thời biến thống; cho nên đến khi tiếp xúc với Tây phương một chút, là họ động lòng tri bỉ tri kỷ là tự cường tấn hóa ngay. Bao nhiêu triệu người chỉ vì học sai và cố chấp hủ bại, đã té nhào xuống cả rồi, dẫu mình cụ có chí nâng dậy, nhưng lấy sức đâu mà nâng cho nổi.

Song cụ không chịu thần phục người Pháp, là vì cụ đã chịu người Pháp về võ lực thì thôi, chứ không muốn đem thân ra cho sự “thay nhà đổi chủ” nó làm lụy được mình, dù biết là có ích ngay cho mình cũng vậy. Cụ chỉ muốn tự cao tự khiết lấy mình mà thôi.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM